Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Bai thi lich su dang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (236.88 KB, 28 trang )

BÀI THI
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG
Vấn đề 1: Nhận xét của đ/c về phong trào yêu nước của nhân dân ta đầu thế kỷ 20. Quá
trình tìm đường cứu nước của đ/c Nguyễn Ái Quốc đối với chủ nghĩa Mác – Lênin từ 1911 đến
1920 và những cống hiến của Người về chính trị để chuẩn bị thành lập chính Đảng đầu tiên ở
Việt Nam. Theo đ/c cuối năm 1929 đầu năm 1930 lịch sử Đảng bộ Quảng Trị có những vấn đề gì
nổi bật.
* Nhận xét về phong trào yêu nước của nhân dân ta đầu TK 20:
Từ khi thực dân Pháp xâm lược (1858) đến những năm 20 của thế kỷ XX đã có hàng trăm cuộc
đấu tranh anh dũng của dân tộc ta chống kẻ thù xâm lược nhưng đều thất bại
nhân dân ta phải sống cuộc sống vô cùng cơ cực, cơm không có ăn, áo không có mặc, người dân
phải làm thân nô lệ, bị bóc lột đến tận xương tủy, không chịu nỗi sự đàn áp, bóc lột dã man của thực
dân Pháp, đến những năm đầu TK 20 các phong trào yêu nước tự phát nỗ ra chống lại kẻ thù xâm lược
với mục đích đòi có cơm ăn, áo mặc, đòi được tăng lương, như đã có hàng trăm cuộc đấu tranh anh
dũng của dân tộc ta chống kẻ thù xâm lược. Tiêu biểu là phong trào Cần Vương do Tôn Thất Thuyết
cầm đầu (1885-1896); Phong trào yêu nước tiêu biểu là xu hướng bạo động của Phan Bội Châu và xu
hướng cải cách của Phan Chu Trinh; Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản mà đỉnh
cao là cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo. Tất cả các phong trào chống thực dân
Pháp theo ý thức hệ phong kiến, tư sản của nhân dân ta diễn ra sôi nổi và liên tục, nhưng tất cả đều
không thành công. Sự thất bại của các Phong trào yêu nước Việt Nam và rơi vào khủng hoảng, bế tắc
về đường lối cứu nước chính là do thiếu đường lối và sự lãnh đạo đúng đắn của một tổ chức tiên
phong, đòi hỏi Việt Nam phải có một tổ chức CM có khả năng dẫn đường đưa phong trào cứu nước đi
đến thắng lợi.
Nguyễn Ái Quốc, người thanh niên giàu lòng yêu nước đã sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp,
giải phóng đồng bào. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối, nhưng không tán
thành con đường cứu nước của các cụ.Vượt qua tầm hạn chế của những sĩ phu yêu nước đương thời,
Người quyết chí ra nước ngoài tìm con đường cứu nước mới.
* Quá trình tìm đường cứu nước của đ/c Nguyễn Ái Quốc đối với chủ nghĩa Mác – Lênin
từ 1911 đến 1920
Sống trong cảnh đất xâm lăng, nhân dân bị đạo đày gian khổ, ngày 05/6/1911 đ/c Nguyễn Ái
Quốc ra đi tìm đường cứu nước, sau khi đến nhiều nước trên thế giới và trải qua nhiều nghề lao động


khác nhau. Người đã rút ra một kết luận: ở đâu bọn đế quốc thực dân cũng tàn bạo độc ác, ở đâu người
lao động cũng bị bóc lột dã man.
Khi CM Tháng Mười Nga thành công, Nguyễn Ái Quốc từ nước Anh trở lại nước Pháp, Người
tham gia các hoạt động chính trị tại Pháp; đầu năm 1919 NAQ tham gia Đảng xã hội Pháp, NAQ đã
tán thành việc gia nhập Quốc tế thứ III và biểu quyết sáng lập ra Đảng CS Pháp; Tháng 6 năm 1919
NAQ đưa bản yêu sách của người Việt Nam đến Hội nghị Véc Xây; Tháng 7 năm 1920 NAQ đọc bản
sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin đăng trên
Báo Nhân đạo; Luận cương của Lênin, lý luận của Lênin và lập trường của Quốc tế cộng sản về CM
giải phóng dân tộc là cơ sở để Người gia nhập Quốc tế cộng sản; NAQ trở thành chiến sĩ cộng sản đầu
tiên của g/c CN và dân tộc Việt Nam; NAQ tích cực truyền bá CN Mác-Lênin về VN nhằm chuẩn bị
tiền đề về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra đời của chính Đảng tiên phong ở Việt Nam.
1


* Những cống hiến của Người về chính trị để chuẩn bị thành lập chính Đảng đầu tiên ở Việt
Nam
Trong thời gian ra đi tìm đường cứu nước và hoạt động CM, NAQ đã cho ra đời hệ thống các quan
điểm vê con đường giải phóng dân tộc đó là:
- Chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới,
là kẻ thù trực tiếp nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa;
- Các dân tộc bị áp bức và thuộc địa muốn giải phóng thì phải dựa vào sức mình là chính;
- Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cách mạng vô sản ở “chính quốc” có
quan hệ khăng khít với nhau;
- Cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận cách mạng trong thời đại đế quốc và cách mạng
vô sản. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải phóng nhân dân Lao động, giải phóng giai cấp công
nhân
- Cách mạng muốn thành công phải có lực lượng của toàn dân tham gia, vì CM là việc chung của
dân chúng, trong đó công nông là gốc của CM. Phải thực hiện sự liên minh chiến đấu giữa các lực
lượng CM ở thuộc địa và “chính quốc”.
- Cách mạng thuộc địa không phụ thuộc vào CM vô sản ở “chính quốc” mà có tính chủ động, độc

lập và có thể thành công trước CM ở chính quốc và góp phần đẩy mạnh CM ở chính quốc tiến lên.
Giương cao ngọn cờ chống đế quốc và bọn phong kiến tay sai, giành độc lập, tự do là tư tưởng chiến
lược CM đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc về CM thuộc địa.
- CM thuộc địa, trước hết là giải phóng dân tộc, mở đường tiến lên giải phóng hoàn toàn lao
động, giải phóng con người, tức là làm CM XHCN, phải thực hiện sự liên minh, đoàn kết với các lực
lượng CM quốc tế, phải có Đảng CM để lãnh đạo đấu tranh CM.
Hệ thống quan điểm CM đúng đắn và sáng tạo đó là nội dung tư tưởng CM giải phóng dân tộc
theo CN Mác Lênin của Người. Hệ thống quan điểm trên được truyền vào Việt Nam nhằm chuẩn bị về
tư tưởng và chính trị cho việc thành lập Đảng
Trên đây là những cống hiến quan trọng của NAQ về lý luận CM thuộc địa, là sự chuẩn bị về
chính trị cho một Đảng chân chính sắp ra đời ở Việt Nam
Hệ thống quan điểm, lý luận về con đường CM của Nguyễn Ái Quốc trở thành tư tưởng cách
mạng hướng đạo phong trào dân tộc và các tổ chức chính trị theo khuynh hướng CM vô sản, dẫn đến
sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam: Đông Dương cộng sản Đảng (6-1929), An Nam cộng
sản Đảng (7-1929) và Đông Dương cộng sản liên đoàn (9-1929).
Yêu cầu bức thiết đặt ra lúc này là: phải thống nhất các tổ chức Đảng thành một Đảng duy nhất
để lãnh đạo CM Việt Nam đấu tranh giành độc lập. Từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930 hội nghị thống nhất
Đảng đã họp tại Cửu Long (Hương Cảng) dưới sự chủ trì của NAQ đã nhất trí hợp nhất các tổ chức
cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng CS VN; thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của các hội quần chúng. Văn
kiện quan trọng của Đảng được Hội nghị thông qua là: “Cương Lĩnh cách mạng đầu tiên của Đảng
CSVN”.
* Theo đ/c cuối năm 1929 đầu năm 1930 lịch sử Đảng bộ Quảng Trị có những vấn đề gì nổi
bật.
Vào khoảng thời kỳ cuối năm 1929 đầu năm 1930, Tỉnh Quảng Trị nói chung và Đảng bộ Quảng
Trị nói riêng có những vấn đề nổi bật mà chúng ta, những người con Q Trị không thể không tìm hiểu
quá trình thành lập đảng bộ Quảng Trị, qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, tại bài làm hôm nay, là học
viên đang học tại trường xin nêu lên những vấn đề nỗi bật của lịch sử Đảng bộ Quảng trị như sau:
2



Đoàn Đại biểu Bắc kỳ đã đưa ra đề nghị thành lập ĐCS với mục đích tổ chức DCS dẫn đạo cho
vô sản giai cấp làm cách mệnh, Cùng thời điểm này, ngày 15/5/1929 Trần văn Cung đến Quảng Tri
gặp Nguyễn Đình Cương bàn về vấn đề giải tán thanh niên, thành lập nhóm cộng sản ở địa phương.
Ngày 16/5/1929, Nguyễn Đình Cương đã triệu tập số hội viên thanh niên tích cự ửng hộ việc tổ
chức cộng sản tại làng long hưng (Hải Lăng) để giới thiệu khái quát về CNCS và chuyên chính vô sản,
đường lối CM ở Đông dương. Tại đây, tất cả hội viên thanh niên có nhất trí tuyên bố giải tán thanh
niên, thành lập tổ chức CS. Nhóm CS đầu tiên của Quảng Trị được thành lập gồm các đ/c: Nguyễn
Đình Cương, Đoàn Lân, Trần Hữu Dực, Trịnh Đức Tân, Hoàng thị Ái, , Nguyễn Đạm, Trần Ngung.
Thông qua Đoàn Bá Thừa để nhóm CS Quảng Trị vận động bà Đoàn Thị Ái ở An Tiêm nuôi đ/c
Trần Hữu Dực, mở lớp dạy trẻ em học và làm nơi liên lạc và cơ sở hoạt động của nhóm.
Ngày 19/6/1929 Nhóm CS Quảng Trị được đ/c Nguyễn Phong Sắc – Bí thư xứ ủy lâm thời Trung
kỳ đưa truyền đơn và tài liệu của Đông dương CS Đảng để in và phát rộng rải trong tỉnh và khu vực
trung kỳ, nội dung truyền đơn là vạch rõ mục tiêu phương hướng đất tranh CM của Đông dương CS
Đảng. Việc rãi truyền đơn và thư của Đông dương CS Đảng đã ảnh hưởng vang dội trong tầng lớp
nhân dân, việc làm này đã làm cho bọn quan lại của chính phủ nam triều tìm mọi biện pháp đối phó,
bắt Đảng viên và Hội viên thanh niên.
Nguyễn Đình Diệm- Tri phủ Hải Lăng, tên phản động đội lốt tôn giáo, tên tay sai đắc lực của
thực dân pháp đã không từ một thu đoạn để chống phá CM, hắn cho thu giử truyền đơn, cất giấu tài
liệu, bắt giam thanh niên, chỉ trong 2 tháng 7 và 8 năm 1929 toàn tỉnh Q trị bị bắt 60 người, trong đó
có 39 hội viên VNTNCM Đồng Chí Hội và cùng nhiều đảng viên tân việt, hội viên của Hưng nghiệp
hội xã.
Những người bị bắt bị giam ở nhà đày Lao bảo và nhà lao Quảng Trị. trong thời gian bị giam ở
nàh lao Quảng Trị, đ/c Trần Hửu Dực cùng một số đảng viên CS, Hội viên viên VNTNCM Đồng Chí
Hộị đa giúp đở nhau lúc ốm đau, đối phóa với kẻ địch, cùng nhau tổ chức đấu tranh chống lại chế độ
hà khắc của nhà tù, đòi cải thiện sinh hoạt trong nhà tù, tổ chức tuyệt thực 7 đến 10 ngày mỗi đợt. cuối
cùng tên ám sát tỉnh Quảng trị đã đến trại giam tuyên bố giải quyết các yêu sách mà các d/c đưa ra.
Dù ở trong tù nhưng đ/c Trần Hửu Dực vẫn vận động anh em bớt suất ăn của mình hàng ngày để
lấy tiền mua giấy mực xuất bản tờ báo tiến lên, nội dung tờ báo giới thiệu về Đảng CSĐông dương và
giửi thích chủ trương của đảng bằng mọi phương pháp để xây dựng lại cơ sở đảng tại Q Trị.

