Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

TÌM HIỂU XÂY DỰNG CÔNG CỤ PHÁT TRIỂN NỘI DUNG VÀ SEO TỰ ĐỘNG ÁP DỤNG VỚI WEBSITE THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 91 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
_______________________________

ĐỒ ÁN`

TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:

TÌM HIỂU XÂY DỰNG CÔNG CỤ PHÁT TRIỂN
NỘI DUNG VÀ SEO TỰ ĐỘNG ÁP DỤNG VỚI
WEBSITE THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Sinh viên thực hiện:
NGUYỄN NGỌC QUÝ
Lớp:
ĐH KHMT2 – K5
Giảng viên hướng dẫn: ThS.Nguyễn Thị Hương Lan
Cán bộ phản biện:
ThS. Đỗ Thị Minh
Nguyệt

Hà Nội, 05/2014



TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
_______________________________

ĐỒ ÁN`


TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:

TÌM HIỂU XÂY DỰNG CÔNG CỤ PHÁT TRIỂN
NỘI DUNG VÀ SEO TỰ ĐỘNG ÁP DỤNG VỚI
WEBSITE THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

Sinh viên thực

NGUYÊN NGỌC QUÝ

hiện:
Lớp:

ĐH KTPM2 – K5
Giảng viên

ThS. Nguyễn Thị Hương Lan

hướng dẫn:
Cán bộ phản
biện:

ThS. Đỗ Thị Minh Nguyệt


Hà Nội, 05/2014


TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
_______________________________

ĐỒ ÁN`

TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:

TÌM HIỂU VÀ XÂY DỰNG HỆ THỐNG QUẢN
TRỊ NỘI DUNG CHO CÔNG TY
TAM NHẤT JSC
Sinh viên thực

DƯƠNG MẠNH THẮNG

hiện:
Lớp:

ĐH KTPM2 – K5
Giảng viên

ThS. Nguyễn Thị Hương Lan

hướng dẫn:

Hà Nội, 05/2014



NHẬN XÉT GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN

..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................
..........................................................................................................................



LỜI NÓI ĐẦU
Các thiết bị công nghệ di động như điện thoại, máy tính bảng, thiết bị
chơi game cầm tay… ngày càng phát triển mạnh mẽ vì thế đã tạo nên một
cuộc cạnh tranh giữa các hãng sản xuất thiết bị như Samsung, HTC, Apple,
Sony,... để trở thành hãng sản xuất lớn mạnh và đứng đầu thị trường. Nó
không chỉ cạnh tranh giữa các hãng mà còn tạo ra một cuộc cạnh tranh
giữa các hãng phần mềm phát triển các hệ điều hành chạy trên các thiết bị
đó ví dụ như Google, Apple, RIM, Microsoft… Trong vài năm trở lại đây, hệ
điều hành Android ra đời với sự kế thừa những ưu việt của các hệ điều
hành ra đời trước và sự kết hợp của nhiều công nghệ tiên tiến nhất hiện
nay, đã được nhà phát triển công nghệ rất nổi tiếng hiện nay là Google.
Android là một hệ điều hành mã nguồn mở được phát triển dựa trên nhân
Linux, sự phát triển của Android đã có những bước phát triển mạnh mẽ và
dần chiếm cảm tình của người dùng và nhanh chóng là đối thủ cạnh tranh
mạnh mẽ với các hệ điều hành trước đó và đang là hệ điều hành di động
của tương lai và được nhiều người ưa chuộng nhất. Do có lợi thế là được
xây dựng theo tiêu chí mở nên việc phát triển ứng dụng trên Android được
cho là khá dễ dàng.
Ngày nay, con người càng ngày càng bận rộn, do đó việc lên lịch biểu
hàng ngày là cần thiết để tránh những sai sót đáng tiếc xảy ra nếu quên làm
một số việc nào đó. Chính vì vậy, một phần mềm nhắc nhở, hỗ trợ trong
việc lên lịch biểu là thực sự cần thiết đối với mỗi người.Xuất phát từ nhu
cầu đó, tác giả chọn đề tài “Xây dựng hệ thống nhắc việc trên thiết bị
Android ”.
Đề tài khó có thể tránh được sai sót, mong các thầy, cô và các bạn bỏ
qua và góp ý thêm để đề tài ngày càng hoàn thiện trong tương lai.
Em xin chân thành cám ơn!



TÓM TẮT ĐỒ ÁN
Trong quá trình xây dựng các ứng dụng thông qua ngôn ngữ lập trình,
tác giả nhận thấy lập trình ứng dụng trên nền tảng Android là lĩnh vực hứa
hẹn đầy tiềm năng, đặc biệt là ở nước ta. Bên cạnh đó, xã hội ngày càng
phát triển đòi hỏi các công việc không bị bỏ sót, chính vì vậy việc xây dựng
một hệ thống nhắc việc trong đời sống hiện đại là rất cần thiết nên tác giả
đã lựa chọn đề tài này với cấu trúc như sau:
-

Chương I: Hệ điều hành Android

-

Chương II: Môi trường lập trình

-

Chương III: Hệ thống nhắc việc trên điện thoại di động với hệ điều hành Android

Kết thúc quá trình thực hiện đồ án, tác giả đã hoàn thiện ứng dụng
nhắc việc trên hệ điều hành Adroid và dịch vụ hỗ trợ trên máy chủ.

SUMMARY
When building applications by programming languages, the author see
building Android application is very promising and potential, especially in our
country. Besides, the society is developing faster and faster and people
don't want to forget any event or work need to be done so today building a
reminder system is so necessary and the author has chosen this subject
with this structure:

-

Part I: Android OS

-

Part II: Programming environment.

-

Part III: Reminder system in Android devices.

After finishing the project, the author has a complete reminder
application working in Android devices and supporting services from server.


