Tải bản đầy đủ (.docx) (126 trang)

Luận văn một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại chi nhánh ngân hàng công thương đống đa hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (635.84 KB, 126 trang )

LUẬN VĂN:

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ đối với
hoạt động tín dụng tại Chi nhánh ngân
hàng công thương Đống Đa -Hà Nội.


lời mở đầu

ở Việt Nam, từ khi nền kinh tế chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhu cầu về kiểm toán đã trở nên tất yếu, một điều không thể phủ nhận.
Những đóng góp quan trọng của kiểm toán Nhà nước, kiểm toán độc lập kể từ
khi thành lập đối với sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta, hội nhập
kinh tế với khu vực và thế giới ngày càng được khẳng định.
Năm 1991, Chính phủ đẫ ban hành nghị định 07/CP công bố: "Quy chế kiểm
toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân" và đến 11-7-1994, Chính phủ lại ban hành
nghị định 70/ CP về “Thành lập cơ quan kiểm toán Nhà nước, và 24-1-1995, Thủ
tướng Chính phủ ra quyết định 61/ TTG “Ban hành điều lệ tổ chức kiểm toán nhà
nước". Đây là những văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà nước khẳng định vị trí, vai trò
và tạo hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán. Chúng ta nhận thức được rằng,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán đã thực sự trở
thành một nghề, một lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ độc lập.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, số người quan
tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp đã mở rộng, cùng với sự quan tâm đến
các thông tin tài chính, họ cũng đòi hỏi các thông tin này phải dược cung cấp một cách
chính xác, song mỗi người lại quan tâm đến một lĩnh vực không giống nhau và với các
mục đích khác nhau. Để đáp ứng tất cả các yêu cầu về thông tin với các khía cạnh khác
nhau, kiểm toán cũng bao gồm nhiều loại hình khác nhau như:kiểm toán hoạt động,
kiểm toán tuân thủ, kiểm toán báo cáo tài chính.


Ngân hàng thương mại (NHTM) là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, dưới hình
thức nhận tiền gửi và cho vay, cung cấp các dịch vụ tài chính khác, nhằm mục đích tìm
kiếm lợi nhuận và góp phần ổn định, phát triển nền kinh tế, thực hiện các mục tiêu của
chính sách tiền tệ.
Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, hoạt động của NHTM cũng cần
phải được kiểm toán bởi các chủ thể khác nhau. Hơn nữa kinh doanh ngân hàng là một


lĩnh vực đặc biệt nhạy cảm và có nhiều rủi ro, nên việc kiểm toán mà nhất là kiểm toán
hoạt động đối với NHTM càng là một yêu cầu cấp thiết, là chức năng chủ yếu của
kiểm toán nội bộ.
Kiểm toán nội bộ trong NHTM là một bộ phận hoạt động độc lập, nhằm kiểm
tra tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ và các mục tiêuquan trọng
khác. Nhận xét, đánh giá tính trung thực, chính xác của các thông tin kinh tế, các báo
cáo tài chính, giúp ban quản lý Ngân hàng có quyết định kinh doanh đúng đắn .
Kiểm toán nội bộ là cần thiết và vô cùng quan trọng, trong đó kiểm toán nội bộ
đối với hoạt động tín dụng là bộ phận kiểm toán chủ yếu của NHTM, vì hoạt động tín
dụng là hoạt động kinh doanhn chủ yếu có ảnh hưởng quyết định đến kết quả kinh
doanh của Ngân hàng.
Mục đích của kiểm toán tín dụng là nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro
có thể xảy ra, góp phần nâng cao chất lượng nghiệp vụ tài sản có của ngân hàng, bảo
vệ an toàn tài sản và ổn định hoạt động các ngân hàng thương mại.
Nhận thức về tầm quan trọng của kiểm toán, kiểm toán nội bộ nói chung và
kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại các NHTM nói riêng, trong thời gian
thực tập tốt nghiệp tại Chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa, em đã chọn đề tài:
"Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, kiểm toán nội
bộ đối với hoạt động tín dụng tại Chi nhánh ngân hàng công thương Đống Đa -Hà
Nội.
Nội dung khoá luận gồm 3 chương: (ngoài lời nói đầu và kết luận)
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về kiểm toán kinh tế và kiểm toán nội bộ trong

hoạt động ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín
dụng tại Chi nhánh Ngân hàng công thương Đống Đa.
Chương 3: Một số kiến nghị và giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả công tác
kiểm tra, kiểm toán nội bộ đối với hoạt động tín dụng tại Chi nhánh
ngân hàng công thương Đống Đa.


Chương i
Những vấn đề cơ bản về kiểm toán kinh tế và kiểm toán nội bộ tronghoạt động
ngân hàng thương mại.
I. Cơ sở lý luận chung về kiểm toán
1. Sự hình thành và phát triển của toán trên thế giới và ở Việt nam.
Kiểm toán là hoạt động khá mới mẻ ở Việt Nam. Trên thế giới, kiểm toán đã
xuất hiện trong xã hội loài người từ rất lâu, vào khoảng thế kỷ thứ 3 trước công
nguyên. Thuật ngữ “Audit”có một ý nghĩa lịch sử và phù hợp với hoàn cảnh ra đời của
nó, vào thời kỳ đó chính quyền La-Mã đã tuyển dụng các quan chức chuyên môn để
kiểm tra về tình hình tài chính và thuyết trình lại kết quả kiểm tra này. Chính vì vậy từ
“Audit” theo tiếng La-Tinh có nghĩa là “người nghe” (one who hears). Kiểm toán đã
dần hình thành và gắn liền với sự phát trển của kế toán. Và trong suốt thời kỳ trung đại
đến trước khi cuộc cách mạng công nghiệp ra đời, kiểm toán thực sự chỉ giới hạn ở
việc xác định xem liệu cá nhân giữ trọng trách trong một tổ chức hoạt động kinh doanh
hoặc trong chính phủ có thực hiện đúng trách nhiệm và có báo cáo đúng sự thật không.

Trong suốt thời kỳ cách mạng công nghiệp, số doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh tăng mạnh về quy mô, người chủ sở hữu vốn, tài sản bắt đầu phải đi thuê các
nhà quản lý cho các chi nhánh, cơ sở của mình.
Với sự tách biệt về chủ sở hữu và việc quản lý nên phải tăng cường kiểm tra để
bảo vệ tài sản của họ, nhằm chống lại nguy cơ sai phạm không chủ đích hoặc những
gian lận do người quản lý và nhân viên làm công gây ra. Các chủ nhà băng với tư cách

là người bên ngoài, sử dụng các báo cáo tài chính, khi cho vay tiền cũng chú ý đến
việc xem xét các báo cáo tài chính có bị lệch lạc do sai phạm và gian lận không?
Từ những năm 1930, sự phá sản của các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp trong
điều kiện khủng hoảng kinh tế, suy thoái về tài chính, là dấu hiệu chứng minh điểm yếu
của kế toán và kểm tra trước tình hình mới. Kiểm toán viên trở nên có trách nhiệm hơn
với các cơ quan chức năng của Chính phủ, Sở giao dịch chứng khoán, các nhà đầu tư cũng
như các bên khác sử dụng thông tin tài chính. Sự trung thực của báo cáo tài chính trở