Tháng 11/1929 Đoàn Bá Thừa đã thành lập chi bộ An Tiêm gồm 4 đ/c Đoàn Bá Thừa , Nguyễn
Kháng, Nguyễn Bệc, Nguyễn thị Trúc.
Trong thời gian này, Lê Viết Lượng được đ/c Hoàng Thị Ái cung cấp tình hình Q trị, Lê Viết
Lượng đã bắt mối với Lê Thế Tiết, khi gặp nhau họ bà cách tổ chức thành lập các chi bộ: Tường Vân
(triệu Phong), Tân Tường (Cam lộ), cùng với chi bộ An tiêm, đây là ba chi bộ được thành lập sớm
nhất tại Q trị.
Sau khi DCS VN được thành lập (03/2/1930) việc XD cơ sở Đảng, thành lập các chi bộ ở Q trị đã
được xúc tiến mạnh mẽ hơn và đã có hàng chục chi bộ được thành lập
Đầu tháng 4/1930 đ/c Trần Hửu Dực đã họp với các bí thư chi bộ ở nà ông Nguyễn Huyên ở làng
vệ nghĩa để bàn bạc thống nhất vạch ra một số công việc phải làm, trong đó:
+ Cũng cố phát triển các chi bộ đảng, khi có nghị quyết và điều lệ đảng do do thượng cấp đưa về
thì tiến hành ngay việc mở hội nghị thành lập tỉnh ủy Quảng trị.
Giữa tháng 4/1930 phái viên của phân khu xứ ủy trung kỳ đến gặp đ/c lê Thế Tiết tại Gia đình ở
làng Tường vân bàn về việc lập Ban vận động thành lập Đảng bộ ĐCSVN tỉnh Quảng Trị
Ngày 21/4/1930 Hội nghị đã được tổ chức tại nhà ông Nguyễn Phu ở làng Đại Hào (Triệu
phong), Hội nghị đã nhất trí thành lập BCH lâm thời ĐCSVN tỉnh Quảng Trị gồm 3 ủy viên: Lê Thế
3


Tiết, Nguyễn Hữu Mãi, Trần Hữu Dực, cử đ/c Lê Thế Tiết làm Bí thư tỉnh ủy đầu tiên của Đảng bộ
Quảng Trị.
Vấn đề 2: Thời kỳ 1930-1945 mà nổi bật là giai đoạn 1939-1941 đánh dấu sự chuyển biến chiến
lược sắc sảo của Đảng ta được thể hiện như thế nào để chuẩn bị cho thành công của cánh mạng
tháng 8/1945? Những đóng góp của các địa phương tỉnh Quảng Trị góp phần làm nên thắng lợi
rực rỡ của cách mạng tháng 8/1945.
Đảng chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc
Ngày 1-9-1930, phát xít Đức tấn công Ba Lan. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ.
Chiến tranh thế giới ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình mọi mặt ở Đông Dương. Thực hiện chính
sách thời chiến, thực dân Phát điên cuồng tấn công Đảng Cộng sản Đông Dương và các đoàn thể quần
chúng, các tổ chức do Đảng lảnh đạo. Một số quyền tự do dân chủ giành được trong thời kỳ 19361939 bị thủ tiêu.

Hai tháng sau khi chiến tranh bùng nổ, Trung ương Đảng họp từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939 tại Bà
Điểm (Gia Định), do đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Tổng Bí thư của Đảng chủ trì. Hội nghị đả phân tích
sâu sắc bản chất cuộc chiến tranh, đặc điểm cơ bản cách mạng Đông Dương xác định: mục tiêu chiến
lược trước mắt cuả cách mạnh Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng Đông Dương,
làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị quyết định thay đổi một số khẩu hiệu, chuyển
hướng hình thức tổ chức và hình thức đấu tranh. Tạm gác khẩu hiệu “ tịch thu ruộng đất của giai cấp
địa chủ”, chỉ chủ trương “ tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai”. Không nêu khẩu hiệu lập Chính
phủ Xôviết công nông binh mà đề ra khẩu hiệu thành lập Chính phủ Liên bang cộng hòa dân chủ Đông
Dương. Quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân
chủ Đông Dương.
Sự sáng tạo và nhạy bén nhất của Hội nghị là đã nêu ra phương hướng chiến lược tập trung mũi
nhọn của cách mạng vào đế quốc và tay sai, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, chuẩn bị điều
kiện giành chính quyền.
Ngày 22-9-1940, quân Nhật từ Trung Quốc đánh vào Lạng Sơn, quân Pháp bỏ chạy. Ở những nơi
pháp bỏ chạy chính quyền địch lung lay dữ dội. Trước tình hình đó, ngày 27-9-1940, Đảng bộ Bắc Sơn
kịp thời lảnh đạo nhân dân đứng dậy khởi nghiac giành chính quyền ở huyện lỵ. Khởi nghĩa Bắc Sơn
mở đầu thời kỳ kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, gây tiếng vang trong cả nước, thức
tỉnh mạnh mẽ nhân dân vùng dậy đấu tranh.
Từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, Hội nghị Trung ương họp tại làng Đình Bảng (Bắc Ninh). Hội
nghị khẳng định chủ trương nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, tạm rút khẩu hiệu ruộng đất của hội
nghị Trung ương tháng 11-1939 là đúng. Hội nghị quyết định duy trì lực lượng vũ trang Bắc Sơn và
chủ trương thành lập những đội du kích hoạt động phân tán, dùng hình thức vũ trang vừa chiến đấu
chống địch, bảo vệ nhân dân, vừa phát triển cơ sở cách mạng, tiến tới thành lập khu căn cứ, lấy vùng
Bắc Sơn, Vũ Nhai làm trung tâm. Về đề nghị khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ, Hội nghị nhận định rằng:
điều kiện khởi nghĩa chưa chín muồi nên không cho phép Xứ ủy Nam Kỳ phát động khởi nghĩa.
Nhưng khi đồng chí Phan Đăng Lưu về đến Sài Gòn thì lệnh khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ đã phát đi
khắp nơi. Hội nghị đả cử ra Ban chấp hành Trung ương lâm thời và phân công đồng chí Trường Chinh
làm Quyền Bí thư.
Ngày 23-11-1940, khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ. Tuy thất bại nhưng Đảng bộ và nhân dân Nam
Kỳ đã đấu tranh cực kỳ anh dũng, nêu tấm gương sáng về ý chí cách mạng.

4


Ngày 13-1-1941, binh lính yêu nước trong quân đội Pháp do Đội Cung (Nguyễn Văn Cung) chỉ
huy làm binh biến đánh chiếm đồn chợ Rạng (Đô Lương, Nghệ An) rồi tiến về Vinh. Cuộc nổi dậy này
bị thực dân Pháp dập tắt.
Hai cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và cuộc nổi dậy của binh lính Đô Lương diễn ra ở cả ba
kỳ Bắc, Trung, Nam và trong hơn ba tháng (tháng 9-1940 tháng 1-1941) chưa dành được thắng lợi,
nhưng đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng vũ
lực của cách mạng Việt Nam. Các cuộc khởi nghĩa đó đã cho Đảng ta những kinh nghiệm quý báu về
khởi nghĩa.
Ngày 28-1-1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ nước ngoài về Cao Bằng. Đồng chí triệu tập Hội
nghị Trung ương họp tại Pác Bó (Cao Bằng), từ ngày 10 đến ngày 19-5-1941.
Hội nghị xác định:”Nhiệm vụ giải phóng dân tộc, độc lập cho đất nước là một nhiệm vụ trước tiên
của Đảng ta”. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận Việt Nam
độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh. Ngày 19-5-1941, Mặt trận Việt Minh chính thức được thành
lập. Các đoàn thể quần chúng đều lấy tên là Hội Cứu quốc thay cho Hội phản đế trước đây. Hội nghị
đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa ba dân tộc trên bán đảo Đông Dương. Hội nghị chủ trương
không giũ khẩu hiệu thành lập Chính phủ Liên bang cộng hòa dân chủ Đông Dương như trước đây, mà
giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ của từng nước. Hội nghị chỉ rõ: chuẩn bị khởi nghĩa vũ
trang là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Hội nghị cử ra Ban chấp
hành Trung ương Đảng, bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư, bầu Ban Thường vụ gồm các
đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt.
Hội nghị Trung ương tháng 5-1941 đả hoàn chỉnh đường lối giải phóng dân tộc và cùng với Nghị
quyết Hội nghị Trung ương năm 1939 và 1940 là một trong những nhân tố đưa đến thắng lợi của Cách
mạng Tháng Tám 1945.
Sau Hội nghị Trung ương tháng 5-1941, Đảng ta bắt tay vào việc triển khai tổ chức thực hiện
Nghị quyết, xây dựng Mặt trận Việt Minh, phát động phong trào đánh Pháp, đuổi Nhật, chuẩn bị khởi
nghĩa giành chính quyền. Cùng với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh là sự ra đời các đoàn thể cách
mạng: Công nhân Cứu quốc, Nông dân Cứu quốc, Thanh niên Cứu quốc, Phụ nữ Cứu quốc…. Việt

Minh và các đoàn thể Cứu quốc được thành lập đã phát huy vai trò to lớn trong việc động viên, tổ chức
toàn dân đứng lên đánh Pháp, đuổi Nhật, cứu nước, cứu nhà.
Sau khởi nghĩa Bắc Sơn, thực hiện chủ trương của Trung ương duy trì và phát triển đội du kích
Bắc Sơn thành đội cứu quốc quân để làm nòng cốt cho việc xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng,
xây dựng căn cứ địa Bắc Sơn-Võ Nhai. Cuối năm 1941, đồng chí Nguyễn Ái Quốc quyết định thành
lập đội tự vệ võ trang Cao Bằng đê thúc đẩy việc xây dựng cơ sở chính trị và chuẩn bị cho việc xây
dựng lực lượng vũ trang.
Trong thời gian này, để đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động trong Đảng, Đảng đã kiên
quyết đấu tranh chống lại những khuynh hướng chia rẽ, bè phái, phê phán khuynh hướng hữu hoặc tả
trong công tác chuẩn bị khởi nghĩa.
Những đóng góp của các địa phương tỉnh Quảng Trị góp phần làm nên thắng lợi rực rỡ
của cách mạng tháng 8/1945.
Sau khi Nhật đảo chính Pháp, ngày 9-3-1945 phát xít Nhật đã kéo đến Quảng Trị. Chúng thành
lập chính quyền bù nhìn do Phan Văn Hy làm tỉnh trưởng. Sự áp bức của phát xít Nhật và tay sai đã
làm cho cuộc sống của mọi tầng lớp nhân dân ngày càng điêu đứng, cùng quẫn. Ý thức giác ngộ của
quần chúng nhân dân ngày càng được nâng cao. Giữa lúc đó nhiều đảng viên cộng sản từ các nhà tù đế
quốc lần lượt được trả tự do trở về tham gia lãnh đạo phong trào cách mạng trong tỉnh. Đây chính là
lực lượng chủ chốt, là một trong những nhân tố góp phần đẩy mạnh cao trào kháng Nhật cứu nước và
5


tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong thời gian tới. Tháng 4-1945, Tỉnh ủy lâm thời được thành lập
do đồng chí Bùi Trung Lập làm Bí thư. Từ đó, phong trào cách mạng trong tỉnh phục hồi và phát triển
mạnh mẽ. Cuối tháng 6-1945, sau khi nhận được chỉ thị "Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng
ta” của Ban thường vụ Trung ương Đảng, Tỉnh ủy lâm thời liền triệu tập Hội nghị đại biểu toàn tỉnh
nhằm quán triệt chỉ thị của Trung ương và chủ trương đẩy mạnh mọi mặt công tác để phát động phong
trào kháng Nhật cứu nước. Hội nghị cũng quyết định đổi Tỉnh ủy lâm thời thành Ban vận động thống
nhất Đảng bộ. Sau hội nghị, Ủy ban dân tộc giải phóng của các phủ, huyện lần lượt ra đời. Ở nhiều
thôn xã, uy thế Việt Minh đã lấn át uy thế của chính quyền bù nhìn. Bọn quan lại cũng hoang mang,
dao động, mất hết khả năng đàn áp cách mạng, khí thế quần chúng đã sẵn sàng đứng dậy. Phong trào

đóng góp công, của ủng hộ cách mạng phát triển rộng khắp.
Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện, hưởng ứng lời kêu gọi "Toàn quốc tổng
khởi nghĩa" của Hồ Chủ Tịch và quân lệnh số 1 của Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ngày 18-8-1945,
Ban thống nhất Đảng bộ triệu tập hội nghị đại biểu toàn tỉnh. Hội nghị quyết định thành lập Ủy ban
khởi nghĩa do đồng chí Trần Hữu Dực làm chủ tịch và quyết định tổng khởi nghĩa giành chính quyền
trong toàn tỉnh dự định khoảng từ 21 đến 25-8-1945. Từ ngày 19-8-1945, cùng với Hà Nội, nhiều địa
phương trong cả nước cũng đã giành chính quyền thắng lợi. Trong không khí sôi sục của cả nước,
trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng trong tỉnh, chiều 22-8-1945 Ủy ban khởi nghĩa
tỉnh đã phát lệnh khởi nghĩa.
Ngay sau khi lệnh khởi nghĩa được phát ra, để biểu dương lực lượng và thị uy, 19 giờ ngày 22-8-1945,
ba đại đội tự vệ vũ trang dưới sự điều khiển của đồng chí Trần Hồng Chương tiến vào thị xã tuần
hành, thị uy. Đoàn quân vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu: "Đánh đổ chính quyền bù nhìn Bảo Đại,Trần
Trọng Kim","Ủng hộ Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh", "Thành lập chính quyền nhân dân cách
mạng''. Đoàn biểu tình vũ trang tiến đến đâu đều được đồng bào thị xã Quảng Trị hưởng ứng nhiệt liệt
và gia nhập vào mỗi lúc một đông thêm. Đoàn người diễu qua các đường phố lớn với khí thế hùng
dũng, mạnh mẽ... 1 giờ ngày 23-8-1945, theo lệnh của Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, các đơn vị tự vệ chiến
đấu làm nhiệm vụ chiếm đóng và dự bị đều đột nhập nội thị, chiếm lĩnh tất cả các vị trí được phân
công
từ
trước.
Cùng
lúc,
các
lực
lượng
làm
nhiệm vụ biểu tình thị uy chính trị, từ các hướng rầm rập kéo vào thị xã. Cả thị xã lúc này như một
biển người; như một rừng băng, cờ, khẩu hiệu; với tiếng trống mõ, thanh la gióng 3, gióng 6 vang rền
như sấm dậy. Cách mạng thực sự là ngày hội của quần chúng nhân dân lao động. Đúng 5 giờ sáng
ngày 23-8-1945, cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở thị xã tỉnh lỵ Quảng Trị kết thúc thắng lợi.