MỤC LỤC


DANH SÁCH HÌNH ẢNH


DANH SÁCH BẢNG BIỂU


DANH SÁCH TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Từ đầy đủ


Giải thích

OS

Operating System

Hệ điều hành

PC

Personal computer

Máy tính cá nhân

XML
TV

eXtensible
Language
Television

Markup

Ngôn ngữ đánh dấu mở
rộng
Vô tuyến truyền hình


CHƯƠNG 1. HỆ ĐIỀU HÀNH
ANDROID

1.1. Giới thiệu về Android
Android là một hệ điều hành dành cho thiết bị di động như smartphone, tablet
hay netbook. Android do Google phát triển dựa trên nền tảng mã nguồn mở Linux
OS (Kernel 2.6) cho máy di động và những phần mềm trung gian (middleware) để
hỗ trợ các ứng dụng mà người sử dụng cần đến. Một cách định nghĩa không quá
chuyên môn thì có thể coi Android là tên một nền tảng mở cho thiết bị di động của
Google (gồm hệ điều hành, middleware và một số ứng dụng cơ bản).
Android là hệ điều hành mở mã nguồn chính duy nhất với 12 triệu dòng mã bao
gồm 3 triệu dòng mã XML, 2.8 triệu dòng mã C, 2.1 triệu dòng Java và 1.75 triệu
dòng C++.
Ban đầu, Android được phát triển bởi Tổng công ty Android, với sự hỗ trợ tài
chính từ Google và sau này được chính Google mua lại vào năm 2005.Android ra
mắt vào năm 2007 cùng với tuyên bố thành lập Liên minh thiết bị cầm tay mở: một
hiệp hội gồm các công ty phần cứng, phần mềm, và viễn thông với mục tiêu đẩy
mạnh các tiêu chuẩn mở cho các thiết bị di động.Chiếc điện thoại đầu tiên chạy
Android được bán vào tháng 10 năm 2008.
Android có mã nguồn mở và Google phát hành mã nguồn theo Giấy phép
Apache. Chính mã nguồn mở cùng với một giấy phép không có nhiều ràng buộc đã
cho phép các nhà phát triển thiết bị, mạng di động và các lập trình viên nhiệt huyết
được điều chỉnh và phân phối Android một cách tự do. Ngoài ra, Android còn có
một cộng đồng lập trình viên đông đảo chuyên viết các ứng dụng để mở rộng chức
năng của thiết bị, bằng một loại ngôn ngữ lập trình Java có sửa đổi. Vào tháng 10
năm 2012, có khoảng 700.000 ứng dụng trên Android, và số lượt tải ứng dụng từ
Google Play, cửa hàng ứng dụng chính của Android, ước tính khoảng 25 tỷ lượt.
Android được phát triển nhằm cạnh tranh với các hệ điều hành di động khác như
iOS (Apple), BlackBerry OS, Windows Mobile (Microsoft), Symbian (Nokia),
Samsung (Bada), WebOS (Palm)... Android đã trở thành nền tảng di động tăng
trưởng nhanh nhất thế giới. Vượt qua Symbian vào quý 4 năm 2010, và được các
công ty công nghệ lựa chọn khi họ cần một hệ điều hành không nặng nề, có khả
năng tinh chỉnh, và giá rẻ chạy trên các thiết bị công nghệ cao thay vì tạo dựng từ

đầu. Kết quả là mặc dù được thiết kế để chạy trên điện thoại và máy tính bảng,
Android đã xuất hiện trên TV, máy chơi game và các thiết bị điện tử khác. Bản chất
mở của Android cũng khích lệ một đội ngũ đông đảo lập trình viên và những người
đam mê sử dụng mã nguồn mở để tạo ra những dự án do cộng đồng quản lý. Những


dự án này bổ sung các tính năng cao cấp cho những người dùng thích tìm tòi hoặc
đưa Android vào các thiết bị ban đầu chạy hệ điều hành khác.
Android chiếm 75% thị phần điện thoại thông minh trên toàn thế giới vào thời
điểm quý 3 năm 2012, với tổng cộng 500 triệu thiết bị đã được kích hoạt và 1,3
triệu lượt kích hoạt mỗi ngày.Sự thành công của hệ điều hành cũng khiến nó trở
thành mục tiêu trong các vụ kiện liên quan đến bằng phát minh, góp mặt trong cái
gọi là "cuộc chiến điện thoại thông minh" giữa các công ty công nghệ.

1.1.1.
Android khác với các hệ điều hành chạy trên thiết
bị di động khác
Android đã thu hút được sự chú ý của giới công nghệ khắp toàn cầu khi đứa con
của Google sử dụng giấy phép mã nguồn mở. Đó là một sản phẩm kết tinh từ ý
tưởng của Khối Liên minh thiết bị cầm tay mở do Google dẫn đầu, gồm 34 thành
viên với các công ty hàng đầu về công nghệ và di động toàn cầu như Qualcomm,
Intel, Motorola, Texas Instruments và LG Electronics, các nhà mạng như T -Mobile,
Sprint Nextel, NTT DoCoMo và China Mobile.
Các nhà phát triển có thể sử dụng miễn phí bộ Kit Android Software
Development để xây dựng các ứng dụng của mình.

1.1.2.

Đặc tính mở của Android


Android được xây dựng để cho phép các nhà phát triển để tạo ra các ứng dụng di
động hấp dẫn, tận dụng tất cả tính năng một chiếc điện thoại đã cung cấp. Nó được
xây dựng để được thực sự mở. Ví dụ, một ứng dụng có thể gọi bất kỳ chức năng lõi
của điện thoại như thực hiện cuộc gọi, gửi tin nhắn văn bản, hoặc bằng cách sử
dụng máy ảnh, cho phép các nhà phát triển để tạo ra nhiều ứng dụng phong phú hơn
cho người dùng (điều này hiện chưa có trên Windows Phone7 của Microsoft).
Android được xây dựng trên mã nguồn mở Linux Kernel. Hơn nữa, nó sử dụng
một máy ảo tuỳ chỉnh được thiết kế để tối ưu hóa bộ nhớ và tài nguyên phần cứng
trong một môi trường di động.
Android không phân biệt giữa các ứng dụng lõi của điện thoại và các ứng dụng
của bên thứ ba. Tất cả có thể được xây dựng để có thể truy cập bằng khả năng của
một thiết bị di động cung cấp cho người sử dụng với một dải rộng các ứng dụng và
dịch vụ. Với các thiết bị xây dựng trên Android, người dùng có thể hoàn toàn thích
ứng với điện thoại đến lợi ích của họ. Với Android, một nhà phát triển có thể xây
dựng một ứng dụng cho phép người dùng xem vị trí của bạn bè của họ và được cảnh
báo khi họ đang có trong vùng phụ cận cho họ một cơ hội để kết nối.
Android cung cấp truy cập đến một loạt các thư viện công cụ hữu ích và có thể
được sử dụng để xây dựng các ứng dụng phong phú. Ví dụ, Android cho phép các
thiết bị giao tiếp với nhau tạo điều kiện cho đồng đẳng rich-to -peer trong ứng dụng


xã hội. Ngoài ra, Android bao gồm một tập hợp đầy đủ công cụ đã được xây dựng
công phu, với việc cung cấp nền tảng phát triển, với năng suất cao và cái nhìn sâu
vào các ứng dụng.