thành vấn đề tiên quyết có tầm quan trọng to lớn trong qúa trình lựa chọn các quyết
định đầu tư tài chính.
Khi các doanh nghiệp ngày càng có quy mô lớn, ở Ca-na-da, Anh, Mỹ... kiểm
toán viên bắt đầu thực hiện lựa chọn mẫu các nghiệp vụ hơn là kiểm tra các nghiệp vụ
kinh tế phát sinh. Kiểm toán viên và các nhà quản lý dần dần đi đến một chấp nhận
chung mà một cuộc kiểm tra kỹ lưỡng các nghiệp vụ theo chọn mẫu sẽ đưa ra các chỉ
số tin cậy, có hiệu quả về sự chính xác của các nghiệp vụ tương tự đã được phản ánh
trong các báo cáo tài chính.
ở Mỹ, sau cuộc khủng hoảng nặng nề về tài chính vào 1929, bắt đầu từ
năm1934, Uỷ ban bảo vệ và trao đổi tền tệ (SEC) đã được thành lập và quy chế về
kiểm toán viên bên ngoài bắt đầu có hiệu lực. Đồng thời, trường đào tạo kế toán viên
công chứng của Mỹ (AICPA) đã in ra mẫu chuẩn đầu tiên về baó cáo kiểm toán tài
khoản của công ty .
Từ những năm 1950, xuất hiện nhiều tổ chức kiểm toán của Chính phủ trong
các lĩnh vực quân đội, hành chính và các xí nghiệp công cộng. Một tổ chức quan trọng
là văn phòng kế toán trưởng (GAO: GERNERAL ACCOUNTING OFFICE) đã có vai
trò quyết định trong việc mở rộng phạm vi kiểm toán. Chuẩn mực GAO vào năm 1972
(rà soát lại năm 1981), một mặt đã khẳng định lợi ích kiểm toán trong khu vực phi
thương mại, mặt khác đã khẳng định quan điểm chuẩn mực và phương pháp mới để
đánh giá hiệu quả của các nghiệp vụ phi thương mại.
Đạo luật về công ty thương mại của Pháp ngày 24-7-1966, đã xác định công

việc và các chuẩn mực hoạt động của kiểm toán viên bên ngoài một cách độc lập.
Đồng thời, kiểm toán viên nội bộ cũng đã xuất hiện một cách chính thức ở Pháp vào
năm 1960. Trong các Công ty, chi nhánh của các tập đoàn ngoại quốc và các tổ chức
Ngân hàng và được phát triển cùng với sự mở rộng quy mô của các công ty nhằm tăng
cường sự ổn định và hiệu quả của các xí nghiệp.
Năm 1965, hội kiểm soát viên nội bộ của Pháp được thành lập, sau trở thành viện
nghiên cứu của kiểm toán viên và kiểm soát viên nội bộ của Pháp (IFACI) vào năm 1973.
Trong lĩnh vực công cộng, kiểm toán cũng có nhiều bước phát triển. Lúc đầu, kiểm toán
nằm trong Uỷ ban đối chiếu tài khoản của các xí nghiệp công, đến năm 1976,


Toà thẩm kế công bố đạo luật tài chính sửa đổi ngày 22-6-1976, giao việc đối chiếu
các tài khoản và quản lý các xí nghiệp công.
ở Việt Nam, kiểm toán còn là hoạt động rất mới mẻ. Khái niệm kiểm toán mới
chỉ được nhắc đến nhiều và sử dụng từ đầu thập niên 90 của thế kỷ 20. Sau khi Việt
Nam chuyển đổi cơ chế kinh tế, kiểm toán độc lập đã được hình thành. Sau đó kiểm
toán Nhà nước cũng được thành lập. Tuy nhiên, tiền thân của hoạt động này là kiểm tra
kế toán đã có từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Ngày 23-11-1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh 64/SL thành lập tổ chức thanh tra đặc biệt trực
thuộc Chính phủ, tiếp đó là sắc lệnh 57/SL ngày 4-6-1946 quy định tổ chức bộ máy
các bộ, mà trong đó lập ra các ban thanh tra. Sắc lệnh 76/SL ngày 25-8-1946 về tổ
chức bộ máy tài chính và nha thanh tra tài chính thuộc bộ, khi đó đã quyết định nhiệm
vụ của cơ quan tài chính.
Hoạt động kiểm toán ra đời và phát triển gắn liền với bước trưởng thành của kế
toán Việt Nam trong cơ chế thị trường. Năm 1989, trước nhu cầu biến đổi có tính chất
cách mạng trong cơ chế quản lý, cơ chế kinh tế của đất nước, sự thừa nhận một cách
tất yếu của nền sản xuất hàng hoá, kinh tế thị trường và một cách quản lý tương đối
phù hợp với nó, trong đó có việc sử dụng ngày càng hiệu quả các công cụ hạch toán và
kiểm tra, kiểm soát, chế độ kế toán mới đã được ban hành thay thế cho chế độ kế toán
cũ đã lạc hậu. Thực tế, từ năm 1989 đến năm 1990, Bộ tài chính kết hợp với một số

ngành hữu quan lần lượt cải tiến và ban hành một hệ thống các chế độ và văn bản pháp
quy về kế toán mới theo tinh thần kế thừa thành tựu của các chế độ kế toán trước đây.
Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số nhược điểm của chế độ ban hành năm 1989, chưa
bắt kịp với tình hình phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Do vậy, sau một
thời gian soạn thảo, nghiên cứu và thử nghiệm, tháng 12-1995, Thủ tướng Chính phủ
cho phép Bộ tài chính ban hành hệ thống kế toán tài chính doanh nghiệp, hệ thống kế
toán tài chính này bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Đồng thời hoà nhập được thông lệ phổ biến của kế toán quốc tế, có tính đến điều kiện
của Việt Nam. Trong thời gian này, hệ thống kế toán ngân hàng, mà trước hết là kế
toán của ngân hàng Nhà nước cũng được đổi mới căn bản phù hợp với yêu cầu của
Ngân hàng thế giới (WORLD BANK-WB) và quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF). Trong điều
kiện đó, kiểm toán cũng có điều kiện xuất hiện như một tất yếu khách quan, công tác


nội kiểm và kiểm toán đã thể hiện những hạn chế lịch sử của nó, một chủ thể kiểm tra
tách ra, đứng độc lập với hệ thống tài chính, kế toán để giám định trở lại, qúa trình
kiểm toán phải được hình thành và phát triển theo đúng ý nghĩa, bản chất của nó, và
cần có một hệ thống tổ chức thích đáng.
Cho đến nay, hoạt động kiểm toán đã dần đi đúng quỹ đạo của nó và phát triển
rất mạnh ở hầu khắp các nước trên thế giới. Hiện nay, trên thế giới có những hãng
kiểm toán, liên đoàn, Hội kiểm toán xuyên Quốc gia như: cơ quan kiểm toán tối cao
Châu á ( ASOSAI), cơ quan kiểm toán tối cao Quốc tế (INTOSAI), và INCOSAI, hoạt
động nổi tiếng vì đạt đến chuẩn mực nghiệp vụ, và kỹ năng nghề nghiệp trong kiểm
toán. Việt Nam đang trên con đường phát triển đất nước tiến tới hiện đại hoá - công
nghiệp hoá, công tác kiểm toán cần được tăng cường và phát huy vai trò của nó, việc
học hỏi kinh nghiệm kiểm toán của các tổ chức kiểm toán phát triển trên thế giới là
một việc làm thiết thực, đưa kinh tế Việt Nam phát triển, hoà nhập với nền kinh tế thế
giới.
2. Bản chất của kiểm toán.
- Khái niệm kiểm toán: Theo tác giả ALVIN AREN và JAMES K. LOE