Đến 9 giờ ngày 23-8-1945, một cuộc mít tinh lớn được tổ chức trước tòa Công sứ Pháp, lúc này là trụ
sở của Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Trị. Thay mặt Ủy ban khởi nghĩa tỉnh, đồng
chí Trần Hữu Dực trịnh trọng tuyên bố xóa bỏ chính quyền cũ, thành lập chính quyền cách mạng trong
toàn tỉnh trước sự reo hò như sấm dậy của quần chúng. Cùng với cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở
tỉnh lỵ Quảng Trị, trong những ngày 22, 23, 24 tháng 8, công nhân các công sở, đồn điền đã sát cánh
cùng nông dân và các tầng lớp nhân dân toàn tỉnh nổi dậy. Đêm 22, rạng ngày 23-8-1945, các phủ,
huyện Triệu Phong, Hải Lăng, Gio Linh, Vĩnh Linh đều đồng loạt khởi nghĩa giành chính quyền về tay
nhân dân. Đến 6 giờ sáng ngày 24-8, tại Cam Lộ khởi nghĩa đã giành thắng lợi. Tại thị trấn Đông Hà,
sáng 25-8-1945, chính quyền cách mạng đã về tay nhân dân. Riêng huyện Hướng Hóa, trước ảnh
hưởng của phong trào cách mạng ở các địa phương khác, chính quyền địch đã tự tan rã. Chính quyền
cách mạng ở Hướng Hóa được thành lập vào ngày 25-8-1945. Như vậy, việc khởi nghĩa giành chính
quyền về tay nhân dân trong toàn tỉnh đến ngày 25-8-1945 đã kết thúc thắng lợi.
Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám ở Quảng Trị là thắng lợi của lòng yêu nước, tinh thần đoàn
kết, ý chí quyết tâm giành độc lập của toàn Đảng, toàn dân. Với những thuận lợi cơ bản ở trong nước
6


và địa phương, Đảng bộ Quảng Trị đã biết nắm thời cơ, vận dụng đúng đắn và sáng tạo đường lối khởi
nghĩa của Đảng vào điều kiện cụ thể ở địa phương mình để phát động, cổ vũ toàn dân nổi dậy giành
chính quyền. Cách mạng Tháng Tám thành công đã lật nhào ách thống trị của đế quốc, phong kiến,
đem lại độc lập tự do cho dân tộc Việt Nam. Sau hơn 80 năm đô hộ của thực dân, đế quốc, cùng với
nhân dân cả nước, nhân dân Quảng Trị đã thật sự làm chủ làm chủ cuộc đời mình
Vấn đề 3: Để đánh thắng chiến lược chiến tranh của DQ Mỹ ở Mnam từ 1954 -1975, Đảng ta đề
ra đường lối chủ trương đúng đắn khoa học được thể hiện như thế nào? Những hiểu biết của đ/c
về giai đoạn này về Đảng bộ và ND Q.Trị. Hai mươi mốt năm vừa XD CNXH vừa là hậu phương
lớn cho CM M.Nam, nhân dân Miền Bắc đã thu hái những kết quả rất đáng tự hào - Hãy chứng
minh.
* Đường lối chủ trương đúng đắn khoa học của Đảng Để đánh thắng chiến lược chiến tranh của
DQ Mỹ ở Mnam từ 1954 -1975:
Thời kỳ 1954 -1975 là khoảng thời gian nhân dân ta vừa kết thúc 80 năm đô hộ của thực dân

Pháp, bước sang giai đoạn vừa kháng chiến chống Mỹ cứu nước vừa xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Đây
là một thử thách đầy cam go đối với Đảng cộng sản Việt Nam - một chính Đảng còn non trẻ. Lần này
đối mặt với ta là đế quốc Mỹ, tên thực dân hùng mạnh cả về kinh tế lẫn quân sự thời bấy giờ. Đảng
Cộng sản Việt nam do Bác Hồ sáng lập và rèn luyện đã kết hợp tài tình Chủ nghĩa Mác Lê nin vào tình
hình thực tiễn của Việt Nam. Đảng đã lãnh đạo quân và dân ta chiến đấu anh dũng, biến cuộc chiến
tưởng chừng không cân sức thành chiến thắng vang dội cả thế giới, làm chấn động địa cầu. Một nước
Việt Nam tưởng chừng bé nhỏ, nhưng đã chiến thắng tên đế quốc sừng sỏ nhất trên thế giới, nơi mà
mọi nước đều phải e dè. Cuộc kháng chiến chống Mỹ kéo dài 21 năm có nhiều giai đoạn, mỗi giai
đoạn là một thời kỳ đất nước ta có những chuyển biến lớn, nhằm chống lại âm mưu và hành động của
Mỹ - Ngụy. Mà trong đó, những chủ trương, sách lược, những nhận định và hành động của Đảng là
cực kỳ quan trọng.
1. Chủ trương, nhiệm vụ của đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ ở
miền Nam từ 1954-1975
Sau năm 1954, Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do Đảng lãnh
đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước vẫn
chưa hoàn thành. Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của
thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền.
Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta một yêu cầu bức thiết là
phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình
mới của đất nước và phù hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Xuất phát từ việc nhận thức sâu
sắc tình hình thế giới và đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước sau tháng 7-1954, trải qua nhiều hội
nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ trương chiến lược cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới của Đảng đã từng bước hình thành.
* Chủ trương tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giai
đoạn 1954-1960
Nắm vững âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương, nên ngay trước ngày
ký Hiệp định Giơnevơ, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) từ ngày 15
đến ngày 17-7-1954, đã chỉ rõ: "Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và nó
đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc của ta đều nhằm
chống đế quốc Mỹ".

7


Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào và cán bộ chiến sĩ cả nước:
"Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả nước nhất định
được giải phóng"
Về cách mạng miền Nam, Nghị quyết Bộ Chính trị tháng 9-1954 nêu rõ: Đế quốc Mỹ và tay sai
đang mưu tính, phá hoại Hiệp định Giơnevơ nhằm chia cắt lâu dài Việt Nam. Cuộc đấu tranh của nhân
dân miền Nam phải chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị. Nhiệm vụ của Đảng ở miền
Nam trong giai đoạn mới là: "lãnh đạo nhân dân miền Nam đấu tranh thực hiện Hiệp định đình chiến,
củng cố hòa bình, thực hiện tự do dân chủ,... cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất và tranh thủ độc
lập. Đồng thời phải lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống những hành động khủng bố, đàn áp, phá cơ sở
của ta, bắt bớ cán bộ ta và quần chúng cách mạng, chống những hành động tiến công của địch, ngụy,
giữ lấy quyền lợi quần chúng đã giành được trong thời kỳ kháng chiến, nhất là ở những vùng căn cứ
địa và vùng du kích cũ của ta".
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình và công tác của các đảng bộ miền Nam, tháng 101954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập, do Lê Duẩn, ủy viên Bộ Chính trị làm Bí thư.
Từ thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam, tháng 8-1956, Lê Duẩn đã dự
thảo Đường lối cách mạng miền Nam. Bản Đường lối cách mạng miền Nam được đưa ra thảo luận tại
Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ họp tháng 12-1956.
Bản Đường lối vạch rõ để chống Mỹ-Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu nước và
tự cứu mình là con đường cách mạng. Ngoài con đường cách mạng không có một con đường
khác. Mục đích của cách mạng miền Nam là phải đánh đổ chính quyền độc tài phátxít Mỹ - Diệm,
thực hiện một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính chất dân tộc, độc lập, để giải phóng nhân dân
miền Nam ra khỏi ách đế quốc phong kiến độc tài phátxít Mỹ - Diệm để cùng với toàn quốc thực hiện
hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc.
Tháng 12-1957, tại Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nêu rõ, nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ cách mạng nói trên đều quan trọng, coi
nhẹ một nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm.
Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ mười lăm. Trên cơ sở

phân tích tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: Nhiệm vụ cơ bản của cách
mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc, hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ ở miền Nam; Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương cũng nêu rõ cần tăng cường
công tác Mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; củng cố, xây dựng Đảng bộ miền Nam thật
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đủ sức lãnh đạo trực tiếp cách mạng miền Nam.
* Giai đoạn 1961-1965: Đảng lãnh đạo nhân dân đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt
Đầu năm 1961Tổng thống Mỹ Kennơđi đưa ra chiến lược “phản ứng linh hoạt” với 3 kiểu chiến
tranh: chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ và chiến tranh tổng lực. Đặc điểm của chiến tranh đặc
biệt là dùng quân đội tay sai làm công cụ chiến tranh.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm và đề ra đường lối
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống
nhất Tổ quốc.
Tháng 1/1961 Bộ chính trị chủ trương chuyển từ khởi nghĩa sang chiến tranh cách mạng, từng
bước đưa đấu tranh vũ trang lên cùng với đấu tranh chính trị. Tháng 10/1961 Trung ương cục miền
nam được thành lập để trực tiếp chỉ đạo cách mạng miền nam, đẩy mạnh xây dựng lực lượng cả quân
sự lẫn chính trị trên cả 3 vùng chiến lược. Thực hiện phương châm “hai chân, ba mũi, ba vùng”với
nguyên tắc đảng bám dân, dân bám đất, du kích bám địch”
8


* Giai đoạn 1965 - 1968 đã đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ"
Việc đế quốc Mỹ mở cuộc "Chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và các nước
chư hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam đã làm cho tương quan lực lượng trở nên bất lợi cho ta.
- Trước hành động gây "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá hoại ra
miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng 3/1965) và lần thứ 12 (tháng
12/1965) đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên cả
nước.
Kết hợp với những thắng lợi về quân sự và chính trị, ngày 28/1/1967 Hội nghị lần thứ 13 BCH
Trung ương khoá III đã quyết định mở mặt trận ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế, phát
huy sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ.

Hội nghị lần thứ 14 BCH Trung ương khoá III tiếp tục khẳng định:”Anh dũng tiến lên, thực hiện
tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước”
Cuộc tổng tiến công và nỗi dậy Mậu Thân 1968 là một đòn chiến lược đánh vào tận hang ổ của
kẻ thù làm cho chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ thất bại.
* Giai đoạn: 1969-1975: đánh thắng chiến lược “VN hoá chiến tranh”, giải phóng miền
nam thống nhất đát nước.
Tháng 1/1970 Hội nghị lần thứ 18 BCH Trung ương khoá III đề ra nhiệm vụ trước mắt là đẩy
mạnh cuộc kháng chiến tren tất cả các mặt, vừa tấn công vừa xây dựng lực lượng, giành thắng lợi từng
bước đi đến giành thắng lợi quyết định.
Tháng 7/1973 Hội nghị lần thứ 21 BCH Trung ương khoá III đã ra nghị quyết:” Thắng lợi vĩ đại
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng VN trong giai đoạn mơi”. Nghị
quyết khẳng định “ con đường của cách mạng miền nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong
tình hình nào, ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh
hoạt để đưa cách mạng miền nam tiến lên”
Sau một thời gian chuẩn bị, từ ngày 30/9/1974 đến ngày 10/8/1974, Bộ chính trị họp bàn về chủ
trương giải phóng miền Nam. Tại hội nghị này BCT đã phê chuẩn kế hoạch hai năm và kế hoạch tác
chiến năm 1975. Từ ngày 8/12/74 đến 8/01/75, BCT tiếp tục họp lần 2. Hội nghị chỉ rõ “ nắm vững
thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước”
Với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, quân ta đã vượt lên mọi gian khổ hy sinh, bền bỉ
và anh dũng chiến đấu, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ. buộc
Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta tại Pari; mà đỉnh cao là Đại
thắng Mùa Xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc
chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, giải phóng hoàn toàn miền Nam.
2. Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị giai đoạn từ 1954-1975
- Từ 1954-1960:
+ Quảng Trị đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, tiếp thu “Đề cương cách mạng
miền Nam”. Khôi phục và phát triển lực lượng, tạo thế tiến lên tiến công địch.
+ Khu vực Vĩnh Linh ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội làm căn
cứ vững chắc cho cách mạng miền Nam.