1.2. Lịch sử của hệ điều hành Android
Tổng công ty Android (Android, Inc.) được thành lập tại Palo Alto, California
vào tháng 10 năm 2003 bởi Andy Rubin (đồng sáng lập của Danger Inc), Rich
Miner (đồng sáng lập Tổng công ty Viễn thông Wildfire Communications Inc và
cựu phó chủ tịch công nghệ và tương lai ở Orange), Nick Sears (từng là Phó giám

đốc T-Mobile), và Chris White (trưởng thiết kế và giao diện tại WebTV), với mục
đích để phát triển hay tạo ra các thiết bị di động thông minh hơn phục vụ các mục
đích cho lợi ích con người. Dù những người thành lập và nhân viên đều là những
người có tiếng tăm, tổng công ty Android hoạt động một cách âm thầm, chỉ tiết lộ
rằng họ đang làm phần mềm dành cho điện thoại di động.
Tháng 8/2005, Google mua lại Android Inc với giá 50 triệu USD… biến nó thành
một bộ phận trực thuộc Google. Các nhân viên chính của Android Inc, trong đó có
Andy Rubin, Rich Miner vẫn tiếp tục làm việc tại công ty.Vào thời điểm đó không
có nhiều thông tin về Tổng công ty, nhưng nhiều người đồn đoán rằng Google dự
tính tham gia thị trường điện thoại di động sau bước đi này.
Tại Google, nhóm kỹ sư do Rubin đứng đầu đã phát triển một nền tảng di động
dựa trên hạt nhân Linux. Sau đó, họ đã giới thiệu cho các nhà sản xuất thiết bị cầm
tay và các nhà mạng trên những tiền đề về việc cung cấp một hệ thống mềm dẻo, có
khả năng nâng cấp mở rộng cao. Google quảng bá nền tảng này cho các nhà sản
xuất điện thoại và các nhà mạng với lời hứa sẽ cung cấp một hệ thống uyển chuyển
và có khả năng nâng cấp. Google đã liên hệ với hàng loạt hãng phần cứng cũng như
đối tác phần mềm, bắn tin cho các nhà mạng rằng họ sẵn sàng hợp tác với các cấp
độ khác nhau.
Ngày càng nhiều suy đoán rằng Google sẽ tham gia thị trường điện thoại di động
xuất hiện trong tháng 12 năm 2006. Tin tức của BBC và Nhật báo phố Wall chú
thích rằng Google muốn đưa công nghệ tìm kiếm và các ứng dụng của họ vào điện
thoại di động và họ đang nỗ lực làm việc để thực hiện điều này. Các phương tiện
truyền thông truyền thống lẫn online cũng viết về tin đồn rằng Google đang phát
triển một thiết bị cầm tay mang thương hiệu Google. Một vài tờ báo còn nói rằng
trong khi Google vẫn đang thực hiện những bản mô tả kỹ thuật chi tiết, họ đã trình
diễn sản phẩm mẫu cho các nhà sản xuất điện thoại di động và nhà mạng. Tháng 9
năm 2007, InformationWeek đăng tải một nghiên cứu của Evalueserve cho biết
Google đã nộp một số đơn xin cấp bằng sáng chế trong lĩnh vực điện thoại di động.
Ngày 5 tháng 11 năm 2007, Liên minh thiết bị cầm tay mở rộng (Open Handset
Alliance), một hiệp hội bao gồm nhiều công ty trong đó có Texas Instruments, Tập



đoàn Broadcom, Google, HTC, Intel, LG, Tập đoàn Marvell Technology, Motorola,
Nvidia, Qualcomm, Samsung Electronics, Sprint Nextel và T-Mobile được thành
lập với mục đích phát triển các tiêu chuẩn mở cho thiết bị di động.
Và như vậy, Android chính thức gia nhập Liên minh thiết bị cầm tay mã nguồn
mở đồng thời Google đã công bố việc họ bắt tay phát triển hệ điều hành mã nguồn
mở cho thiết bị di động nhằm cạnh tranh với Symbian, Windows Mobile và các đối
thủ khác.
Hãng cũng giới thiệu sản phẩm Android đầu tiên là T-Mobile G1. Đây là một
thiết bị di động có hệ điều hành dựa trên nhân Linux phiên bản 2.6. Biểu trưng của
hệ điều hành Android mới là một con rôbốt màu xanh lá cây do hãng thiết kế Irina
Blok tại California vẽ.
Từ năm 2008, Android đã trải qua nhiều lần cập nhật để dần dần cải tiến hệ điều
hành, bổ sung các tính năng mới và sửa các lỗi trong những lần phát hành trước.
Từ tháng 10/2008, hệ điều hành Android đã chính thức trở thành phần mềm mã
nguồn mở. Theo đó, các công ty thứ ba được phép thêm những ứng dụng của riêng
của họ vào Android và bán chúng mà không cần phải hỏi ý kiến Google.
Tháng 11/2008, Liên minh OHA ra mắt gói phát triển phần mềm Android SDK
cho nhà lập trình.
Đến tháng 12/2008, có thêm 14 thành viên mới gia nhập dự án Android được
công bố, gồm có ARM Holdings, Atheros Communications, Asustek Computer Inc,
Garmin Ltd, Softbank, Sony Ericsson, Toshiba Corp, và Vodafone Group Plc.
Tháng 2/2009, 1 số công ty trong đó có Qualcomm và Texas Instruments đã có
trong tay những con chip chạy các phiên bản đơn giản của hệ điều hành Android,
mang đến những trải nghiệm hoàn toàn mới cho người dùng trên toàn thế giới.
Trong thời gian này, bản nâng cấp đầu tiên của Android được trình làng, khoảng ba
tháng sau khi G1 được bán ra. Phiên bản 1.1 không phải là một cuộc cách mạng gì
to lớn bởi tính năng chính của nó là sửa một danh sách lỗi khá dài. Tuy nhiên, nó đã
cho thấy khả năng nâng cấp thiết bị di động qua phương pháp Over-The-Air (tức tải