Bbecker, phát biểu trong giáo trình kiểm toán hiện đại của mình: "Kiểm toán là quá
trình mà theo đó một cá nhân độc lập, có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng
chứng về các thông tin có thể định lượng có liên quan đến một tổ chức kinh tế cụ thể,
nhằm mục đích xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa các thông tin số lượng đó
với các chuẩn mực đã được thiết lập ".
Còn theo liên đoàn kế toán Quốc tế (IFAC) đã định nghĩa: “Kiểm toán là việc
các kiểm toán viên độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về bản báo cáo tài
chính”.
- Theo quan điểm chung nhất về kiểm toán, thể hiện tính đầy đủ về kiểm toán
của các nhà kiểm toán chuyên nghiệp thế giới như sau: "Kiểm toán là một chức năng
quản lý, là một quá trình mà trong đó, các kiểm toán viên có thẩm quyền, những người
được đào tạo để có trình độ thích hợp, tiến hành một cách độc lập việc thu thập, xác
minh, đánh giá các bằng chứng về các thông tin số lượng liên quan đến các hoạt động
kinh tế - tài chính của một đơn vị và tổ chức kinh tế, nhằm xác định và báo cáo mức


độ phù hợp của các thông tin số lượng đó với các chuẩn mực về kinh tế, về tài chính
và kế toán đã được thiết lập và được pháp luật thừa nhận”.
- Từ định nghĩa trên đây, ta đi phân tích một số cụm từ chủ yếu để nói lên bản
chất của kiểm toán .
+ Thông tin số lượng và chuẩn mực đã được xây dựng:
Thông tin số lượng có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức như: thông tin
định lượng, thông tin về báo cáo tài chính của một công ty, lượng thời gian mà một
công nhân cần để hoàn thành nhiệm vụ được giao, tổng chi phí theo một hợp đồng xây
dựng của Nhà nước và bản khai thuế cá nhân có thể tiến hành kiểm toán được.
Chuẩn mực để đánh giá thông tin số lượng cũng là những nguyên tắc, thể lệ,
quy định pháp luật, chuẩn mực kế toán, các chuẩn mực được chọn sẽ sử dụng phụ
thuộc vào các mục tiêu của cuộc kiểm toán.
+ Tổ chức kinh tế: đối tượng kiểm toán của các kiểm toán viên bao giờ cũng

được xác định, đó là phải kiểm toán tổ chức kinh tế nào, trong hầu hết các trường hợp
tổ chức kinh tế cũng là những pháp nhân như: một Công ty cổ phần, một Ngân hàng
thương mại, tuy nhiên cũng có trường hợp là cá nhân, các phân xưởng...Vì vậy kiểm
toán viên cần phải xác định đơn vị, tổ chức kinh tế được kiểm toán là ai để có phương
pháp và cách thức kiểm toán phù hợp.
- Thu thập và đánh giá bằng chứng:
Bằng chứng được định nghĩa là mọi tài liệu thông tin mà kiểm toán viên đã sử
dụng làm cơ sở để xác định xem thông tin số lượng đang được kiểm toán có được trình
bày phù hợp với các chuẩn mực đã xây dựng hay không. Bằng chứng được tồn tại dưới
nhiều hình thức, có thể là những thông tin, lời khai của chính đối tượng được kiểm
toán, cũng có khi là của bên ngoài, và có thể là nhận xét của kiểm toán viên.
Việc thu thập đủ số lượng, chất lượng bằng chứng là rất quan trọng để thoả mãn
các mục đích kiểm toán. Quá trình thu thập và đánh giá bằng chứng phù hợp với các
chuẩn mực đã xây dựng rất cần thiết của mọi cuộc kiểm toán .
- Cá nhân độc lập có đủ khả năng chuyên môn và thẩm quyền:


Tính độc lập là tiên quyết phải được đảm bảo khi kiểm toán. Mặc dù tính độc
lập chỉ là tương đối song nó phải là mục tiêu hướng tới của kiểm toán viên. Kết quả
kiểm toán thực sự không có ý nghĩa nếu một cá nhân có đủ thẩm quyền mà không vô
tư thu thập chứng cứ. Ngược lại, một kiểm toán viên phải có đủ thẩm quyền để được
phép trong bất kỳ trường hợp nào cũng có thể kiểm toán.
- Báo cáo: Khâu cuối cùng của quá trình kiểm toán là báo cáo kiểm toán - bản
thông báo về các phát hiện cho người đọc báo cáo.
Báo cáo có thể khác nhau về hình thức, bản chất, trong mọi trường hợp chúng
đều phải thông tin cho người đọc về mức độ phù hợp giữa các thông tin số lượng và
chuẩn mực đã xây dựng. Để hiểu một cách đầy đủ và toàn diện hơn về bản chất của
kiểm toán. Hãy đi phân tích mối quan hệ và sự khác nhau căn bản của kiểm toán trong
mối quan hệ với kế toán, thanh tra.
* Mối quan hệ giữa kiểm toán với kế toán.

- Kế toán: là quá trình ghi sổ, phân loại và tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế một
cách có hệ thống, nhằm mục đích cung cấp thông tin tài chính cho quá trình ra quyết
định.
Kế toán - với tư cách là một công cụ để quản lý nền tài chính Quốc gia nói
chung và công tác tài chính trong một doanh nghiệp , một tổ chức kinh tế nói riêng,
hạch toán kế toán đã đem lại những tác dụng to lớn trong việc tăng thu nhập, tiết kiệm
chi phí trong quản lý kinh doanh, kinh tế tài chính có hiệu quả.
Chức năng của hạch toán kế toán là cung cấp thông tin số lượng một số loại
nhất định mà nhà quản lý và những người khác có thể sử dụng để ra quyết định.
- Mặc dù các thông tin kinh tế mà hạch toán kế toán đã đưa ra là cơ sở cho việc
ra quyết định của chủ doanh nghiệp, cơ sở cho việc hoạch định và thực thi các chính
sách kinh tế, cơ sở cho các bộ phận bên ngoài doanh nghiệp quan tâm để ra quyết định
kinh doanh. Song thông tin nào là đúng đắn, là có căn cứ, có độ chính xác cao, điều
này lại hoàn toàn phụ thuộc vào hệ thống kiểm tra, kiểm soát, kiểm toán Nhà nước,
kiểm toán nội bộ cũng như hệ thống kiểm toán độc lập. Điều này để lên giữa kiểm toán
và kế toán có mối quan hệ hữu cơ với nhau, ở chỗ, nếu kế toán là quá trình ghi