- Từ 1961-1965:
+ Quảng Trị chống chiến lược “ Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
+ Khu vực Vĩnh Linh thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Sẵn sàng
đối phó với âm ưu leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc của Mỹ, tích cực chi viện sức người, sức
của cho chiến trường Quảng Trị.
9


- Từ 1965-1968:
+ Quảng Trị chống “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Thực hiện tiến công nổi dậy xuân
Mậu Thân 1968, giải phóng Khe Sanh-Hướng Hóa.
+ Khu vực Vĩnh Linh đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ. Tịch
cực chi viện cho chiến trường Quảng Trị. Giữ vững sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Từ 1968 đến tháng 1/1973:
+ Quảng Trị chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Tiến công nổi dậy
giải phóng quê hương, 81 ngày đêm chống địch phản kích tái chiếm.
+ Khu vực Vĩnh Linh đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ. Dốc
toàn lực vào chiến dịch giải phóng Quảng Trị.
- Từ 01/1973-30/4/1975:
+ Đấu tranh đòi thi hành Hiệp Định Pari, ra sức xây dựng và củng cố vùng giải phóng.
+ Vĩnh Linh khôi phục và phát triển kinh tế, tổ chức đời sống, bảo đảm quốc phòng na ninh.
+ Chiến dịch xuân hè 1975: Giải phóng phần đất, phần đân còn lại; góp phần tham gia vào chiến
dịch giải phóng Huế-Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
3. 21 năm vừa XD CNXH vừa là hậu phương lớn cho CM M.Nam, nhân dân Miền Bắc đã thu
hái những kết quả rất đáng tự hào - Hãy chứng minh.
Hai mươi mốt năm quân và dân MB đã tập trung toàn bộ trí tuệ và sức lực vừa tiến hành CM
CNXH ở MB, vừa bảo vệ vững chắc thành quả CM và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của hậu phương
đối với tiền tuyến.
Mặc dù đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai ở MN có nhiều âm ưu phá hoại hòng xóa bỏ những
thành tựu mà CM đã đạt được trên đất nước ta, nhưng MB vẫn tiếp tục đi lên CNXH, làm cơ sở vững

chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Cơ sở vất chất – kỹ thuật được xây dựng một bước. Đã có cơ sở đầu tiên của công nghiệp nặng.
Năng lực các ngành công nghiệp giao thông, xây dựng đều tăng so với trước chiến tranh. Một số trung
tâm công nghiệp lớn của đất nước được hình thành.
Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao đều phát triển. Công tác đào tạo
đội ngũ khoa học kỹ thuật và công nhân tăng gấp nhiều lần so với khi mới giải phóng. Mạng lưới y tế
được mở rộng từ trung ương đến cơ sở, từ đồng bằng đến miền núi. An ninh chính trị và trật tự xã hội
được giữ vững. Đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân được ổn định và có nhiều mặt được cải
thiện.
Trong chiến tranh phá hoại giắc Mỹ đã nén xuống MB 2,5 triệu tấn bom đạn. Song với sức
mạnh vật chất và tinh thần của truyền thống dân tộc và của chế độ XHCN, quân và dân MB đã bắn rơi
4.141 máy bay Mỹ, bắt sống 472 giặc lái, đánh bại các cuốc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ,
giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ đối với nước ta, góp phần tạo thế và lực
mới cho CM MN.
NB hoàn thành xuất sắc nghĩa vụ của một hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, đồng cam
cộng khổ, sát cánh với đồng bào MN đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, giải phóng
hoàn toàn MN thống nhất đất nước. Đồng thời hoàn thành xuất sác nghĩa vụ quốc tế đối với CM Lào
và Campuchia.
Về mặt ngoại giao, Đảng và Chính phủ đã không ngừng củng cố tình đoàn kết hữu nghị với
Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN anh em khác, thực hiện sự phối hợp chặt chẽ với các nước
anh em trong hoạt động quốc tế và đấu tranh ngoại giao, tranh thủ viện trợ về kinh tế nhằm khôi phục
và phát triển kinh tế MB.
10


\
Tháng 11/1957 Đảng Lao động VN tham gia Hội nghị 64 Đảng Cộng sản và nhân dân thế giới.
Trong lịch sử Đảng ta đó là sự kiện quan trọng vì đây không chỉ là lần đầu Đảng ta tham gia một Hội
nghị quốc tế lớn của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế mà vì đây là lần đầu ta đóng góp
những nội dung quan trọng trong một hội nghị quốc tế

Đánh giá vai trò của MB đối với cuộc K/chiến chống Mỹ, cứu nước, Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ IV của Đảng (1976) khẳng định: Không thể nào có thắng lợi của cuộc K/chiến chống Mỹ cứu
nước nếu không có MB XHCN… MB đã dốc vào cuộc chiến tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ sức
mạnh của chế độ XHCN và đã làm tròn một cách xuất sắc căn cứ địa CM của cả nước, xứng đáng là
pháo đài vô địch của CNXH./.
Vấn đề 4: Sau đại thắng mùa xuân 1975, tổ quốc thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước
tiến lên xây dựng CNXH và từng bước tìm tòi con đường đổi mới, đỉnh cao là Đại hội lần VI/
1986 được gọi là Đại hội đổi mới đất nước. Những hiểu biết của đồng chí về giai đoạn lịch sử
này.
Đảng CSVM, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động của dân tộc VN; từ
khi ra đời đến nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng 2 đế quốc hùng mạnh vào bậc nhất thế
giới đó là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành lấy hòa bình thống nhất cho tổ quốc. Sau khi đất nước
thống nhất, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến lên xây dựng CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển của
CNTB, đồng thời từng bước tìm tòi con đường đổi mới đất nước để từng bước ổn định đời sống của
nhân dân, hướng đến mục đích xây dựng một đất nước Việt Nam độc lập, tự do và hùng mạnh.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI Đảng cộng sản VM họp từ ngày 15 đến 18 tháng 12/1986
Dự Đại hội có 1129 đại biểu tham dự thay mặt cho 1,9 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội đã nghe
Báo cáo chính trị của BCHTW đảng khóa V và nhiều văn kiện quan trọng khác. Đồng chí Nguyễn Văn
Linh được bầu làm tổng Bí thư. Đại hội VI được gọi là Đại hội đổi mới đất nước vì:
Đại hội đã chủ trương thay những cái củ cái không còn phù hợp bằng những cái mới hơn, cái tốt
hơn, tiến bộ hơn trước. Đại hội đã thẳng thắn phê bình về những sai lầm, khuyết điểm của Đảng trong
10 năm qua, đồng thời đề ra các mục tiêu, hướng đi phù hợp với tình hình mới. Đại hội quyết định đẩy
mạnh xây dựng CNXH theo nhận thức tư duy mới và hệ thống các chủ trương chính sách theo cơ chế
quản lý mới. Đường lối đổi mới được hình thành từ những khởi động đổi mới từng phần ở địa phương.
Đảng và NN đã kịp thời tổng kết thực tiển, điều chỉnh cơ chế, chính sách để thúc đẩy kinh tế phát triển
nhằm khắc phục những tác động xấu của khủng hoảng KT- XH.
Quá trình đổi mới được bắt đầu từ Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCHTW khóa IV (tháng
8/1979) làm cho sản xuất bung ra, chỉ thị 100cuar Ban bí thư (1/1981) về khoán sản phẫm trong sản
xuất nông nghiệp, Quyết định 25CP và 26 Cpcuar chính phủ (1/1981) về caair tiến cơ chế quản lý
trong sản xuất quốc doanh; quan điểm của Đại Hội V của đảng (3/1982)…Tất cả để đi đến hoàn tất các

quan điểm cơ bản của đường lối đổi mới tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI cua Đảng. Nội dung
đường lối đổi mới gồm các vấn đề chủ yếu:
- Đổi mới cơ cấu KT: có chính sách sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, xá định nền KT
có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
Đại hội xác định các thành phần KT đang tồn tại ở nước ta gồm có: KT XHCN, KT cá thể tiểu
chủ, KT tư bản tư nhân, KT tự cấp tự túc ở vùng núi cao. Cùng với việc xá định kt nhiều thành phần,
Đảng còn chủ trương điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, tập trung thực hiện 3 chương trình mục tiêu về
luwpwng thực, thực phẫm và hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Bố trí lại cơ cấu sản xuất, xem nông
nghiệp là vị trí hàng đầu.
11


- Đổi mới cơ chế QL: Xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp từ lâu đã
không tạo được động lực phát triển cho nền KT chuyễn sang hạch toán kinh doanh XHCN, kết hợp kế
hoạch và thị trường là 2 đặc trưng cơ bản của cơ chế quản lý mới đó là: tính kế hoạch và sử dụng đúng
quan hệ hàng hóa- tiền tệ
- Đổi mới hoạt động KT đối ngoại, trên cơ sở mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:
Đại Hội xác định trong những năm tiếp theo Nhà nước ta xác định nhiệm vụ chính trên lĩnh vực đối
ngoại đó là: Công bố chính sách khuyến kích nước ngoài đầu tư vào VN với nhiều hình thức nhất là
các nghành và cơ sở đòi hỏi kỷ thật cao; đồng thời coi trọng và động viên Việt kiều góp phần xây
dựng đất nước bằng nhiều cách.
- Đổi mới và tăng cường, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước: Nhà nước tăng cường quản
lý kinh tế - xã hội bằng hệ thống pháp luật, tăng cường bộ máy nhà nước từ TƯ đến địa phương thành
1 hệ thống nhất có sự phân định về nhiệm vụ và quyền hạn theo từng cấp , đồng thời phân biệt rõ ràng
về chức năng quản lý hành chính kinh tế với quản lý sản xuất kinh doanh.
Giữ vững pháp luật, kỷ cương nhà nước trật tự xã hội; giữ vững quốc phòng an ninh. Xây dựng
bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao với đội ngũ cán bộ có phẫm chất chính trị và năng lực quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội
- Đổi mới tư duy lý luận và phong cách lãnh đạo của Đảng: Đường lối đổi mới được xác định
trên cơ sở đổi mới duy lý luận, nhận thức rõ hơn về CNXH và thời kỳ quá độ lên CNXHđể vân dụng

phù hợp vào thực tiển cách mạng VN
Cần khắc phục bệnh quan liêu, xa rời thực tế, xã rời quần chúng, thực sự gắn bó với dân, lấy dân
làm gốc. Khắc phục sự lạc hậu về nhận thức, lý luận với những quan điểm sai lầm lệch lạc, lỗi thời.
Nâng cao đạo đức CM gắn với nâng cao trí tuệ hiểu biết nâng cao sức chiến đấu của Đảng.
Từ thực tiễn của hơn 20 năm đổi mới có thể khái quát một số bài học sau đây.
Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên
nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng
tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới.
Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống
chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc
về nhân dân.
• Liên hệ ở Quảng Trị
Cùng với cả nước, Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị đã gắt hái được những thành tựu trong đổi
mới và xây dựng quê hương
Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Trị lần thứ XV họp từ ngày 24 đến ngày 26 tháng 9 năm 2010, tại
thành phố Đông Hà, đã đánh giá tình hình sau 5 năm thực hiện Nghị quyết của đại hội XIV. Đại hội
khẳng định:
Trong 5 năm qua, vượt qua những khó khăn, thách thức, Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã đoàn
kết, nỗ lực phấn đấu thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV và đạt được những
thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội:
- Về kinh tế: Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá, bình quân 5 năm 2005 – 2010 đạt 10,8%;
GDP bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 16 triệu đồng, tương đương 845 USD; tổng thu ngân sách
trên địa bàn năm 2010 ước đạt 850 tỷ đồng, tăng bình quân 15,5%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch
12