về và cài đặt bản cập nhật ngay trên thiết bị, không cần kết nối với máy tính). Ở thời
điểm đó, rất ít hệ điều hành di động có thể làm được việc này, hầu hết đều phải nhờ
đến một phần mềm chuyên dùng nào đó trên PC. Trước đó, ở Mỹ có dòng máy
Danger Hiptop (được biết nhiều hơn với tên Sidekick) đã có cập nhật dạng gần
giống over the air theo từng giai đoạn, và chính Andy Rubin, người sáng lập công ty
Android Inc. (sau đó Google mua lại) cũng chính là nhà đồng sáng lập hãng Danger.
Đến năm 2010, số lượng smartphone nền tảng Android tăng trưởng mạnh mẽ.
Hàng loạt nhà sản xuất hàng đầu đã bắt tay sản xuất smartphone như Samsung,
HTC, Motorola... Thậm chí, Android còn được coi là “cứu cánh” cho nhiều đại gia
công nghệ bước sang một trang mới trong việc cải thiện doanh số, bán hàng có lãi
sau một thời gian dài trì trệ, tiêu biểu là Motorola.


Năm 2010, Google ra mắt loạt thiết bị Nexus - một dòng sản phẩm bao gồm điện
thoại thông minh và máy tính bảng chạy hệ điều hành Android, do các đối tác phần
cứng sản xuất. HTC đã hợp tác với Google trong chiếc điện thoại thông minh Nexus
đầu tiên, Nexus One. Kể từ đó nhiều thiết bị mới hơn đã gia nhập vào dòng sản
phẩm này, như điện thoại Nexus 4 và máy tính bảng Nexus 10, lần lượt do LG và
Samsung sản xuất. Google xem điện thoại và máy tính bảng Nexus là những thiết bị
Android tiên phong của mình, với những tính năng phần cứng và phần mềm mới
nhất của Android.

1.3. Các phiên bản hệ điều hành Android
Từ lúc ra mắt phiên bản đầu tiên cho tới nay, Android đã có rất nhiều bản nâng
cấp. Đa số đều tập trung vào việc vá lỗi và thêm những tính năng mới.

Hình 1. Logo các phiên bản hệ điều hành Android
Kỷ nguyên Android chính thức khởi động vào ngày 22/10/2008, khi mà chiếc
điện thoại T-Mobile G1 chính thức được bán ra ở Mỹ. Ở giai đoạn này, rất nhiều
những tính năng cơ bản cho một smartphone bị thiếu sót, chẳng hạn như bàn phím

ảo, cảm ứng đa điểm hay khả năng mua ứng dụng. Tuy nhiên, vai trò của phiên bản
đầu tiên này vô cùng quan trọng. Nó đã đặt nền móng cho các tính năng có thể xem
là đặc điểm nhận dạng của Android ngày nay.Thanh thông báo kéo từ trên xuống:
Ngay từ ngày đầu tiên trình làng, Android đã được tích hợp một hệ thống cảnh báo
vô cùng hữu dụng so với những đối thủ cạnh tranh thời bấy giờ mặc dù nó không
được tốt như Notification Bar trên các thế hệ Android mới. Người dùng có thể
nhanh chóng xem những tin nhắn đến, xem ai mới gọi nhỡ hoặc bất cứ thứ gì mà
phần mềm trên máy đang muốn người dùng biết. Tất cả thông báo đều tập hợp trong
một danh sách duy nhất. Thanh trạng thái, bao gồm đồng hồ, biểu tượng pin, biểu
tượng cho các kết nối cũng được tích hợp vào nơi đây, giúp tiết kiệm tối đa không
gian màn hình nhưng vẫn phục vụ đầy đủ nhu cầu thông tin cho người sử dụng.


Tích hợp chặt chẽ với Gmail: Lúc chiếc G1 ra mắt, Gmail đã hỗ trợ giao thức POP
và IMAP để dùng được với các trình gửi nhận email trên thiết bị di động, nhưng vấn
đề nằm ở chỗ không có giao thức nào được tận dụng tối đa để phục vụ những tính
năng độc đáo của Gmail (ví dụ như lưu trữ, đánh nhãn cho email). Android 1.0 ra
mắt đã khắc phục được vấn đề này và có thể nói chiếc G1 đã mang lại trải nghiệm
Gmail tốt nhất trên thị trường vào thời điểm đó. Về mặt giao diện, Google xây dựng
giao diện của Android 1.0 với sự hợp tác của một công ty thiết kế đến từ Thụy Điển
với tên gọi The Astonishing Tribe (TAT). Một thời gian sau, TAT bị RIM mua lại để
tập trung phát triển cho nền tảng BlackBerry OS cũng như BBX. Mối quan hệ của
TAT với Google Android cũng chấm dứt ở đây.
Android những thế hệ đầu tiên 1.0 ( 9/2008) và 1.1 ( 2/2009) chưa có tên gọi
chính thức. Từ thế hệ tiếp theo, mỗi bản nâng cấp đều được đặt với những mã tên
riêng dựa theo các món ăn hấp dẫn theo thứ tự bảng chữ cái từ “C-D-E-F-G-H-I”.
Hiện tại các phiên bản chính của Android bao gồm:
Andorid 1.5 (Cupcake): Ra mắt tháng 4/2009. Android 1.5 có lẽ có vai trò
cực kì quan trọng trong quá trình trưởng thành của Android khi nó bổ sung cho hệ
điều hành này những tính năng nổi bật giúp nó cạnh tranh với các nền tảng đối thủ