chép, phản ánh, tổng hợp và phân tích các nghiệp vụ kinh tế phát sinh thì kiểm toán lại
là quá trình phân tích, nhận định, đánh giá, kiểm định, kết luận về độ chính xác của
các thông tin đó. Xét trên một khía cạnh nào đó của mối quan hệ này thì nhận thấy
rằng: sẽ không có quá trình kiểm toán nếu không có kế toán, mặt khác những thông tin
mà kế toán đã đưa ra thông qua quá trình hạch toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
không được kiểm toán viên kiểm tra, xác nhận tính trung thực, đúng đắn thì những
thông tin ấy chưa hẳn đã đảm bảo tính pháp lý, hợp thức cao của nó.
Hiện nay, hoạt động kiểm toán còn rất mới mẻ cho nên việc lầm lẫn giữa hai
khái niệm này là không thể tránh khỏi. Vì vậy thông qua quá trình nghiên cứu và phân
tích có hệ thống, có khoa học thì sẽ đảm bảo được sự hiểu biết chính xác về hai loại
công cụ quản lý kinh tế này.
* Sự khác biệt giữa kiểm toán với thanh tra:

Mặc dù hai hoạt động: thanh tra, kiểm toán đều là một trong những yếu tố cấu
thành sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước, có chức năng kiểm tra, kiểm soát, xác
nhận sự đúng đắn trong hoạt của đối tượng kiểm tra, tuy nhiên về cách thức tổ chức
hoạt động và về bản chất cơ bản là khác nhau, cụ thể:
- Về cách thức tổ chức:
+ Thanh tra: hệ thống thanh tra kế toán tài chính được tổ chức theo ngành dọc
từ Trung ương đến địa phương và gắn liền với các tổ chức tài chính, gồm:
./ Thanh tra Nhà nước: là cơ quan của Chính phủ.
./ Thanh tra tài chính: là một ban từ Trung ương xuống địa phương và nằm
trong ngành tài chính.
./ Trong tổ chức của Đảng và công đoàn cũng có hệ thống kiểm tra từ Trung
ương đến địa phương nằm trong các tổ chức đó.
./ Thanh tra của các ngành quản lý.
+ Kiểm toán: hệ thống kiểm toán được tổ chức theo hướng tập trung thống nhất,
bao gồm:


./ Hệ thống kiểm toán Nhà nước với mục đích là kiểm tra tài chính công, trong
đó chủ yếu kiểm tra tính đúng đắn, hợp pháp của các hoạt động thu, chi ngân sách và
chi tiêu tài chính do ngân sách cấp, qua đó xác nhận số liệu báo cáo làm cơ sở cho các
cấp thanh quyết toán, thu chi ngân sách.
./ Hệ thống kiểm toán độc lập: cung cấp các dịch vụ kiểm toán theo yêu cầu của
khách hàng với nhiều mục đích khác nhau. hoạt động của kiểm toán độc lập có tác
dụng lớn giúp cho các đơn vị thực hiện tốt công tác tài chính kế toán, đảm bảo tính
khách quan, trung thực của số liệu, tài liệu kế toán và quyết toán.
./ Hệ thống kiểm toán nội bộ: là việc kiểm toán trong nội bộ từng ngành, từng
đơn vị do bộ máy kế toán của ngành, đơn vị tiến hành đối với các đơn vị và bộ phận
trực thuộc nhằm đảm bảo yêu cầu quản lý và hạch toán của bản thân ngành và đơn vị.
-Về mặt bản chất:
Xuất phát từ chức năng và nhiệm vụ chính:

+ Thanh tra:
./ Kiểm tra nghiêm ngặt việc chấp hành chính sách, luật lệ, chế độ tài chính Nhà
nước tại các cơ quan chính quyền, các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, các
doanh nghiệp tư nhân, hợp tác xã, các tổ chức đoàn thể, trên cơ sở đó nhanh chóng
phát hiện các vụ việc vi phạm, sai phạm, tham ô, lãng phí vật tư tài sản, tiền vốn của
Nhà nước để trình các cơ quan có thẩm quyền xử lý nghiêm minh, đảm bảo kỷ cương
phép nước trong hoạt động kinh doanh, hoạt động kinh tế - xã hội, làm lành mạnh tài
chính doanh nghiệp, và tài chính Quốc gia.
./ Điều tra công việc, vụ việc có liên quan đến các vấn đề về tài chính kế toán
trước khiếu nại, khiếu tố của công dân, hoạt động chủ yếu của thanh tra là thanh tra
theo vụ việc.
./ Lập các biên bản nhằm chấn chỉnh công việc tài chính kế toán của các đơn vị,
ngành, cơ quan các cấp.
+ Kiểm toán: nội dung trực tiếp của kiểm toán là phân tích và nghiên cứu thực
trạng tình hình tài chính kế toán của đối tượng kiểm toán, từ đó đi đến xác minh, kết


luận mang tính thuyết phục làm cho những người quan tâm có sự tin tưởng vào những
kết luận kiểm toán.
Như vậy, về mặt bản chất kiểm toán không phải là thanh tra nhưng thanh tra,
kiểm tra lại là chức năng cơ bản của kiểm toán. Nếu thanh tra được tiến hành theo vụ
việc, theo yêu cầu thì kiểm toán là hoạt động có tính chất thường xuyên hơn, mọi công
việc kiểm toán đều được tổ chức theo một trình tự khái quát từ việc chuẩn bị, đến lập
kế hoạch và thực hiện kiểm toán, và được thực hiện bởi những kiểm toán viên trong hệ
thống bộ máy kiểm toán.
Mặc dù việc thực hiện các biện pháp quản lý sai phạm không thuộc chức năng,
nhiệm vụ của kiểm toán, nhưng chức năng kiểm tra, xác nhận, đánh giá và kết luận về
đối tượng kiểm toán lại xác lập cho hoạt động kiểm toán tính độc lập, chủ động và
khách quan rất cao. Từ đó có những kiến nghị thoả đáng với cấp có thẩm quyền để có
quyết định đúng đắn trong quản lý, điều hành sản xuất kinh doanh.

3. Vai trò của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường.
Hoạt động của bất kỳ một Quốc gia, một tổ chức kinh tế nào đều nhằm tiến tới
sự hoàn thiện và sự phát triển cao , tuy nhiên đây là một lý tưởng, bởi lẽ sự biến động
của môi trường kinh tế - xã hội là tất yếu xảy ra và có tác động tích cực hay tiêu cực
tới kết quả hoạt động của quốc gia, của tổ chức kinh tế đó.
Nói như vậy để khẳng định rằng, những kết quả và những hậu quả của một quá
trình hoạt động và phát triển của một pháp nhân, một chủ thể kinh tế là tất yếu. Sự thất
thoát tài sản, sự xụp đổ một chế độ, đổ vỡ chiến lược kinh doanh và những thành tựu
kinh tế đạt được là hai mặt đối lập luôn tồn tại trong một thể thống nhất. Vấn đề đặt ra
là, làm thế nào để hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra đối với các chủ
thể kinh tế trong hoạt động và phấn đấu trên con đường tiến tới mục đích của mình.