đúng hướng, tỷ trọng giá trị trong GDP năm 2010 của các ngành: công nghiệp và xây dựng 37,5%;
nông - lâm - ngư nghiệp 27,4%; thương mại - dịch vụ 35,1%. Các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh
phát triển. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển toàn diện và theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá gắn với xây dựng nông thôn mới. Giá trị của ngành nông – lâm - ngư nghiệp bình quân 5 năm tăng
3,5%/năm. Công nghiệp và xây dựng tiếp tục phát triển, năng lực sản xuất, kinh doanh của ngành
không ngừng tăng lên, giá trị của ngành bình quân 5 năm tăng 21%/năm. Thương mại - dịch vụ phát
triển cả về quy mô, ngành nghề, thị trường, hạ tầng kỹ thuật và hiệu quả kinh doanh; giá trị của ngành
bình quân 5 năm tăng 8,4%/năm. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng nhanh, trong 5 năm huy
động được 17.479 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần giai đoạn 2000 - 2005. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát
triển khá toàn diện trên tất cả các vùng.
-Văn hoá - xã hội: đạt được những tiến bộ mới, đời sống nhân dân tiếp tục được nâng lên.
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá cơ sở được củng cố và phát triển. Các thiết
chế văn hoá, thể thao được đầu tư xây dựng mới. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo tiếp tục phát triển cả về
mạng lưới, quy mô và chất lượng. Công tác nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ được
chú trọng. Thực hiện các chính sách chăm sóc sức khoẻ nhân dân, giải quyết việc làm, xóa đói giảm
nghèo, chăm sóc người có công, an sinh xã hội có nhiều tiến bộ. Trong 5 năm giải quyết việc làm mới
cho 42.500 lao động. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2010 giảm xuống còn 13%.
- Quốc phòng - an ninh: được tăng cường, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân được củng cố; an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Công tác quản lý, điều hành của các cấp chính quyền có chuyển biến tiến bộ, hiệu lực, hiệu quả
được nâng lên. Công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh. Hệ thống tổ chức các cơ quan tư pháp
được tăng cường, chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được nâng lên. Công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm đạt kết quả bước đầu. Quan hệ đối ngoại tiếp
tục được mở rộng và có hiệu quả, nhất là đối với các nước láng giềng trong khu vực, góp phần khai
thác tốt hơn lợi thế tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây.
Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có bước đổi mới, chất lượng được nâng
lên; khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và tăng cường. Thực hiện tốt các chính sách về dân tộc và
tôn giáo. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được đẩy mạnh, tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng;
năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên được nâng
lên, đoàn kết trong nội bộ Đảng được giữ vững. Thực hiện cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm

gương đạo đức Hồ Chí Minh" đã tạo được chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội. Công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường. Công tác dân vận của cấp uỷ Đảng ngày càng toàn
diện và hiệu quả hơn. Nội dung và phương thức lãnh đạo của các cấp ủy Đảng có bước đổi mới. Nguyên
tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng được giữ vững.
Vấn đề 5: Những cống hiến vĩ đại của Mác-Ăngghen cho phong trào cộng sản công nhân quốc tế
giữa thế kỷ XIX về xây dựng đảng. Kế thừa những cống hiến vĩ đại của Mác-Ăngghen, Lê Nin
đã hoàn thiện về lý luận và thông qua hoạt động thực tiễn đúc kết về 8 nguyên lý về Đảng kiểu
mới của giai cấp công nhân. Tại đại hội X (2006) Đảng ta đã bổ sung vào kho tàng lý luận của
CN Mác Lê Nin những nguyên tắc nào?
C.Mác và Ph.Ăngghen là người đầu tiên xây dựng những tư tưởng về Đảng Cộng sản và trực
tiếp áp dụng vào công tác xây dựng Đảng. Tư tưởng về Đảng cộng sản được hình thành cùng với quá
trình phát triển, hoàn thiện tư tưởng, quan điểm duy vật về lịch sử, về chủ nghĩa cộng sản và về sứ
mệnh lịch sử toàn thế giới của gccn. V.I.Lênin đã kế thừa, phát triển những tư tưởng về đảng cộng sản
của c.mác và ph.ăngghen, đưa ra các nguyên lý đảng kiểu mới.
13


Những nguyên lý về Đảng kiểu mới của Lênin gồm:
Thứ nhất: Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng là kim chỉ nam cho mọi hoạt động của Đảng
cộng sản. Lênin viết: “Chúng ta hoàn toàn đứng trên cơ sở lý luận của Mác: lý luận đó là lý luận đầu
tiên đã biến CNXH từ không tưởng trở thành khoa học… lý luận đó đã chỉ rõ nhiệm vụ thật sự của
đảng CNXH cách mạng”.
Thứ hai: ĐCS là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẻ nhất, cách
mạng nhất và giác ngộ nhất của giai cấp công nhân. Vai trò tiên phong của đảng thể hiện trên lĩnh vực
lý luận về mặt tổ chức và hành động gương mẫu của đảng viên trong thực tiển. Lênin đã đưa ra một số
luận điểm: “ chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai
trò người chiến sỷ tiên phong”.
Thứ ba: Khi giành được chính quyền Đảng là hạt nhân lảnh đạo hệ thống chính trị của CNXH
và là một bộ phận của hệ thống đó. Theo Lênin sự lảnh đạo của Đảng cộng sản là điều kiện tiên quyết
bảo đảm cho công cuộc đấu tranh giữ vững chĩnh quyền và xây dựng thành công CNXH. Người chỉ

rõ: Buông lõng sự lảnh đạo của ĐCS là sai lầm về nguyên tắc, bởi vậy sẻ thủ tiêu sức mạnh của nhà
nước XHCN và cả hệ thống của nó và sẻ mở đường cho các phần tử cơ hội phản động cướp chính
quyền.
Thứ tư: Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động
của đảng. Tập trung dân chủ là thuộc tính cơ bản của Đảng thể hiện bản chất và sự sống còn của
Đảng. Là tiêu chí để phân biệt đảng kiểu mới của giai cấo công nhân. Đảng cách mạng chân chính với
các đảng phái khác.
Thứ năm: Đoàn kết thống nhất là sức mạnh vô địch của đảng, tự phê bình và phê bình là quy
luật phát triển của đảng. Lênin đưa ra khẩu hiệu “vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại”. Để sự đoàn kết thống nhất trong đảng luôn luôn được cũng cố và phát triển, Đảng cần phải
thực hiện tự phê bình và phê bình, đây là quy luật phát triển của Đảng, có tác dụng phát triển, giải
quyết mâu thuẩn đối với từng cá nhân, từng tổ chức và cả hệ thống của đảng.
Thứ sáu: Đảng gắn bó chặt chẻ với nhân dân, kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục
bệnh quan liêu, Người cho rằng “những người cộng sản chỉ như những giọt nước trong đại dương nhân
dân. Nếu không có sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thì mọi chủ trương đường lối của đảng không thể
trở thành hiện thực. Sức mạnh của đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân khi nắm chính quyền,
Đảng có nhiều điều kiện mới, công cụ mới để tăng cường mối liên hệ giữa đảng với nhân dân nhưng
cũng dể nảy sinh bệnh quan liêu, mệnh lệnh, tham nhũng…làm cho đảng viên thoái hoá biến chất, xa
rời quần chúng.
Thứ bảy: Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân
lao động vào đảng, kịp thời đưa những người không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra khỏi
đảng.
Thứ tám: ĐCS mang tính quốc tế. Tính quốc tế của ĐCS bắt nguồn từ sức mạnh lịch sử toàn
thế giới của giai cấp công nhân. Theo Lênin chủ nghĩa quốc tế không phải là lời nói suông, không phải
là lời tỏ tình đoàn kết, không phải là nghị quyết mà là hành động.
Từ những nguyên lý nêu trên Lênin đã kế thừa, phát triển những tư tưởng của MácĂngghen về đảng kiểu mới, thể hiện rõ nhất ở những nguyên lý sau:
Nguyên lý về nguyên tắc tập trung dân chủ:
Ngay từ khi chuẩn bị cho sự ra đời ĐCS đầu tiên trên thế giới Mác- Ăngghen đã chủ trương
đảng phải được xây dựng tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nôi dung cơ bản
của nguyên tắc này đã được thể hiện đầy đủ trong điều lệ của liên đoàn những người cộng sản và điều

lệ của hội liên hiệp công nhân quốc tế (quốc tế thứ nhất).
14


Lênin đã phát triển những quan điểm dân chủ của chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể nước Nga
để giác ngộ giai cấp vô sản Nga. Trong điều kiện nước Nga nơi mà những phần tích nông nô, tình
trạng sản xuất nhỏ phổ biến, ảnh hưởng của CNXH vô chính phủ khá nặng nề, trong điều kiện đấu
tranh trực tiếp giành chính quyền… Lênin một mặt chỉ rõ tầm quan trọng của những giá trị dân chủ tư
sản, mặt khắc phát triển về lý luận và thực tiển để khắc phục nạn vô chính phủ và nêu lên nguyên tắc
tập trung dân chủ trong xây dựng một đảng kiểu mới của giai cấp công nhân.
Vận dụng kết hợp chế độ tập trung và dân chủ và đề ra một nguyên tắc cơ bản trong xây dựng
đảng kiểu mới, nguyên tăc tập trung dân chủ được Lênin nêu ra trong hội nghị I của những người Bônsê-vích( Hội nghị Tam-mec-pho năm 1905) sau đó là đại hội IV( Đại hội thống nhất) của đảng công
nhân dân chủ- xã hội Nga, năm 1960. Nguyên tăc này được thừa nhận là nguyên tắc cơ bản trong xây
dựng ĐCS Liên xô, được ghi trong điều lệ của đảng và điều lệ của quốc tế cộng sản.
Tại đại hội IV (đại hội thống nhất) của đảng công nhân dân chủ xã hội Nga Lênin không chỉ đề
cập mà trình bày rõ nguyên tăc tập trung dân chủ và coi đây là một n vụ quan trọng, ngh túc và vô
cùng trọng đại.
Đảng là một khối thống nhất về chính trị tư tưởng và tổ chức.
Khi luận chứng về sứ mạnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân, Mác và Ăngghen đã đồng
thới chỉ ra rằng chủ nghĩa quốc tế vô sản là một trong những nguyên tắc về tổ chức xây dựng đảng.
Khẩu hiệu “vô sản tất cả các nước đoàn kết lại”. Trong tuyên ngôn của ĐCS đã trở thành phương
châm hoạt động cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Cuối thế kỷ XIX , đầu thế kỷ XX đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của phong trào công nhân quốc
tế. Giai cấp công nhân lớn mạnh không ngừng vầt số lượng về vật chất, về chính trị và tổ chức, ý thức
giác ngộ được nâng cao. Những cuộc đấu tranh ở Châu Âu đẫ chứng minh rằng giai cấp công nhân
hoàn toàn có khả năng đoàn kết chung quanh mình những người bị áp bức và bốc lột để lật đổ CNTB
và xây dựng xã hội mới. Lênin đã phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác và sự đoàn kết thống nhất
trong ĐCS, Người đưa ra khẩu hiệu “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”
Đảng kết nạp những người ưu tú của giai cấp công nhân, nhân dân lao động vào đảng, kịp thời
đưa ra những người không đủ tiêu chuẩn đảng viên ra khỏi đảng.