khác. Đây cũng là bản Android đầu tiên được Google gọi tên theo các món đồ ăn
với chữ cái bắt đầu được xếp theo thứ tự alphabet. Về mặt giao diện, Android 1.5
không có nhiều điểm thay đổi so với người tiền nhiệm của mình. Google chỉ điểm
thêm vài điểm để làm giao diện trông bóng bẩy, mượt mà hơn một tí, chẳng hạn như
widget tìm kiếm có độ trong suốt nhẹ, biểu tượng app drawer có một số hoa văn
nhỏ mới, v.v. Nói chung, giao diện không phải là một điểm nhấn của Android 1.5
mà người ta quan tâm nhiều hơn đến các tính năng mới mà nó mang lại, chẳng hạn
như: Khả năng ghi lại và xem video thông qua chế độ máy ghi hình: Thật khó mà
tưởng tượng được chiếc smartphone xịn lại bán ra mà không hề có tính năng quay
phim, nhưng đó là những gì mà chiếc T-Mobile G1 phải "hứng chịu" (cũng hơi
giống iPhone những đời đầu). Mãi đến Android 1.5 thì Android mới quay phim
được. Nhưng cũng giống với bàn phím, trình camera mặc định của Android không
tốt nên các hãng phần cứng phải nhanh chóng thay nó với ứng dụng của riêng mình
với các chế độ quay theo cảnh, chạm để lấy nét, tùy chỉnh thông số video; Tải video
lên YouTube và ảnh lên Picasa trực tiếp từ điện thoại; Tích hợp bàn phím ảo với khả
năng đoán trước văn bản:Google không cho những bản Android đầu tiên bàn phím
mềm là vì Android muốn cạnh tranh với BlackBerry - đang rất nổi và được nhiều
người dùng quan tâm, nhất là ở Mỹ, bởi chính bàn phím vật lí của nó. Bởi vậy mà
G1 có một bàn phím QWERTY trượt ngang. Mãi đến bản Cupcake này mới có một
chiếc điện thoại Android thuần cảm ứng là HTC Magic được giới thiệu; Tự động
kết nối với một thiết bị Bluetooth trong một khoảng cách nhất định; Mở rộng khả
năng cho widget: Android 1.0 và 1.1 có tích hợp widget, nhưng tiềm năng của nó


chưa được khai thác hết vì Google chưa đưa bộ phát triển phần mềm cho lập trình
viên, từ Android 1.5 trở đi thì chuyện đã thay đổi, và đến thời điểm hiện tại, kho
widget của Android đã rất phong phú, đó là chưa kể đến những ứng dụng của bên
thứ ba cũng mang sẵn trong mình widget nữa. Nhờ có khả năng này mà việc tùy
biến giao diện của Android càng được đẩy mạnh hơn nữa. Cải tiến clipboard:Thật ra
Android đã hỗ trợ việc copy và paste ngay từ những ngày đầu tiên rồi, nhưng nó bị

giới hạn lại ở textbox (là những chỗ nào chúng ta có thể gõ chữ được) và sao chép
các đường link mà thôi. Ví dụ bạn đang đọc mail hay đang duyệt web thì chịu,
chúng ta không cách gì sao chép được. Với Cupcake thì Google cho phép sao chép
nội dung của web, một cải tiến được đánh giá là tốt. Còn với Gmail thì phải đến vài
bản nâng cấp sau mới có được tính năng này; Tính năng Quick Search Box, được
biết nhiều hơn trong thế giới điện thoại với cái tên Universal Search, cũng là một
điểm mà Android nhận được nhiều lời khen. Có thể tìm kiếm danh bạ, ứng dụng,
nhạc, tin nhắn,… tất cả đều chỉ thao tác trong một hộp tìm kiếm mà thôi.
Android 1.6 (Donut): Ra mắt tháng 9/2009: Phiên bản này giúp nâng cao trải
nghiệm trên kho ứng dụng Android Market với thiết kế mang tông màu xanh trắng
đặc trưng của Android, có thể hiển thị các ứng dụng free và trả phí hàng đầu, những
ứng dụng bên thứ ba cũng bắt đầu xuất hiện nhiều hơn. Tích hợp giao diện tùy biến
cho phép người dùng xóa nhiều ảnh cùng lúc. Nâng cấp Voice Search, nâng cấp khả
năng tìm kiếm bookmarks, history, contacts và web trên màn hình chủ. Giao diện
camera mới, bước đầu hỗ trợ màn hình độ phân giải WVGA, tích hợp với trình xem
ảnh tốt hơn, giảm thời gian chờ giữa hai lần chụp ảnh. Nhưng cũng thường thì các
nhà sản xuất cũng thay thế bằng ứng dụng của riêng mình.
Android 2.0/2.1 (Eclair): Ra mắt tháng 10/2009: Lúc mới ra mắt chỉ được
dùng độc nhất cho chiếc Motorola Droid của nhà mạng Verizon, một trong những
chiếc điện thoại đã kích hoạt cho một kỷ nguyên Android lớn mạnh như ngày hôm
nay. Motorola Droid còn được biết đến với tên gọi Motorola Milestone khi nó xuất
hiện ở Việt Nam. Đây là một sản phẩm rất thành công của Motorola và cả Google
khi mang đến cho người dùng những trải nghiệm cực kì tốt với Android. Phiên bản
này có sự cải thiện rõ rệt trong giao diện người dùng, tối ưu hóa tốc độ phần cứng,
hỗ trợ nhiều kích cỡ và độ phân giải màn hình hơn, thay đổi giao diện duyệt web và
hỗ trợ chuẩn HTML5, Exchange ActiveSync 2.5, nâng cấp Google Maps 3.1.2,
camera zoom kĩ thuật số tích hợp đèn flash, nâng cấp bàn phím ảo và kết nối
Bluetooth 2.1. Về phần Android 2.1, mặc dù không "lớn" như Android 2.0 vì nó chủ
yếu ra mắt để sửa lỗi và thêm hàm API để lập trình viên can thiệp sâu hơn vào hệ
thống nhưng nó đã hỗ trợ thêm vài tính năng lý thú như Live Wallpaper, chuyển

giọng nói thành văn bản và một màn hình khóa mới. Android 2.1 cũng có rất nhiều
ý nghĩa về việc thay đổi chiến lược của Google. Nhận thấy rằng các hãng phần cứng
thường thay đổi giao diện gốc của Android theo ý họ, Google đã chọn HTC để làm