Câu hỏi này được đặt ra không chỉ đối với các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền mà là vấn đề quan tâm chung của toàn xã hội. Nhận thức được điều này, các nhà
quản lý và hoạch định chính sách kinh tế ở tầm Quốc gia và xuyên Quốc gia đã xây
dựng và áp dụng các công cụ quản lý kinh tế - xã hội. Trong đó, kiểm toán là một công


cụ quan trọng không thể thiếu trong hệ thống các công cụ quản lý nền tài chính, tiền tệ,
ổn định chính trị xã hội Quốc gia, Quốc tế.
Nhìn vào hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính, tiền tệ ở khu vực
Đông Nam á, nhiều nhà kinh tế, đặc biệt là các chuyên gia kinh tế của ngân hàng phát
triển Châu á, ngân hàng thế giới, đã đưa ra một số nhận định liên quan đến công tác
quản lý và tổ chức hoạt động của các công ty kiểm toán. Họ cho rằng các doanh
nghiệp có thị trường xuất khẩu lớn ở hầu hết các nước thuộc khu vực Đông Nam á, do
bị mất thị phần dẫn đến doanh thu giảm và lâm vào tình trạng khủng hoảng về tài
chính nhưng đã không bị phát hiện qua kiểm toán, và không được cảnh báo kịp thời để
có giải pháp khoanh vùng điều trị cho đến khi căn bệnh này lây lan đến các doanh
nghiệp khác qua các kênh: liên kết đối tác, bạn hàng, quan hệ tín dụng mua bán trả
chậm, vay nợ lẫn nhau và khi các doanh nghiệp này vay ngân hàng để kinh doanh bất

động sản hay vay tín dụng Quốc tế bằng ngoại tệ mạnh để đổi ra nội tệ cho vay hưởng
chênh lệch lãi xuất thì việc phát hiện ra của các cơ quan kiểm toán đã trở nên quá
muộn và vô phương cứu chữa. Họ cho rằng nếu các “mầm bệnh” ban đầu được khoanh
vùng sớm, rất có thể không nổ ra khủng hoảng kinh tế ở khu vực kinh tế Đông Nam á.

Tuy nhiên, các nhận định trên có hoàn toàn đúng hay không, điều này chưa thể
xác định được. Điều quan trọng hơn cả là xuyên suốt quá trinh tồn tại và phát triển của
kiểm toán, phải nhìn thấy việc ra đời của kiểm toán là phù hợp với nhu cầu thực tế của
toàn xã hội, những kết quả, thành tựu của kiểm toán phải được trân trọng và những
hạn chế của nó cần phải được khắc phục và chấn chỉnh kịp thời .
Ta hãy nhìn vào những kết quả thực tế mà kiểm toán đã đạt được kể từ khi kiểm
toán Nhà nước nói riêng và nghành kiểm toán nói chung ra đời ở Việt Nam. Trong lễ
kỷ nệm 5 năm kiểm toán Nhà nước (từ ngày 11- 7- 1994 đến ngày 11-7-1999), trong
bài phát biểu của đồng chí Nguyễn Tấn Dũng - Phó Thủ tướng nước Cộng Hoà Xã Hội
Chủ Nghĩa Việt Nam có đoạn viết: “Tính từ khi thành lập đến nay, thông qua kiểm
toán đã phát hiện nhiều sai phạm và kiến nghị tăng thu và giảm chi cho ngân sách Nhà
nước khoảng 2500 tỷ đ, trong đó thực hiện số chi tiêu sai chế độ, để ngoài quyết toán
ngân sách 1747 tỷ đ. Qua đó đã giúp các cơ quan địa phương, đơn vị chấn


chỉnh các thiếu sót, sai phạm, ngăn ngừa lãng phí, chống tham ô, giữ gìn kỷ cương,
quản lý tài sản công quĩ. Đồng thời, kiểm toán Nhà nước đã cung cấp cho Quốc hội và
Chính phủ những báo cáo, thông tin trung thực, khách quan về tình hình quản lý kinh
tế, tài chính, giúp cho việc chỉ đạo và có những quyết sách kịp thời. Những kết quả đạt
được đã giúp cho kiểm toán Nhà nước từng bước khẳng định được vai trò, vị trí của
mình, đó là những thành tích rất đáng khích lệ cần khẳng định và tiếp tục phát huy".
Như vậy, kiểm toán là hoạt động tất yếu phải tồn tại, là công cụ quản lý hữu
hiệu của Nhà nước, là một trong các công cụ quản lý quan trọng trong các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế, là phương tiện không thể thiếu của bên thứ ba khi sử dụng
để đưa ra quyết định kinh doanh đúng đắn cho mình. Hoạt động kiểm toán là cần thiết,

đảm bảo hiệu quả trong mọi công tác kinh tế cũng như phi kinh tế trong xã hội.
4. Các loại hình kiểm toán và các bước cơ bản để tiến hành một cuộc kiểm toán
4.1. Các loại hình kiểm toán
Có rất nhiều tiêu thức để phân loại kiểm toán, phổ biến là hai tiêu thức: phân
loại kiểm toán theo chức năng và phân loại kiểm toán theo chủ thể tiến hành.
a. Phân loại kiểm toán theo chức năng:
Toàn bộ các công việc kiểm toán hiện nay thực hiện theo ba chức năng: kiểm
toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán báo cáo tài chinh.
a1, Kiểm toán hoạt động:
- Khái niệm: kiểm toán hoạt động là việc đánh giá mức độ hiệu lực và tính hiệu

quả trong hoạt động của một bộ phận trực thuộc hay toàn bộ đơn vị. Mức độ hiệu lực
nói lên khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao và mục tiêu của đơn vị. Tính hiệu
quả là đạt được kết quả cao nhất với chi phí là thấp nhất.
- Mục tiêu của kiểm toán hoạt động: như định nghĩa đã nêu rõ, kiểm toán hoạt

động nhằm đánh giá mức độ hiệu lực và tính hiệu quả trong hoạt động của một bộ
phận trực thuộc hay toàn bộ hoạt động của đơn vị.
- Đối tượng của kiểm toán hoạt động rất đa dạng, liên quan đến nhiều lĩnh vực,

từ chính sách kinh tế, phương án kinh doanh, quy trình công nghệ, cho đến vấn đề kỹ


thuật, nghiệp vụ kế toán. Do vậy kiểm toán hoạt động vượt ra ngoài phạm vi công tác
tài chính, kế toán và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau.
a2. Kiểm toán tuân thủ.
- Khái niệm : kiểm toán tuân thủ là xem xét việc tuân thủ các thủ tục, các

nguyên tắc, các quy định pháp lý của Nhà nước, của cơ quan có thẩm quyền hoặc
những nội quy tự đề ra của đơn vị.