Mác và Ăngghen đã đấu tranh rất kiên quyết chống lại những phần tử cơ hội và những người vi
phạm kỷ luật của đảng và chủ trương tẩy trừ những phần tử cơ hội ra khỏi đảng. Trên thực tế hai ông
đã đấu tranh không khoan nhượng chống những quan điểm cơ hội vô chính phủ của Bacunin và đã
khai trừ Bacunin khỏi quốc tế I.
Những nguyên lý về đảng kiểu mới của Lênin nói riêng và học thuyết Mác Lênin về ĐCS nói chung
có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiển hết sức to lớn, là ánh sáng soi đường cho các ĐCS và phong trào
công nhân trên thế giới, thể hiện rõ nhất là sự phát triển của các ĐCS và các nước XHCN từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai.Cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX một số ĐCS đã xa rời
những nguyên lý đó và đã dẫn đến đỗ vỡ, thất bại. Bọn cơ hội xét lại và giai cấp tư sản đang tìm mọi
cách xuyên tác nhằm phủ nhận giá trị của học thuyết Mac Lênin về ĐCS.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng đánh dấu thời điểm có ý nghĩa trọng đại.
Bước vào giai đoạn mới, bên cạnh những cơ hội lớn, đất nước ta và Đảng ta cũng đối mặt với
những thách thức rất gay gắt. Trước tình hình đó, xây dựng Đảng với vai trò là nhiệm vụ then chốt
càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là vấn đề sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân
ta.Từ thực tiễn xây dựng Đảng những năm đổi mới, Đảng ta đã rút ra một số bài học kinh nghiệm đã
bổ sung vào kho tàng lý luận của CN Mác Lê Nin những nguyên tắc chủ yếu sau đây:
15


Một là, phải kiên trì đường lối đổi mới, đổi mới toàn diện, có nguyên tắc và sáng tạo; trong quá
trình đổi mới, phải luôn luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, kiên định chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không đa
nguyên, đa đảng.
Hai là, Đảng phải được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự
đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đổi mới công tác xây dựng Đảng .
Phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, giữ vững kỷ cương, kỷ
luật; thường xuyên tự phê bình và phê bình; giữ gìn và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, đấu tranh kiên quyết đối với những phần tử cơ hội. Xây dựng hệ thống tổ chức bộ máy trong
sạch, vững mạnh, tinh gọn, thẩm quyền, trách nhiệm rõ ràng, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Coi
trọng xây dựng tổ chức cơ sở đảng.
Ba là, Đảng phải chăm lo xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên có đủ bản lĩnh chính trị,

phẩm chất, trí tuệ và năng lực hoạt động thực tiễn để hoàn thành nhiệm vụ. Phải tạo sự chuyển biến
thực sự và đồng bộ trong công tác cán bộ trên tất cả các khâu đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng,
luân chuyển, bố trí, sử dụng và chính sách cán bộ. Đặc biệt coi trọng xây dựng hạt nhân lãnh đạo,
trọng dụng nhân tài.
Bốn là, Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Phải xây dựng các thiết chế mở rộng và phát huy dân chủ,
bảo đảm các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đều có sự tham gia xây dựng của nhân
dân, phản ánh ý chí, lợi ích chính đáng của nhân dân, của quốc gia, dân tộc. Cán bộ, đảng viên và công
chức phải thật sự là công bộc của nhân dân.
Năm là, Đảng phải tăng cường và nâng cao chất lượng, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát.
Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các nghị quyết, quyết định của Đảng để phát huy ưu điểm,
phòng ngừa và khắc phục kịp thời sai lầm, khuyết điểm; kiểm tra, giám sát công tác, năng lực và
phẩm chất của cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và cán bộ,
đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh. Phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của Mặt trận, các
đoàn thể và của các cơ quan thông tin đại chúng.
Sáu là, Đảng phải đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nhất là phương thức lãnh đạo
Nhà nước, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân. Phải
xây dựng hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của Đảng ở các ngành, các cấp. Đảng hoạt động trong
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; không làm thay công việc của các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị.
Vấn đề 6: Từ bản chất, nội dung của nguyên tắc tập chung dân chủ đã được nghiên cứu, từ thực
tiễn cuộc sống quá trình thực hiện nguyên tắc này được thể hiện như thế nào tạo địa phương
đơn vị đồng chí? Để thực hiện tốt nguyên tắc tập chung dân chủ trong tổ chức hoạt động và sinh
hoạt nơi tổ chức các đồng chí đang sinh hoạt hãy làm gì và làm như thế nào?
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của
Đảng. Nguyên tắc này bảo đảm cho Đảng phát huy sức mạnh trí tuệ của tập thể, bảo đảm sự đoàn kết
thống nhất ý chí và hành động của Đảng. Bất kỳ một đảng, một tổ chức đảng nào không thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ thì đảng đó, tổ chức đảng đó không thể mạnh.
+ Những việc đã làm được

16


Sau khi tiếp thu Chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ chính trị “về xây dựng và thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ sở”; Nghị định số 71/1998/NĐ-CP của Chính phủ, về quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt
động cơ quan; Nghị quyết số 05-NQ/TU ngày 30/3/1998 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Trị về
đẩy mạnh thực hiện phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đảng bộ đã xây dựng
kế hoạch quán triệt, triển khai đến cán bộ, đảng viên và cán bộ công chức của Văn phòng Tỉnh uỷ, tỷ
lệ tham gia 100%. Đã tạo được chuyển biến về trách nhiệm và nhận thức của Đảng uỷ, Đảng bộ, Lãnh
đạo cơ quan, Ban chấp hành Công đoàn và của mỗi cán bộ chuyên viên của Văn phòng. Trong sinh
hoạt của cơ quan nhằm phát huy quyền làm chủ của cán bộ công chức, góp phần xây dựng cơ quan
trong sạch vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức là công bộc của nhân dân, có đủ phẩm
chất, năng lực, làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển trước thời kỳ
đổi mới.
Văn phòng Tỉnh uỷ chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ trên nguyên tắc tập chung dân chủ và
Ban thanh tra nhân dân của Văn phòng sớm được thành lập; xây dựng quy chế hoạt động, quy định
nhiệm vụ, chế độ làm việc, mối quan hệ công tác và phân công nhiệm vụ của các thành viên. Trong
quá trình điều hành thực hiện Văn phòng chỉ đạo luôn đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng uỷ, Đảng bộ,
chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện chế độ thủ trưởng và phát huy vai trò của
các tổ chức đoàn thể. Thể hiện được dân chủ trong nội bộ cơ quan; trách nhiệm của thủ trưởng cơ
quan; trách nhiệm của cán bộ công chức; những việc cán bộ công chức phải được biết; những việc cán
bộ công chức tham gia ý kiến, thủ trưởng cơ quan quyết định; những việc cán bộ công chức giám sát,
kiểm tra. Cơ quan Văn phòng Tỉnh uỷ đã ban hành quy chế hoạt động; quy định chi tiêu nội bộ cơ
quan, quy định thực hiện nếp sống văn hoá nơi công sở… được cán bộ công chức của cơ quan tham
gia thực hiện nghiêm túc đã duy trì tốt chế độ công khai ngân sách, công khai tài chính, định mức sử
dụng xăng dầu ô tô, điện thoại; nguồn tài chính được cấp phát, các khoản thu, chi của cơ quan; việc
đầu tư, sửa chữa, mua sắm cơ sở vật chất; những vấn đề về chế độ chính sách có liên quan đến quyền
lợi của cán bộ công chức được thông tin kịp thời. Những vướng mắc trong nội bộ được thủ trưởng cơ
quan trả lời, giải quyết thông qua đối thoại hoặc thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân và
được thông báo công khai. Hàng năm đều tổ chức Hội nghị Cán bộ công chức, thông qua kế hoạch,

chương trình công tác, cán bộ công chức dân chủ thảo luận xây dựng các chương trình, kế hoạch, góp
ý bổ sung sửa đổi các quy định, quy chế cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ chính trị và đảm bảo lợi
ích chính đáng, hợp pháp của cán bộ công chức như: công tác quy hoạch, đào tạo, tuyển dụng, khen
thưởng, nâng bậc, chuyển ngạch lương, đánh giá, đề bạt cán bộ… Đã gắn việc thực hiện quy chế dân
chủ ở cơ quan với thực hiện Luật cán bộ công chức, công tác cải cách hành chính, phong trào xây
dựng đời sống văn hoá ở cơ quan. Qua hơn 10 năm triển khai, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan
Văn phòng Tỉnh uỷ, luôn giữ được nội bộ đoàn kết thống nhất cao và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
được giao.
+ những việc chưa làm được
Tuy nhiên: bên cạnh những kết quả đã đạt được quá trình tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở
cơ quan Văn phòng Tỉnh uỷ còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế đó là: Nhận thức các quan điểm của
Đảng, pháp luật Nhà nước và Nghị định, Quy định của Chính phủ về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
quan. Nhìn chung còn chưa đều, việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ còn chưa chủ động,
thường xuyên, chưa gắn kết chặt chẽ với nhiệm vụ chuyên môn; một số đảng viên, cán bộ công chức
còn thiếu tích cực trong tham gia đóng góp xây dựng, còn ngại phát biểu ngại tiếp xúc với lãnh đạo cơ
quan, không trực tiếp đối thoại, sợ ảnh hưởng đến quyền lợi của mình; việc duy trì thực hiện nhiệm vụ
của Ban chỉ đạo quy chế dân chủ của cơ quan còn chưa chủ động và toàn diện, một số nội dung, một
số điểm còn chưa duy trì thực hiện đầy đủ theo quy định Nghị định 71/NĐ-CP của Chính phủ; việc tổ
17


chức sơ kết, tổng kết còn thiếu thường xuyên; sự phối hợp thực hiện giữa lãnh đạo, thủ trưởng cơ quan
với Ban chấp hành Công đoàn và Ban thanh tra nhân dân còn thiếu nhịp nhàng, có mặt chất lượng
chưa cao; còn chưa thực hiện tốt vai trò hoạt động của tổ chức công đoàn và nhiệm vụ của Ban thanh
tra nhân dân với việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ quan.
+ Những giải pháp để thực hiện tốt quy chế dân chủ trên nguyên tắc tập chung dân chủ tại đơn vị
(tham khảo thêm một số giải pháp ở trên mạng internet).
Thực tiễn cho thấy, nơi nào vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ sớm muộn đều đưa đến nội bộ
mất đoàn kết, suy yếu; càng phát huy tốt nguyên tắc này thì nội bộ càng mạnh dạn trong đấu tranh góp
ý xây dựng, càng đoàn kết gắn bó. Để thực hiện tốt nguyên tắc tập chung dân chủ, đòi hỏi đảng bộ Văn

phòng Tỉnh ủy cần làm tốt việc giáo dục, học tập cho đảng viên trong đảng bộ nhận thức đúng về
nguyên tắc này.
Đảng bộ Văn phòng Tỉnh ủy và các chi bộ trực thuộc phải cụ thể hóa nội dung nguyên tắc này
thành quy chế trong tổ chức, hoạt động, như quy định về quy trình chuẩn bị, thảo luận và thông qua
nghị quyết; quy chế sinh hoạt cấp ủy, về hoạt động kiểm tra, giám sát; quy định về chế độ thông tin,
giám sát…
Chấp hành tốt những quy định hướng dẫn của cấp trên, thực hiện tốt nguyên tắc cấp dưới phục
tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, bảo đảm chế độ lãnh đạo tập thể. Thực hiện tốt các quyền của
thành viên cấp ủy, chi bộ, thực hiện đúng các nội dung phải biểu quyết và các hình thức biểu quyết.
Thực hiện tốt việc công khai hóa trong tổ chức đảng, thực hiện đúng các quy định của Đảng về
chế độ thông tin, báo cáo để cấp ủy viên, đảng viên có được thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời cùng
với tổ chức đảng bàn bạc, đề xuất, quyết định những việc mà cá nhân có trách nhiệm tham gia.
Kiên quyết, mạnh dạn đấu tranh, phê phán, xử lý, chấn chỉnh những biểu hiện nhận thức không
đúng, xem thường, cố tình vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ.
Cấp ủy cần quan tâm chỉ đạo, tổ chức cho các ủy viên ban chấp hành, các đảng viên nghiên cứu
học tập để nắm, hiểu đầy đủ, sâu sắc nội dung, ý nghĩa của việc tự phê bình và phê bình trong đảng,
nhằm làm cho từng đảng viên nâng cao bản lĩnh chính trị trong sinh hoạt đảng, trong đấu tranh chống
các biểu hiện tiêu cực, đồng thời tạo cho đảng viên ý thức nghiêm túc trong tự phê bình và phê bình.
Thực hiện nền nếp, duy trì thường xuyên việc tự phê bình và phê bình trong cấp ủy, trong chi bộ.
Các đảng viên giữ vai trò lãnh đạo phải hết sức gương mẫu trong chỉ đạo thực hiện nguyên tắc và
trong tự phê bình của cá nhân. Khuyến khích những đảng viên tiêu biểu trong tự phê bình, phê bình.
Cấp uỷ, lãnh đạo các chi bộ phải tạo điều kiện giúp đỡ, giáo dục, kiểm tra những đảng viên mắc
sai lầm khuyết điểm mà họ đã tự giác sửa chữa, cầu tiến; kiên quyết xử lý những đảng viên sai phạm
mà không thành khẩn tiếp thu sửa chữa, những đảng viên lợi dụng tự phê bình và phê bình để trả thù,
chia rẽ nội bộ.
Đảng bộ Văn phòng Tỉnh ủy phải xây dựng, tuân thủ quy chế hoạt động, thực hiện tốt các nguyên
tắc, quy định của Đảng, nhất là nguyên tắc tập thể lãnh đạo, tập trung dân chủ. Cần tuân thủ nghiêm
quy trình, nguyên tắc làm công tác cán bộ.
Cần lựa chọn bố trí đúng cán bộ, kiên quyết không bố trí những người có tư tưởng bè phái, cục
bộ. Ở những đảng bộ, cấp uỷ, chi bộ có hiện tượng mất đoàn kết phải phân tích, tìm hiểu đúng nguyên

nhân và có biện pháp giải quyết phù hợp, kịp thời, tránh để kéo dài.
Vấn đề 7: Hiểu biết của đồng chí về Đảng cầm quyền, về Đảng cộng sản cầm quyền. Đặc điểm
hoạt động của ĐCS nói chung và nhất là ở giai đoạn nhiệm vụ chính trị của đảng trước khi có
chính quyền và sau khi có chính quyền
18