việc trực tiếp và tạo ra Nexus One , chiếc điện thoại đầu tiên của hãng. Nexus One
mang trong mình một bản Android 2.1 thuần khiết nhất và không hề bị chỉnh sửa gì
cả. Không chỉ nổi bật về mặt phần mềm, Nexus One còn có phần cứng mạnh mẽ
thời bấy giờ. Nó là một trong những smartphone đầu tiên chạy trên CPU
Snapdragon 1GHZ của Qualcomm, đồng thời sở hữu màn hình AMOLED độ phân
giải WVGA. Thực ra, Google đã tiến hành việc này kể từ chiếc Droid với Android
2.0. Google và Motorola đã làm việc chặt chẽ để cùng phát triển một mẫu điện thoại
tốt, nhưng Eclair trong Droid vẫn có vài sự tinh chỉnh.
Android 2.2 (Froyo): Ra mắt tháng 5/2010 và mục tiêu của chương trình
Nexus đã xuất hiện rõ hơn bao giờ hết: Nexus One là chiếc điện thoại đầu tiên được
nâng cấp lên Android 2.2, sớm hơn nhiều so với tất cả các hãng khác. Giao diện
màn hình chính đã được thay đổi, từ 3 màn hình chính tăng lên thành 5 màn hình.
Dãy nút kích hoạt nhanh chế độ gọi điện, web và App Drawer cũng đã xuất hiện.
Những chấm nhỏ ở góc trái, phải bên dưới của màn hình giúp người dùng biết mình
đang xem đến màn hình nào. Google đã có nhiều cố gắng để giao diện Android
được vui và đẹp hơn, dễ dùng hơn, bắt kịp phần nào với giao diện của bên thứ ba
như HTC Sense chẳng hạn. Phiên bản này chú trọng nâng cấp tốc độ xử lí, giới
thiệu engine Chrome V8 JavaScript, hỗ trợ Adobe Flash10.1, thêm tính năng tạo
điểm truy cập Wi-Fi. Một tính năng đáng chú ý khác hỗ trợ chuyển đổi nhanh chóng
giữa các ngôn ngữ và từ điển trên bàn phím đồng thời cho phép cài đặt và cập nhật
ứng dụng ở các thiết bị mở rộng bộ nhớ. FroYo còn có một trình xem ảnh mới với
khả năng hiển thị hình ảnh 3D: nghiêng máy thì dãy ảnh sẽ nghiêng theo, đồng thời
nó mang trong mình nhiều hiệu ứng chuyển động đẹp mắt khác. Đây cũng là dấu
mốc về việc Google đã đi thuê ngoài nhằm phát triển Android mà Gallery trên
FroYo là một ví dụ. Tính năng trạm phát Wifi cũng xuất hiện, cách copy, paste mới

tốt hơn. Nhiều tính năng bảo mật mới cũng xuất hiện. Tuy nhiên, với người dùng
thông thường thì việc Android 2.2 FroYo có hỗ trợ duyệt web với Flash là điểm
đáng quan tâm nhất. Hầu như người ta muốn lên FroYo là để tận hưởng được cảm
giác duyệt web với Flash đầy đủ trên thiết bị di động. Android 2.2 bổ sung thêm
tính năng di chuyển một phần ứng dụng từ bộ nhớ máy sang thẻ nhớ, giúp tiết kiệm
dung lượng cho các điện thoại thời bấy giờ.
Android 2.3 (Gingerbread): Ra mắt tháng 12/2010: Google giới thiệu nó với
nhiều tính năng mới, tập trung vào việc phát triển game, đa phương tiện và phương
thức truyền thông mới. Android 2.3 có tên mã là Gingerbread, hiện bộ SDK
Android 2.3 dành cho các nhà phát triển cũng đã được Google phát hành. Bên cạnh
đó, chiếc Nexus S do Samsung sản xuất cũng xuất hiện với vai trò là người kế
nhiệm cho Nexus One. Nexus S có vài thay đổi nhỏ so với người anh em Galaxy S.
Android 2.3 thật ra không phải là một bản nâng cấp lớn nhưng những ảnh hướng mà
nó mang lại thì không nhỏ chút nào. Lần đầu tiên Android khoác lên mình một giao


diện đen, trông chuyên nghiệp hơn. Các thành phần trên màn hình chính có thêm
tông màu xanh lá đậm. Bên cạnh đó, việc sử dụng màu đen còn là ý định của
Google để giúp các máy dùng màn hình AMOLED tiết kiệm pin hơn. Vài tính năng
mới trên Android 2.3: Hai thanh chặn khi chọn văn bản: Hồi Android 2.2, việc chọn
văn bản khi đang soạn thảo hoặc khi đang duyệt web rất cực khổ. Nhờ có thanh
chặn này mà người dùng có thể chọn từng kí tự một, tiện lợi hơn rất nhiều. Bàn
phím được cải tiến: Google một lần nữa đầu tư cho bàn phím ảo, lần này có sự thay
đổi lớn về tông màu của bàn phím. Nhìn các phím đẹp hơn, đen hơn và cả kí tự
cũng được thay đổi so với hồi Android Cupcake. Nhờ có khả năng nhận biết đa
điểm trên bàn phím mà việc soạn thảo đã dễ chịu hơn, cho phép người dùng nhấn
cùng lúc nhiều phím để chuyển sang bàn phím dạng kí tự. Công cụ quản lí pin và
ứng dụng:vì Android cho phép các ứng dụng chạy nền thực thụ chứ không bị ngắt
lại, vấn đề pin bị người dùng phàn nàn rất, đặc biệt là các phần mềm không được
viết để thoát khỏi bộ nhớ sau khi đã hoàn tất công việc của mình. Một công cụ mới