- Mục tiêu của kiểm toán tuân thủ: kiểm toán tuân thủ được tiến hành nhằm

xem xét việc thực hiện những qui định pháp lý của đơv vị, đồng thời đề xuất những
giải pháp, xử lý khi phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật.
a3, Kiểm toán báo cáo tài chính.
- Khái niệm:
Kiểm toán báo cáo tài chính là kiểm tra, xác định tính kịp thời, đầy đủ khách
quan, trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính, đồng thời xem xét và đánh giá
báo cáo tài chính có được xây dựng phù hợp với các nguên tắc, chuẩn mực kiểm toán
được thừa nhận không?
- Đối tượng:
Kiểm toán báo cáo tài chính tiến hành kiểm toán bảng cân đối kế toán, báo cáo
kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bảng thuyết minh báo cáo
tài chính.
- Tác dụng: Kiểm toán báo cáo tài chính có tác dụng rất quan trọng trong việc

giúp cho người sử dụng thông tin có cơ sở đáng tin cậy để đưa ra quyết định kinh tế
phù hợp.
- Mục tiêu: Kiểm toán báo cáo tài chính nhằm: xác nhận tính trung thực của số

liệu báo cáo tài chính, từ đó có những kiến nghị, đảm bảo tính phù hợp cân đối của
bảng báo cáo tài chính.
- ý nghĩa: Kiểm toán báo cáo tài chính: có ý nghĩa vô cùng quan trọng bởi chính

tầm quan trọng của báo cáo tài chính, bảng báo cáo tài chính là cơ sở cho việc tính
thuế nộp ngân sách Nhà nước, là căn cứ cho các quyết định đầu tư, nó ảnh hưởng đến


giá cả chứng khoán của doanh nghiệp, của đơn vị đó trên thị trường. Do đó kiểm toán
báo cáo tài chính thuộc về chức năng cơ bản và quan trọng của hệ thống kiểm toán độc

lập.
b. Phân loại kiểm toán theo chủ thể tiến hành.
Theo tiêu thức này kiểm toán được phân ra làm 3 loại: kiểm toán Nhà nước,
kiểm toán độc lập, và kiểm toán nội bộ.
b1, Kiểm toán Nhà nước.
- Khái niệm: kiểm toán Nhà nước là việc kiểm toán do cơ quan kiểm toán Nhà

nước tiến hành.
- Phạm vi: tiến hành các cuộc kiểm tra tuân thủ, xem xét việc chấp hành các

chính sách, luật lệ, chế độ của Nhà nước và đánh giá sự hữu hiệu, hiệu quả hoạt động
tại các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của Nhà nước.
-Vị trí: cơ quan kiểm toán Nhà nước là một tổ chức trong bộ máy quản lý của
nhà nước, kiểm toán viên Nhà nước là các viên chức Nhà nước.
- Mục tiêu, nhiệm vụ: kiểm toán Nhà nước hoạt động với nhiệm vụ kiểm tra xác
nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của
các cơ quan Nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể
quần chúng, tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách Nhà nước cấp.
Kiểm toán Nhà nước còn phải kiểm toán báo cáo quyết toán ngân sách tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương trướckhi trình Quốc hội. Kiểm toán Nhà nước cũng
phải kiểmtoán báo cáo của các bộ, cơ quan thuộc Quốc hội, toà án nhân dân, viện kiểm
sát nhân dân, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội có sử dụng kinh phí của
Nhà nước, báo cáo quyết toán của các doanh nghiệp Nhà nước...
Khi thực hiện kiểm toán, kiểm toán viên Nhà nước có quyền yêu cầu các đơn vị
kiểm toán sửa chữa những sai phạm và kiến nghị với các cấp có thẩm quyền xử lý các
vi phạm, đế xuất với Chính phủ những sửa đổi, cải tiến cơ chế quản lý tài chính, kế
toán cần thiết.
b2, Kiểm toán độc lâp.



- Khái niệm: kiểm toán độc lập là hình thức được tiến hành bởi các kiểm toán

viên độc lập hành nghề trong các công ty, các hãng kiểm toán của các văn phòng kiểm
toán chuyên nghiệp.
- Phạm vi: kiểm toán độc lập hoạt động chủ yếu là kiểm toán báo cáo tài chính,

kiểm toán độc lập thực hiện theo yêu cầu của khách hàng và còn có thể thực hiện các
dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán và thuế. Mặt khác, một cuộc kiểm toán được tiến
hành bởinhững kiểm toán viên độc lập còn nằm trong kế hoạch, chủ chương của Nhà
nước khi có yêu cầu.
b3, Kiểm toán nội bộ.
- Khái niệm: kiểm toán nội bộ là công việc kiểm toán do kiểm toán viên nội bộ

của đơn vị tiến hành theo yêu cầu của giám đốc doanh nghiệp, đơn vị đó hoặc thủ
trưởng đơn vị.
- Phạm vi: kiểm toán các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị của doanh

nghiệp và các đơn vị thànhviên, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động.
- Bô máy tổ chức: kiểm toán nội bộ có thể trực thuộc Ban Gám đốc, hoặc hội

đồng quản trị, tuỳ theo yêu cầu, quy mô và lĩnh vực kinh doanh, mục đích hoạt động
của từng doanh nghiệp, từng tổ chức kinh tế.
- Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ:
+ Kiểm tra và đánh giá tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm

soát nội bộ, trong tổ chức kinh tế.
+ Kiểm tra và xác nhận chất lượng, độ tin cậy của các thông tin kinh tế, tài

chính của báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị doanh nghiệp trước khi trình ký
duyệt và công bố.

+ Kiểm tra và đánh giá sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh

doanh đặc biệt sự tuân thủ luật pháp, các chính sách, chế độ kế toán, các nghị quyết,
quyết định của hội đồng quản trị, Ban Giám đốc của tổ chức kinh tế đó.


+ Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận trong quản lý và trong bảo vệ tài
sản, đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống quản lý điều hành kinh
doanh của doanh nghiệp.
Phụ lục các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam và bảng kê phận loại kiểm
toán.
Các công ty kiểm toán độc lập ở Việt Nam.
Công ty 100% vốn
nước ngoài.
-ERNZT and
YOUNG (E&Y1991).
-KPMG(1993)
-PRICE
WATERHOUSE
(1993)
-ARTHUR
ANDESEN(1995)

Chỉ tiêu
Chủ thể tiến
hành

Kiểm toán viên

Đối tượng kiểm

toán chủ yếu


Phương thức tiến
hành kiểm toán
Kinh phí kiểm
toán
Trách nhiệm
Báo cáo (trình
cho)

4.2. Các bước tiến hành một cuộc kiểm toán.
Khi tiến hành một cuộc kiểm toán, dù cuộc kiểm toán được tiến hành bởi chủ
thể nào thì cũng phải tuân theo một trình tự nhất định của cuộc kiểm oán, phải đảm
bảo tính khoa học và logic kể từ khi xuất hiện yêu cầu kiểm toán đến khi kết thúc cuộc
kiểm toán.
Chuẩn mực về trình tự một cuộc kiểm toán chung áp dụng ở Việt Nam chưa
được thông qua mặc dù trình tự kiểm toán Nhà nước và kiểm toán nội bộ đã được phê
chuẩn, tuy nhiên nhận thức được tầm quan trọng của chất lượng kiểm toán ảnh hưởng
trực tiếp hoặc gián tiếp tới những quyết định trong quản lý, trong kinh doanh cũng như
trong đầu tư của các bên quan tâm, trình tự kiểm toán phải đảm bảo được những
nguyên tắc sau cơ bản sau:
- Đảm bảo đầy đủ công việc để kiểm toán một nội dung nào đó.
- Phải đảm bảo trình tự các công việc của cuộc kiểm toán kể từ khi có quyết