Đảng cầm quyền là một khái niệm của khoa học chính trị, có nội dung xác định, cho biết đảng
chính trị nào là lực lượng nắm chính quyền, quản lý đất nước, điều hành mọi hoạt động của xã hội phù
hợp với lợi ích của giai cấp mình.
Khái niệm Đảng cầm quyền lần đầu được V.I.Lênin nêu ra. Sau này Hồ Chí Minh và Đảng ta đã
sử dụng các thuật ngữ để nói về vai trò của Đảng cầm quyền của Đảng như: Đảng giành được chính
quyền, Đảng nắm chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền. Trong Di chúc dặn lại, Bác viết: “Đảng ta
là một đảng cầm quyền”. Trong Điều lệ Đảng được đại hội X của Đảng thông qua cũng khẳng định:
“Đảng cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền”.
Theo Hồ Chí Minh, điều kiện và cũng là đặc trưng để một Đảng cộng sản vốn hoạt động bất hợp
pháp trở thành đảng cầm quyền là lãnh đạo cách mạng thành công, giành lấy chính quyền. Tại Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ II (2-1951), Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và
nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có
thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nữa thuộc
địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.
Đảng cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền đã lãnh đạo hai cuộc kháng chiến thần thánh
và đã giành thắng lợi vẻ vang; Đảng tiếp tục lãnh đạo công cuộc xây dựng đất nước, đổi mới toàn diện,
hướng tới mục tiêu đưa Việt Nam cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm
2020. Như vậy, ở nước ta Đảng cầm quyền không những chỉ là Đảng lãnh đạo chính quyền, mà còn là
Đảng lãnh đạo cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Như vậy, đảng cầm quyền là khái niệm chỉ thời kỳ đảng đã nắm được chính quyền và sử dụng
chính quyền đó như một công cụ của giai cấp nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chính trị của giai cấp.
Đảng cộng sản cầm quyền là khái niệm để chỉ một giai đoạn mới, một thời kỳ mới của cách
mạng. Đó là thời kỳ mà chủ nghĩa xã hội không còn đơn thuần chỉ là một mục đích, một cương lĩnh, là

học thuyết, mà đã trở thành công việc phấn đấu hàng ngày của đảng. Đó là thời kỳ mà nhiệm vụ chiến
lược hàng đầu, chủ yếu và trọng tâm là tổ chức xây dựng đất nước, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc là chiến
lược quan trọng.
Đảng cộng sản Việt Nam trở thành đảng cầm quyền là do: Đảng đi tiên phong trong sự nghiệp
đấu tranh của nhân dân và của dân tộc, lật đổ chế độ củ, giành lấy chính quyền; Đảng có được sự tín
nhiệm, ủng hộ của quần chúng nhân dân mà nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân, nông dân
và đội ngũ trí thức.
Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền, thực chất cũng là nhân dân nắm quyền, “mọi quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân”. Đảng được nhân dân tín nhiệm giao trọng trách lãnh đạo Nhà nước và toàn
xã hội.
Đảng cộng sản Việt Nam là một bộ phận nhưng với vị trí, vai trò của mình trong xã hội. Đảng là
lực lượng lãnh đạo, là bộ phận hạt nhân chịu trách nhiệm trước giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và dân tộc thực hiện sứ mệnh lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị.
Tuy nhiên, khi đã trở thành lực lượng duy nhất lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đảng
phải luôn đề phòng bệnh mất dân chủ, chuyên quyền, độc đoán, tránh cả hai khuynh hướng hoặc là bao
biện làm thay, “dắt tay, chỉ việc”, “lấn sân”, hoặc là “khoán trắng”, buông lỏng sự lãnh đạo. Hồ Chí
Minh từng nói: Đảng ta không bao giờ sợ khổ, sợ khó và cũng không hề sợ vạch rõ khuyết điểm của
mình. Có khuyết điểm thì Đảng thành khẩn nhận và kiên quyết sửa chữa. Và trong thực tế, Đảng cộng
sản Việt Nam đã biết nhận khuyết điểm và sửa chữa sai lầm, khuyết điểm. Đảng cộng sản Việt Nam
cầm quyền đã được ghi nhận trong Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Đặc điểm hoạt động của Đảng khi đã giành được chính quyền khác rất nhiều so với khi
chưa có chính quyền.
19


Thứ nhất, là về nhiệm vụ chính trị:
Trước khi có chính quyền, nhiệm vụ hàng đầu của đảng là lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành
chính quyền. Để thực hiện nhiệm vụ này, đặc điểm hoạt động của Đảng chủ yếu là các tổ chức đảng và
đảng viên trực tiếp tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương đến các hội, đoàn thể, quần chúng
“cốt cán”, thậm chí đến từng người dân; từ đó tổ chức nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của

đảng, tập hợp lực lượng cách mạng, thành lập một mặt trận rộng rãi, tiến hành đấu tranh dưới hình
thức lúc bí mật, lúc công khai, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự vũ trang, tiến tới lật
đổ chế độ cũ, giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Quan hệ của Đảng với nhân dân
ở giai đoạn này là quan hệ máu thịt; mọi sự xa rời nhân dân đều có thể dẫn đến tổn thất cho cách
mạng, cho sinh mệnh của ngay bản thân tổ chức đảng và đảng viên. Trong điều kiện khi chưa có chính
quyền, trong Đảng không có điều kiện để phát sinh, phát triển các tệ nạn như: quan liêu, mệnh lệnh...
Khi đã có chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền tổ chức, quản lý đất nước xây dựng XHCN
với nhiệm vụ trung tâm là xây dựng kinh tế và bảo vệ tổ quốc XHCN.
Khi đã có chính quyền, thì chính quyền là công cụ mạnh mẽ, sắc bén nhất để đưa ra đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng vào cuộc sống, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với toàn xã hội.
Trong phương thức cầm quyền, ngoài cách thức tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân, Đảng
lãnh đạo chính quyền (Nhà nước) thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành Hiến
pháp, pháp luật, kế hoạch... và tổ chức nhân dân thực hiện. Thực chất của Đảng cầm quyền là: Đảng
lãnh đạo chính quyền và thông qua chính quyền để nhân dân làm chủ nhà nước, làm chủ xã hội. Trong
điều kiện Đảng đã có chính quyền, V.I.Lênin đã cảnh báo các nguy cơ: Sai lầm về đường lối, quan
liêu, xa rời quần chúng và kiêu ngạo cộng sản. Ngay sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cũng đã cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối và suy thoái của cán bộ, đảng viên. Người yêu
cầu cần phải chiến thắng ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu; nếu không sẽ làm đổ vỡ cả
sự nghiệp của Đảng cầm quyền.
Nhiệm vụ đầu tiên của Đảng ngay sau khi giành chính quyền là phải tập trung lực lượng để ổn
định tình hình xã hội. Sau khi tình hình đã ổn định, nhiệm vụ tổ chức và quản lý đất nước trở thành
nhiệm vụ trung tâm, nhiệm vụ chủ yếu của Đảng. Đảng cần phải nghiên cứu những kinh nghiệm tổ
chức và quản lý kinh tế, xã hội ở các nước phát triển để áp dụng vào thực tiễn đất nước.
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo đất nước định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội với cơ chế thị
trường, có sự quản lý của nhà nước từ một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nghèo nàn, lại phải trải
qua nhiều năm bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Hoàn cảnh khó khăn, phức tạp đòi hỏi Đảng ta và nhân
dân ta phải đoàn kết nhất trí một lòng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, đi theo con
đường mà Đảng và chủ tịch HCM đã lựa chọn.
Thứ hai, Đảng cầm quyền trong điều kiện đã có Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Sau khi lãnh đạo cách mạng giành được chính quyền, Đảng tổ chức thiết lập nhà nước mới - Nhà

nước XHXN của dân, do dân và vì dân. Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là một tất yếu lịch sử khi
giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN trở thành lực lượng lãnh đạo xã hội. Nhà nước đó là
nhà nước mang bản chất giai cấp công nhân và là công cụ của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
thực hiện quyền làm chủ của minh; đồng thời, cũng là công cụ sắc bén để Đảng cộng sản thực hiện sự
lãnh đạo đối với toàn xã hội.
Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa là đặc điểm cực kỳ quan trọng. Khi đã có nhà nước, từ
những vấn đề về xây dựng nội bộ Đảng, tất cả các hoạt động lãnh đạo của Đảng đối với xã hội chủ yếu
và tập trung ở nhà nước. Thông qua các hoạt động của nhà nước, các quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng được cụ thể hoá, thể chế hoá thành luật pháp và tổ chức thực hiện. Đồng thời, chính sự lãnh
20


đạo của Đảng đối với Nhà nước là yếu tố quan trọng đảm bảo cho Nhà nước thật sự là Nhà nước của
dân, do dân và vì dân, là công cụ sắc bén của nhân dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh: “ Bộ máy nhà nước, các thiết chế khác trong hệ
thống chính trị có nhiệm vụ đề xuất ý kiến với Đảng trong quá trình xây dựng, hoạch định và tổ chức
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng. Nhà nước Việt Nam là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X cũng nhấn mạnh: Nhà nước “tác động đến thị trường chủ
yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế... Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống
pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp”.
Thứ ba là phương thức lãnh đạo của Đảng phải thay đổi
Sau khi có chính quyền, nhiệm vụ chính trị của Đảng đã thay đổi và với sự xuất hiện của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa trong hệ thống chính trị, nhiều phương pháp lãnh đạo của Đảng ở giai đoạn
trước, về cơ bản không còn thích hợp.
V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải giải quyết những nhiệm vụ thuộc
loại khác, thì không nên nhìn lại đằng sau và sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua”.
Trước những yêu cầu và nhiệm vụ mới đặt ra, đòi hỏi Đảng phải vận dụng sáng tạo nhiều phương
pháp, hình thức mới phù hợp với thực tiễn. Trong đó, đảng cần đặc biệt chú trọng phương pháp lãnh
đạo thông qua nhà nước, tích cực phát huy vai trò của nhà nước trong việc thể chế hoá đường lối, chủ

trương của đảng bằng các hình thức, quy định, pháp lệnh, biện pháp quản lý của nhà nước. Có một số
phương pháp, hình thức trước đây được sử dụng phổ biến, đến nay không còn phổ biến nữa. Như
phương pháp tuyên truyền, vận động cá biệt từng người, từng nhà, nay vẫn cần, nhưng phải sử dụng
rộng rãi hệ thống các phương tiện thông tin đại chúng, sử dụng cả hệ thống chính trị để tuyên truyền.
Cũng có phương pháp, hình thức trước đây không sử dụng, đến nay sử dụng rộng rãi như: kết hợp
tuyên truyền, giáo dục tư tưởng với kích thích vật chất; kết hợp biện pháp giáo dục với biện pháp hành
chính và cưỡng bức; kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức và biện pháp kinh tế.
Đảng cộng sản cầm quyền thực hiện sự lãnh đạo của mình không phải bằng quyền lực hành chính
mà chủ yếu bằng 5 phương thức tích cực sau:
- Cương lĩnh, đường lối, chiến lược.
- Giáo dục, thuyết phục.
- Công tác tư tưởng và công tác tổ chức cán bộ.
- Hoạt động của đội ngũ đảng viên và hệ thống tổ chức đảng.
- Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ tư, Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc khi tình hình quốc tế
có những biến đổi nhanh chóng, khó lường; có nhiều thuận lợi, thời cơ mới, đồng thời cũng có
nhiều khó khăn, thách thức gay gắt.
Thuận lợi của Đảng cầm quyền đó là:
Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền.
Đảng hoạt động công khai, hợp pháp, hợp hiến.
Đảng có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Qua 80 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản VN đã được nhân dân và cả dân tộc Việt Nam
thừa nhận là người tổ chức, lãnh đạo và quyết định mọi thắng lợi của cách mạng VN. Đảng được nhân
dân ta tin yêu gọi là “Đảng ta”.
Đảng cộng sản VN ngày càng mở rộng quan hệ với các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế.
Nguy cơ đối với Đảng cầm quyền:
21