đã ra mắt với biểu đồ nhằm theo dõi mức độ tiêu thụ pin cùng việc quản lí ứng dụng
đang chạy sẽ giúp đỡ người dùng phần nào. Hỗ trợ máy ảnh trước: Lần đầu tiên một
phiên bản của hệ điều hành Android hỗ trợ việc sử dụng máy ảnh phụ phía trước
của thiết bị. Nhiều tính năng mới của Gingerbread chủ yếu nhắm đến lập trình viên
hơn là người dùng cuối, ví dụ như NFC chẳng hạn. Nhiều tháng trôi qua, NFC
không có nhiều ứng dụng thực tế ngoài việc đến một vài thành phố ở nước ngoài và
dùng NFC để lấy thông tin về địa điểm. Khi Nexus S dành cho nhà mạng Sprint,
Mỹ, ra đời, Google giới thiệu Google Wallet, dịch vụ thanh toán di động sử dụng
NFC của mình. Đến bây giờ, nhiều thứ hơn đã hỗ trợ NFC, NFC tag cũng xuất hiện
ở nhiều nơi hơn. Thậm chí người ta còn dự đoán rằng NFC sẽ thay thế được mã QR
trong tương lai và Android 2.3 đã góp một phần quan trọng nhằm thúc đẩy việc sử
dụng phổ biến kết nối tầm ngắn này. Với Gingerbread, Google muốn xâm nhập vào
thị trường game di động vốn đang bị chiếm lĩnh bởi iOS bằng việc cung cấp cho lập
trình viên quyền truy cập cấp thấp nhất, tức là gần sát nhất, đến các phần cứng về
âm thanh, đồ họa, lưu trữ,… Nhờ đó, nhiều game/ứng dụng native ra đời với tốc độ
hoạt động nhanh hơn, hình ảnh, âm thanh phong phú, chân thật và đẹp hơn nhiều.
Android 3.x (Honeycomb): Ra mắt tháng 2/2011: Đây là phiên bản hệ điều
hành dành riêng cho máy tính bảng tablet với giao diện mới tối ưu hóa cho tablet, từ
các thao tác đều phụ thuộc màn hình cảm ứng (như lướt web, duyệt mail..).
Honeycomb là phiên bản Android dành riêng cho máy tính bảng, và sản phẩm đầu
tiên dùng hệ điều hành này Motorola Xoom. Xoom mang trong mình một giao diện
thuần Android 3.0 và không bị chỉnh sửa gì.


Hình 1. Android 3.0 Honeycomb là phiên bản dành riêng cho tablet
Mặc dù Android 3.0 không có nhiều dấu ấn đặc biệt trên thị trường nhưng nó
là nền tảng cho Android 4.0 sau này với các tính năng như: Sử dụng tông màu đen
và xanh dương làm tông màu chủ đạo, hệ thống icon và biểu tượng mới.
Honeycomb hỗ trợ bộ xử lí đa nhân và xử lý đồ họa. Homescreen và widget cũng
được thiết kế lại. Việc đặt widget lên màn hình cũng tiện dụng hơn nhờ có hình ảnh

thu nhỏ của các homescreen trong mục widget nên người dùng có thể chọn lựa theo
ý muốn. Không còn nút nhấn vật lí: trên các máy tính bảng Android 3.x, người ta
không còn trang bị cho chúng ba phím Back, Home và Menu (và Search nữa) riêng
biệt, cả nút cứng lẫn nút cảm ứng, mà thay vào đó nó đã được bố trí ngay trên màn
hình của người dùng. Android 3.x có khả năng ẩn hoặc hiện các nút này một cách
linh hoạt tùy vào việc người dùng đang chạy ứng dụng gì. Cải thiện đa nhiệm: nút
Recent Apps lần đầu tiên xuất hiện trên Android cho phép người dùng duyệt qua các
ứng dụng mà mình mới chạy trong thời gian gần đây, nhờ đó việc chuyển đổi app dễ
dàng hơn và nhanh chóng hơn. Mỗi ứng dụng như vậy cũng có một ảnh chụp màn
hình thu nhỏ để tiện cho việc chọn lựa. Từ Gingerbread trở về trước, việc chạy đa
nhiệm phải nhờ đến việc nhấn giữ nút Home để tiết lộ bảng các ứng dụng gần đây,
bất tiện hơn nhiều. Thanh Action Bar: một thanh chức năng được đặt bên trên mỗi
ứng dụng, ở đó lập trình viên có thể đặt các nút nhấn để điều khiển ứng dụng lên.
Ngoài ra, Honeycomb còn hỗ trợ cho việc bố cục ứng dụng theo nhiều cột để hướng
đến việc hỗ trợ máy tính bảng tốt hơn. Sau Android 3.0, Android 3.1 và 3.2 là hai
bản nâng cấp nhỏ của Honeycomb và vẫn dùng lại cái tên này. Mục đích chủ yếu
của chúng là để sửa lỗi và thêm vài tính năng mới như resize widget ngay trên


homescreen, hỗ trợ thẻ SD, và sẽ chạy trên tất cả các thiết bị như điện thoại, máy
tính bảng, máy tính xách tay...
Android 4.0 (Ice Cream Sandwich): Cuối năm 2011, Google chính thức giới
thiệu điện thoại Galaxy Nexus, thiết bị đầu tiên trên thị trường sử dụng Android 4.0
Ice Cream Sandwich. Có thể nói Android 4.0 là sự thay đổi lớn trong lịch sử phát
triển của Android. Android 4.0 hỗ trợ một bộ font mới tên là Roboto được cho là tối
ưu hóa để dùng trên các màn hình độ phân giải càng ngày càng cao hơn, đồng thời
để hiển thị được nhiều thông tin hơn trên màn hình. Hệ thống thông báo
(Notification) già nua của Android đã được làm mới hoàn toàn, đẹp hơn, tiện dụng
hơn, nhất là tính năng trượt ngang để xóa từng thông báo riêng lẻ. Tương tự như
vậy cho tính năng Recent Apps và cả trình duyệt của máy. Bàn phím cũng được làm