định kiểm toán đến khi kết thúc cuộc kiểm toán và những công việc sau kiểm toán.
Trình tự cuộc kiểm toán phải khoa học, logic, phù hợp với nội dung kiểm toán
và đối với từng đối tượng được kiểm toán.
Việc tuân thủ những nguyên tắc trên, không những đảm báo chất lượng cuộc
kiểm toán mà còn đảm bảo cho cuộc kiểm toán đó đạt được tính kinh tế, tính hiệu quả



nhất định và đây là yêu cầu cao nhất của bất kỳ một chủ thể nào khi tiến hành kiểm
toán.
Từ sự phân tích trên đây thì quy trình một cuộc kiểm toán bao gồm 4 bước như sau:
- Lập kế hoạch và chương trình kiểm toán.
- Tiến hành kiểm toán.
- Lập báo cáo kiểm toán.
- Theo dõi sau kiểm toán.

a. Lập kế hoạch và chương trình kiểm toán:
- Mục đích và tác dụng: trợ giúp cho công tác kiểm toán đạt chất lượng, đúng thời hạn,

kế hoạch kiểm toán thích hợp sẽ giúp cho kiểm toán viên xác định đúng trọng tâm vấn đề cần
thiết, có những chú ý và tránh được sai sót, tiết kiệm thời gian và tạo điều kiện tổ chức, phối
hợp công việc giữa các thành viên tham gia kiểm toán cũng như sử dụng hiệu quả kinh
nghiệm các chuyên gia, cho phép thu thập đầy đủ những bằng chứng để đưa ra các
ý kiến xác đáng.
- Nội dung của kế hoạch, chương trình kiểm toán :
+ Tiến hành điều tra và phân tích rủi ro.
+ Xác định mục đích, yêu cầu của cuộc kiểm toán.
+ Xác định nội dung và phạm vi của cuộc kiểm toán.
+ Xác định phương pháp, kỹ thuật kiểm toán, xác định thời gian kiểm toán từ

khi bắt đầu đến khi lập báo cáo kiểm toán.
+ Chuẩn bị nhân sự cho kiểm toán.

- Các bước lập kế hoạch và chương trình kiểm toán.
+ Kế hoạch sơ bộ.
+ Kế hoạch tổng thể và kế hoạch chi tiết.

+ Chương trình kiểm toán.


Chương trình kiểm toán là một bước rất quan trọng của quá trình lập kế hoạch
kiểm toán vì chương trình kiểm toán chính là việc rà soát lại những nội dung, những
vấn đề của một cuộc kiểm toán, sắp xếp các nội dung đó theo một trình tự nhất định
đảm bảo tính đầy đủ và khoa học của kế hoạch kiểm toán, tạo những tiền đề cơ bản
cho bước thực hiện kiểm toán để cuộc kiểm toán đạt chất lượng cao.
Nội dung của chương trình kiểm toán với những vấn đề theo trình tự sau:
- Thu thập thông tin về các bộ phận và phác thảo chương trình kiểm toán.
- Đối chiếu lại với kế hoạch kiểm toán xem có thích hợp không.
- Lựa chọn trình tự kiểm toán.
- Đánh giá xem lựa chọn trình tự kiểm toán có đúng đắn không.
- Lập chương trình kiểm toán cụ thể.

b. Thực hiện kiểm toán:
- Sau các công việc chuẩn bị cho cuộc kiểm toán, kiểm toán viên dựa vào kế
hoạch chương trình kiểm toán đã hoạch định, vận dụng các phương pháp, kỹ thuật để
tiến hành kiểm toán.
Quá trình kiểm toán thực chất là quá trình kiểm toán viên vận dụng thực hiện
các nội dung của phương pháp và kỹ thuật kiểm toán nhằm thu thập đầy đủ các bằng
chứng kiểm toán có độ tin cậy cao và có giá trị để làm cơ sở cho việc lập báo cáo kiểm
toán.
Mặt khác, việc kết hợp với các nhận thức cơ bản trong kiểm toán cũng làm
tăng chất lượng cuộc kiểm toán lên rất nhiều, nhận thức đó là:
+ Tuân thủ pháp luật, chuẩn mực kiểm toán và quy chế hoạt động của đoàn

kiểm toán.
+ Tuân thủ quy trình kiểm toán chung và quy trình kiểm toán chuyên ngành.
+ Chấp hành nghiêm chỉnh kế hoạch, chương trình kiểm toán đã được duyệt.

+ Phải ghi chép, tập hợp các kết quả cụ thể của từng bước công việc vào hồ sơ

kiểm toán.


+ Định kỳ phải tổng hợp kết quả kiểm toán.
c. Hoàn tất và lập báo cáo kiểm toán.
Lập và công bố báo cáo kiểm toán và lưu trữ hồ sơ kiểm toán: là quá trình kiểm
toán viên tổng hợp công bố và lưu trữ những kết quả làm việc của đoàn kiểm toán về
những nội dung kiểm toán trên cơ sở những bằng chứng kiểm toán thu thập được,
những vấn đề phát hiện được, những ý kiến, nhận xét và đánh giá, kết luận đồng thời
đưa ra các kiến nghị đối với đơn vị được kiểm toán cũng như đối với các cơ quan quản
lý Nhà nước trong quản lý kinh tế nhằm hoàn chỉnh và đổi mới cơ chế, chính sách của
Nhà nước.
Báo cáo kiểm toán: là sản phẩm của quá trình kiểm toán, vì vậy, khi lập báo cáo
kiểm toán phải tuân thủ những tiêu chuẩn, chuẩn mực nhất định, trong đó, yêu cầu của
báo cáo kiểm toán phải lập thành văn bản, một báo cáo kiểm toán phải có đầy đủ các
yếu tố cơ bản sau:
./ Tiêu đề
./ Địa chỉ gửi báo cáo đi (gửi cho ai?)
./ Căn cứ pháp lý của cuộc kiểm toán.
./ Xác định nội dung công việc kiểm toán (kiểm toán về vấn đề gì).
./ Xác định đối tượng kiểm toán (phòng nào, bộ phận nào trong cơ quan).
Kết quả kiểm toán trên các nội dung, ý kiến nhận xét và các kiến nghị của kiểm
toán viên.
Ký tên, ngày ký và lập báo cáo kiểm toán.
- Các bước lập báo cáo kiểm toán:
+ Chuẩn bị lập báo cáo kiểm toán: thu thập, tổng hợp bằng chứng kiểm toán.
+ Soạn thảo báo cáo kiểm toán thông qua dự thảo báo cáo.
+ Xét duyệt và công bố kết quả kiểm toán.