Chủ tịch HCM đã sớm vạch rõ 02 nguy cơ đối với đảng cầm quyền: một là, sai lầm về đường lối,

hai là, sự suy thoái, biến chất của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ Đại hội VII của Đảng (1994), Đảng đã bổ sung thêm và xác định có
4 nguy có đối với Đảng và cách mạng Việt Nam lúc này là:
- Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, do điểm
xuất phát thấp.
- Nguy cơ sai lầm về đường lối, đi chệch định hướng XHCN.
- Nguy cơ về tệ nạn tham nhũng và tệ quan liêu, lãng phí.
- Nguy cơ về “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch
Qua những phân tích ở trên cho thấy được sự thay đổi lớn về nhiệm vụ chính trị, phương thức,
đặc điểm hoạt động của Đảng trước và sau khi có chính quyền.
* Liên hệ thực tiễn tại cơ quan công tác:
- Những hạn chế, khuyết điểm trong công tác lãnh đạo của Đảng bộ Văn phòng Tỉnh uỷ là:
Vai trò hạt nhân lãnh đạo của một số chi bộ chưa thể hiện rõ trong một số mặt công tác, nhất là
việc bám sát yêu cầu nhiệm vụ chính trị để định hướng chỉ đạo hoạt động.
Phương pháp, quy trình tổ chức điều hành thực hiện chưa được nề nếp, khoa học; trong quản lý,
điều hành còn lúng túng, thiếu kịp thời; một số ít đảng viên nhận thức về vai trò, tính tiên phòng
gương mẫu của đảng viên chưa cao; trình độ, năng lực của một số cán bộ, chuyên viên trong công tác
tham mưu, phục vụ còn hạn chế, chưa theo kịp yêu cầu, nhiệm vụ...
Để làm tốt công tác lãnh đạo của Đảng bộ Văn phòng Tỉnh uỷ trong thời gian tới theo tôi phải
tiếp tục đổi mới, nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng
Tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ; thực hiện nghiêm túc các quy định về tổ chức
sinh hoạt Đảng, xây dưng Đảng bộ trong sạch, vững mạnh; tập trung lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
chính trị, nâng cao hiệu quả công tác tham mưu, phục vụ; tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng; lãnh đạo công tác xây dựng chính quyền và xây dựng Đảng bộ Văn phòng Tỉnh uỷ trong sạch
vững mạnh.
Vấn đề 8 (Tham khảo)
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công có ý nghĩa quốc tế và ý nghĩa dân tộc vô cùng to
lớn, như một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dựng nước và giữ nước mấy nghìn năm của
dân tộc; đưa Đảng ta từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành một Đảng cầm quyền, công khai lãnh
đạo cuộc cách mạng của dân tộc.Đây là thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của

Đảng Cộng sản Việt Nam mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường lối lãnh đạo tài tình, sáng
tạo. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập khai
sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, lập nên nhà nước của dân, do dân và vì dân. Dân tộc ta
bước sang kỷ nguyên mới – kỷ nguyên độc lập, tự do, dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đánh giá ý nghĩa lịch sử của sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Chẳng những giai cấp
lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi
khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa
và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn
quốc”.
* Đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng (1945-1946)
Ngay khi vừa mới ra đời, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã phải đối mặt với ba thứ giặc:
giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nạn đói hoành hành đầu năm 1945 đã làm chết hơn hai triệu
người ở miền Bắc. Trên 95% dân Việt Nam mù chữ. Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng đã tràn vào
22


với mưu đồ ”diệt cộng, cầm Hồ”. Ở miền Nam, hơn 15 vạn quân Pháp với sự giúp đỡ của liên quân
Anh – Ấn lăm le xâm lược nước ta. Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của Nhà nước ta còn rất non yếu;
vận mệnh của đất nước trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”. Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí
Minh, đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặtchính
trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng. Đối với các thế lực thù địch, chúng ta đã thực hiện sách lược
mềm dẻo, lợi dụng mâu thuẫn, phân hoá chúng, dành thời gian củng cố lực lượng, chuẩn bị
kháng chiến. Với đường lối chính trị sáng suốt, vừa cứng rắn về nguyên tắc, vừa mềm dẻo về sách
lược, Đảng ta đã động viên được sức mạnh đoàn kết toàn dân, triệu người như một, vượt qua muôn
vàn khó khăn,nguy hiểm để củng cố, giữ vững chính quyền, đưa cách mạng vượt qua tình thế hiểm
nghèo, chuẩn bị mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
* Đảng lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946-1954)
Bất chấp mong muốn độc lập và hoà bình của Chính phủ và nhân dân ta, mặc dù chúng ta đã
nhân nhượng nhưng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng có dã tâm cướp nước ta một lần nữa. Lịch sử
đã đặt dân tộc ta trước một thử thách mới, phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của dân tộc. Đêm ngày

19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Hưởng ứng lời kêu gọi
của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân cả nước đồng loạt đứng lên với quyết tâm ”thà hy sinh
tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Với đường lối kháng chiến
toàn dân, toàn diện, trường kỳ, dựa vào sức mình là chính, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, Đảng đã
lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, đánh dấu bằng chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ.
Đánh giá ý nghĩa thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: “Lần đầu tiên trong lịch sử một nước thuộc địa nhỏ yếu đã đánh thắng một nước thực dân hùng
mạnh. Đó là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam, đồng thời cũng là một thắng lợi của các
lực lượng hoà bình, dân chủ và xã hội chủ nghĩa trên thế giới”. Thắng lợi đó làm sáng tỏ một chân lý:
“Trong điều kiện thế giới ngày nay, một dân tộc dù là nhỏ yếu, nhưng một khi đã đoàn kết đứng lên,
kiên quyết đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mác – Lênin để giành độc lập và dân chủ, thì có
đầy đủ lực lượng để chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Thắng lợi đó cũng chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh
đạo đúng đắn của giai cấp công nhân mà Đảng ta là đại biểu, chỉ có đường lối cách mạng khoa học của
CN Mác – Lênin mới có thể tạo điều kiện cho nhân dân ta đánh bại quân thù và giành tự do, độc lập”.
* Đảng lãnh đạo nhân dân ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược (1954 – 1975)
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời
kỳ mới với đặc điểm là đất nước tạm thời chia làm hai miền với hai chế độ chính trị – xã hội đối lập
nhau. Đảng xác định con đường phát triển tất yếu của cách mạng Việt Nam là tiến hành đồng thời hai
nhiệm vụ chiến lược:
Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, xây dựng miền Bắc thành căn cứ địa
vững mạnh của cách mạng cả nước.
Hai là, tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, chống đế quốc Mỹ và bè lũ
tay sai, giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất nước nhà.
Tuy mỗi miền thực hiện một nhiệm vụ chiến lược khác nhau nhưng có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau; trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự
phát triển của cách mạng Việt Nam, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vị trí quan
trọng, có tác dụng trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước với
tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho nguỵ nhào”. Trong cuộc

đọ sức quyết liệt này, đế quốc Mỹ đã huy động và sử dụng một lực lượng quân sự và phương tiện
23


chiến tranh khổng lồ hòng tiêu diệt lực lượng cách mạng nước ta. Trải qua 21 năm chiến đấu kiên
cường, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt qua mọi khó khăn, gian khổ hy sinh, được sự
đồng tình ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đã lần lượt đánh thắng các chiến lược chiến
tranh của đế quốc Mỹ ở miền Nam và chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ở miền Bắc.
Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh
lịch sử, nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi oanh liệt mùa Xuân năm 1975 đã kết thúc vẻ vang 30 năm chiến
tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; chấm dứt ách thống trị tàn bạo hơn một thế kỷ của chủ nghĩa
thực dân cũ và mới trên đất nước ta; hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước; bảo vệ
thành quả của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, mở ra thời kỳ mới – thời kỳ độc lập, thống nhất đi lên chủ
nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước.
Đánh giá tầm vóc vĩ đại và ý nghĩa lớn lao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Nghị
quyết Đại hội IV của Đảng viết: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự
nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những
trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và
trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có
tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
* Đảng lãnh đạo sự nghiệp XD CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN (1975 đến nay)
Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có những thuận
lợi, song cũng không ít khó khăn. Khó khăn lớn nhất là nền kinh tế sản xuất nhỏ, năng suất lao động
thấp, hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại. Trong quan hệ quốc tế, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
phản động bên ngoài tìm mọi cách phá hoại, bao vây, cấm vận, gây khó khăn cho cách mạng Việt
Nam. Trên thế giới, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trải qua nhiều diễn biến phức tạp: chủ
nghĩa xã hội gặp những khó khăn, lâm vào khủng hoảng, thoái trào, đặc biệt là sự sụp đổ của chế độ xã
hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu. Tình hình đó đã tác động, ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp xây
dựng CNXH ở nước ta.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975 – 1985), cách mạng Việt Nam đã vượt qua
những khó khăn, trở ngại, thu được những thành tựu quan trọng. Chúng ta đã nhanh chóng hoàn thành
việc thống nhất đất nước về mọi mặt, đánh thắng các cuộc chiến tranh biên giới, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa. Trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá – xã hội, nhân dân ta đã có những cố gắng to
lớn trong công cuộc khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh, bước đầu bình ổn sản xuất và
đời sống nhân dân.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, những thành tựu về kinh tế – xã hội đạt được còn thấp so với
yêu cầu, kế hoạch và công sức bỏ ra; nền kinh tế có mặt mất cân đối nghiêm trọng, tỷ lệ lạm phát cao
quá mức, đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế – xã hội.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tại Đại hội VI của
Đảng (tháng 12-1986), Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định những mặt làm được, phân tích
rõ những sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo kinh tế. Đại
hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước ngoặt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đến năm
2000 và Nhiệm vụ kinh tế – xã hội 5 năm 1991 – 1995. Đại hội đưa ra quan niệm tổng quát về xã hội
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, phương hướng cơ bản để xây dựng xã hội đó; khẳng định chủ nghĩa Mác
– Lênin, tưtưởng Hồ chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng; khẳng định
24


phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII
của Đảng, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách gay go. Đại hội VIII của Đảng (từ ngày 226 đến ngày l-7-1996) đã nhận định: “Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành
tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991-1995 đã được
hoàn thành về cơ bản.
Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng KT-XH, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Nhiệm vụ đề
ra cho chặng đường đầu của thời kỳ quá độ là chuẩn bị tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn

thành, cho phép chuyển sang thời kỳ mới đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.Con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục sự nghiệp đổi mới,
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh
vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội” 7 và đề ra nhiệm vụ kinh tế – xã hội từ năm 1996đến năm 2000 là:
tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết những vấn đề bức xúc về xã
hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời sống của nhân dân, nâng cao tích luỹ từ nội bộ nền
kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào thế kỷ XXI .
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) đã kiểm điểm việc thực hiện
Nghị quyết Đại hội VIII và khẳng định, trong 5 năm 1996-2000, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã
vượt qua những khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu quan trọng. Tổng kết 15 năm đổi mới,
Đại hội đã khẳng định: Thực tiễn phong phú và những thành tựu thu được qua 15 năm đổi mới đã
chứng minh tính đúng đắn của Đảng, đồng thời giúp chúng ta nhận thức càng rõ hơn về con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thế kỷ XX là
thế kỷ đấu tranh oanh liệt và chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta. Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ nhân dân ta
tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các nước phát triển trên thế giới.
Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội IX trong 5 năm (2001-2005), Nghị quyết Đại hội
X của Đảng đã khẳng định: toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã đạt những thành tựu rất quan trọng.
Đại hội cũng chỉ ra những khuyết điểm và yếu kém còn tồn tại. Những khuyết điểm, yếu kém này là
do nhiều nguyên nhân. Đại hội X của Đảng đã phân tích và chỉ ra nguyên nhân chủ quan là chính. Đó
là, tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; sự chỉ đạo tổ chức thực hiện chưa tốt; một bộ
phận CB, ĐV, kể cả cán bộ chủ chốt, yếu kém về phẩm chất và năng lực. Đây là những vấn đề cần
sớm được khắc phục.
Nhìn lại 20 năm đổi mới, Đại hội X khẳng định: Với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
Đại hội đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm chủ yếu của quá trình đổi mới ở nước ta. Những thành tựu và
bài học đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Qua 20 năm, hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã hội xã hội chủ nghĩa và

con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành trên những nét cơ bản, ngày càng sáng tỏ
hơn.
Đại hội lần thứ XI của Đảng là một sinh hoạt chính trị sâu rộng không những trong nội bộ Đảng
mà trong toàn xã hội, để toàn Đảng và toàn dân đánh giá toàn diện về vai trò lãnh đạo của Đảng trong
công cuộc đổi mới và phát triển đất nước hơn 25 năm qua. Đồng thời, thông qua ý kiến của đông đảo
nhân dân và những ai quan tâm, có thiện chí, thì đây còn là dịp để Đảng tiếp thu những ý kiến chân
25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×