mới với khả năng tự động sửa lỗi cao hơn, việc sao chép, cắt dán chữ và nội dung
cũng tốt hơn bao giờ hết. Đây cũng là lần đầu tiên Google hợp nhất hệ điều hành
dành cho smartphone và cho máy tính bảng vào làm một. Đây là một động thái của
hãng nhằm giảm thiểu sự phân mảnh vốn đang ngày càng nghiêm trọng của
Android. Khi chạy trên máy tính bảng, Android 4.0 sẽ có một giao diện khác tối ưu
cho màn hình lớn, nhưng về cơ bản thì tính năng của nó vẫn giống hệt như lúc chạy
trên smartphone. Android 4.0 cũng nhắm đến việc duyệt web nhanh hơn, tối ưu hóa
hiệu suất hoạt động của thiết bị, kéo dài thời gian dùng pin.
Android 4.1 (Jelly Bean): Android 4.1 được giới thiệu tại hội nghị Google
I/O với nhiều cải tiến đáng giá và rất được mong đợi. Đây cũng là lúc chiếc Nexus 7
được chính thức ra mắt với sự hợp tác giữa Google với Asus. Về giao diện, không
có nhiều thay đổi so với Android 4.0, vẫn là màn hình chính với thanh dock bên
dưới quen thuộc. Giao diện kiểu này rất đơn giản nhưng lại đẹp và gọn gàng, giúp
chúng ta dễ dàng theo dõi những thông tin xuất hiện trên màn hình, đặc biệt là khi
điều khiển các ứng dụng. Ở màn hình Lockscreen, giờ đây vòng trượt mở khóa có
đến ba biểu tượng để kích hoạt ba tính năng khác nhau chứ không chỉ có hai như
trên Android 4.0. Trượt sang phải để mở khóa máy, sang trái để chạy ứng dụng
camera, hai thứ này đã có từ trước. Nhưng nếu bạn kéo vòng trượt lên bên trên thì
sẽ thấy một chữ "Google". Đây chính là cách thức để kích hoạt Google Now. Sự
xuất hiện của Google Now cho thấy rằng Google đã bắt đầu bước chân vào việc
cạnh tranh với Siri. Với việc nâng cao khả năng tìm kiếm, thay đổi giao diện, tự
động theo dõi thói quen sử dụng để đưa ra những thông tin chính xác và thích hợp
với người dùng hơn. Trên Android 4.1 bạn có thể tìm kiếm bằng giọng nói và các
kết quả trả không chỉ đơn giản là những dòng tìm kiếm nữa mà nó được thiết kế
theo dạng thẻ đồ họa, thông minh hơn, trực quan hơn. Không chỉ tìm kiếm theo yêu
cầu, Google Now còn tự chủ động thu thập thông tin liên tục dựa vào lịch sử tìm
kiếm của bạn (thói quen người dùng), dựa vào danh sách lịch hẹn để biết bạn sẽ đi
đâu, cần thông tin gì. Nhưng có lẽ quan trọng hơn hết của Jelly Bean không phải là



về giao diện hay ứng dụng mới mà về Project Butter giúp mang lại độ mượt chưa
từng có cho Android. Theo như giải thích của Google, độ mượt này có được là nhờ
vào dự án Butter. Project Butter đã được Google đề cập tới tại I/O 2012 với mục
đích giải quyết tình trạng lag và độ phản ứng không tốt của Android. Với Project
Butter, các kỹ sư Android đã tăng framerate cho phiên bản mới nhất này lên 60
khung hình/giây (trước đó trên Android 3.0 hay Android 4.0 framerate là 30 khung
hình/giây) cũng như bổ sung VSync, tăng bộ đệm lên gấp ba để nâng cao trải
nghiệm ngườidùng. Project Butter sẽ có tác động trực tiếp tới toàn bộ hệ thống của
Jelly Bean nhằm mang tới trải nghiệm người dùng nhanh và mượt mà nhất có thể.
VSync sẽ cải thiện hiệu năng đồ họa tổng thể trong khi bộ nhớ đệm tăng gấp ba lần
sẽ cho phép GPU và CPU cũng như màn hình hoạt động song song với nhau.
Android 4.2 (Jelly Bean): Ngày 30/10/2012, Google chính thức tuyên bố cập
nhật hệ điều hành Android của hãng lên phiên bản 4.2 và vẫn giữ nguyên tên gọi
"Jelly Bean" (có nghĩa là kẹo dẻo đậu). Được hãng gọi là "một hương vị mới của
Jelly Bean", Android 4.2 mang trong mình nhiều tính năng mới như hỗ trợ Miracast,
bàn phím có thể nhập liệu bằng cách vẽ các đường nét từ kí tự này đến kí tự khác,
chế độ chụp ảnh toàn cảnh Photo Sphere, ứng dụng Gmail mới và còn rất nhiều thứ
khác nữa. Trong quá trình giới thiệu Android 4.2, Google rất tập trung nói về
Miracast, một chuẩn chia sẻ nội dung số thông qua kết nối Wi-Fi mà nhờ nó, những
thiết bị mới có thể truyền hình ảnh và âm thanh đến các TV có hỗ trợ chuẩn này.
Google cũng đã áp dụng một số kĩ thuật từ camera Street View của hãng cho tính
năng chụp ảnh toàn cảnh mới có tên Photo Sphere. Khi chạy app Camera và kích
hoạt Photo Sphere, máy sẽ yêu cầu chúng ta di chuyển và ngắm vào một số điểm
trên màn hình, dần dần chụp qua hết tất cả các điểm này sẽ cho ra kết quả là một
bức ảnh lớn có hình mặt cầu (hơi giống PhotoSynths của Microsoft).
Một cải tiến lớn và quan trọng của Android 4.2 đó là việc hỗ trợ nhiều tài khoản
người dùng trên máy tính bảng để có thể dễ dàng chia sẻ trong gia đình hoặc nơi
làm việc. Mỗi tài khoản sẽ có dữ liệu app của riêng họ.
Android 4.3 (Jelly Bean): Lại thêm một thế hệ Jelly Bean nữa và lần này là
Android 4.3. Ngày 24/7/2013, Google đã chính thức ra mắt hệ điều hành này song

song với chiếc Nexus 7 (2013). Đây là phiên bản Android mới nhất đang có mặt
trên thị trường và đi kèm những tính năng mới như hỗ trợ kết nối Bluetooth Smart,
bộ API OpenGL ES 3.0, bổ sung tính năng sử dụng Wi-Fi để định vị ngay cả khi
người dùng tắt kết nối này đi cùng nhiều thay đổi lớn nhỏ khác. Bên cạnh tính năng
Multi User của Android 4.2, Google bổ sung thêm một tính năng mới cho Android
4.3 đó là Restricted Profile. Mỗi thành viên sẽ có một "hồ sơ" riêng của mình và chỉ
có thể làm được những gì được chỉ định trong "hồ sơ". Ví dụ, cha mẹ có thể khóa
tính năng in-app purchase của một ứng dụng nào đó để ngăn con trẻ vô tình mua
hàng trăm USD. Ngoài ra, khi áp dụng vào môi trường doanh nghiệp thì nó sẽ cho


×