+ Phát hành BCKT.
+ Lưu trữ hồ sơ BCKT .


* Các loại báo cáo kiểm toán:
Báo cáo chấp nhận toàn bộ.
- Báo cáo chấp nhận từng phần.
- Báo cáo ý kiến đối ngược.
- Báo cáo ý kiến từ bỏ.

d. Theo dõi sau kểm toán:
Theo dõi sau kiểm toán là quá trình kiểm tra đơn vị được kiểm toán thực hiện
kiến nghị của đoàn kiểm toán hoặc bộ phận kiểm toán nội bộ như thế nào? Có coi
trọng các kiến nghị này hay không và đã làm đến đâu? Bằng các phương pháp điều tra
trực tiếp hay điều tra gián tiếp để kiểm toán viên có kết luận về tính chủ động, trách
nhiệm trong công việc, tính quy củ trong hoạt động sau kiểm toán của đơn vị.
- Bước này là bước rất quan trọng vì nó quyết định đến tính hiệu lực, hiệu quả
hay không của cuộc kiểm toán.
Trên đây là các bước, các nội dung của quy trình một cuộc kiểm toán. Tuân
thủ theo quy trình, các nguyên tắc áp dụng trong quy trình kiểm toán sẽ tránh được các
rủi ro kiểm toán, loại bỏ những nhân tố ảnh hưởng xấu đến chất lượng một cuộc kiểm
toán, nâng cao hiệu quả cuộc kiểm toán, tiết giảm các chi phí không cần thiết.
4.3. Các phương pháp, kỹ thuật sử dụng trong quá trình kiểm toán.
Khi tiến hành cuộc kiểm toán, các kiểm toán viên và các đoàn kiểm toán có thể
sử dụng nhiều phương pháp khác nhau để thu thập bằng chứng kiểm toán, xác minh và
đánh giá các thông tin kinh tế, sau đây là một số phương pháp kiểm toán chủ yếu có
thể lựa chọn trong quá trình kiểm toán để đạt được mục tiêu của cuộc kiểm toán.
a. Phương pháp kiểm toán cơ bản:
Khái niệm: là phương pháp dùng để thu thập bằng chứng về mức độ trung thực,
hợp lý của những số liêu kế toán.

Phương pháp này bao gồm hai bộ phận: phương pháp phân tích và phương
pháp kiểm tra chi tiết nghiệp vụ và số dư.


- Phương pháp phân tích: là việc so sánh các thông tin, nghiên cứu các mối
quan hệ bằng các tỷ lệ, các chỉ số để phát hiện và nghiên cứu về các trường hợp bất
thường, chẳng hạn mối quan hệ:
+ Vốn bằng tiền và tài sản lưu động của đơn vị được kiểm toán, tỷ suất này >
0.2 và < 0.5 thì đảm bảo tồn quỹ tiền mặt không quá lớn mà vẫn đảm bảo khả năng

thanh khoản.
+ Mối quan hệ giữa thông tin tài chính và thông tin phi tài chính: chi phí nhân

công và số lượng lao động.
+ Sử dụng phương pháp phân tích để kế hoạch kiểm toán khoa học, giúp kiểm

toán viên sử dụng thông tin tài chính và phi tài chính, có phạm vi rộng về việc thu thập
các bằng chứng để phân tích, nhận xét và củng có thông tin nhằm đưa ra ý kiến xác
đáng trong báo cáo kiểm toán. Sử dụng phương pháp phân tích để xét lại tổng thể các
thông tin từ đó đi đến kết luận một cách tổng quát về tính hợp lý của các thông tin đó.
- Phương pháp kiểm tra chi tiết nghiệp vụ và số dư.
Phương pháp này thường được sử dụng để kiểm tra các đối tượng riêng lẻ nhằm
nhấn mạnh vào chiều sâu của các vấn đề hoặc các dfdối tượng có quy mô nhỏ, cá
nghiệp vụ không phức tạp, tuy nhiên phương pháp này có thể xảy ra những rủi ro nằm
trong mối tương quan giữa các đối tượng, đồng thời tốn kém về nhân lực và thời gian.
b. Phương pháp kiểm tra, kiểm soát:
Khái niệm: là phương pháp thực hiện các thử nghiệm để thu thập các bằng
chứng kiểm toán, đảm bảo rằng hệ thống kiểm soát nội bộ mà kiểm toán viên dựa vào
để kiểm ttoán là một hệ thống có hiệu quả.
Phương pháp này được sử dụng dựa vào hệ thống kiểm soát nội bộ là chủ yếu,

để kiểm tra tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống này, tồn tại có phải chỉ là hình thức
hay không để từ đó những ý kiến, những kiến nghị phù hợp.
c. Phương pháp kiểm toán cân đối:
- Khái niệm: là phương pháp dựa trên các cân đối kế toán và các cân đối khác
để kiểm toán các mối quan hệ nội tại của các yếu tố cấu thành các quan hệ cân đối đó.


d. Phương pháp đối chiếu:
Bao gồm phương pháp đối chiếu trực tiếp và phương pháp đối chiếu logic.
- Phương pháp đối chiếu trực tiếp: là phương pháp kiểm toán mà kiểm toán viên

tiến hành so sánh đối chiếu về mặt lượng của cùng một chỉ tiểu trên các tài liệu khác
nhau (các chứng từ kiểm toán ) để tìm ra các sai sót, gian lận về chỉ tiêu đó.
- Phương pháp đối chiếu logic: là việc nghiên cứu các mối liên hệ bản chất giữa

các chỉ tiêu có quan hệ với nhau thông qua việc xem xét mức biến động tương ứng về
trị số của các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp, song có thể có mức biến động khác
nhau theo các hướng khác nhau.
đ Phương pháp kiểm kê:

Phương pháp kiểm kê là phương pháp kiểm tra hiện vật các loại tài sản nhằm
thu thập các thông tin về số lượng, giá trị của tài sản đó. Để đảm bảo hiệu quả của
công tác kiểm kê, kiểm toán viên cần vào tính chất của các loại vật tư, tài sản: số
lượng, giá trị, đặc tính kinh tế.
- Kỹ thuật sử dụng phương pháp này: kiểm kê toàn diện hoặc kiểm kê điển
hình, kểm kê chọn mẫu.
e. Phương pháp điều tra:
Là phương pháp kiểm toán mà theo đó bằng các cách khác nhau, kiểm toán viên
tiếp cận đối tượng kiểm toán nhằm tìm hiểu, thu thập các thông tin cần thiết về tình
huống, thực chất, thực trạng của một số sự vụ, bổ sung căn cứ cho viẹc đưa ra những

đánh giá, nhận xét hay kết luận kiểm toán.
f. Phương pháp thực nghiệm (còn gọi là phương pháptrắc nghiệm).
Là phương pháp tái diễn các hoạt động hoặc các nghiệp vụ để xác minh lại kết
quả của một quá trình, một sự việc đã qua hoặc sử dụng thủ pháp kỹ thuật, nghiệp vụ
để tiến hành phép thử nhằm xác định một cách khách quan chất lượng công việc, mức
độ chi phí.


×