Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu phương pháp điều trị dị tật miệng niệu đạo thấp thể cong dương vật nặng bằng mảnh ghép bì (TT)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (565.59 KB, 27 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ Y TẾ

ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP HỒ CHÍ MINH

LÊ THANH HÙNG
NGHIÊN CỨU PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRỊ DỊ TẬT
MIỆNG NIỆU ĐẠO THẤP THỂ CONG DƯƠNG VẬT
NẶNG BẰNG MẢNH GHÉP BÌ

Chuyên ngành: Ngoại thận và tiết niệu
Mã số: 62720126

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - NĂM 2016


2

Công trình được hoàn thành tại:
ĐẠI HỌC Y DƯỢC TP HỒ CHÍ MINH

Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. VŨ LÊ CHUYÊN
2. PGS.TS. LÊ TẤN SƠN
Phản biện 1:
Phản biện 2:


Phản biện 3:
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp trường
tại:………………………………….
Vào hồi …….giờ…..ngày…..tháng…năm……

Có thể tìm luận án tại :
1.Thư viện Quốc gia Việt Nam
2.Thư viện khoa học tổng hợp TP.HCM
3.Thư viện Đại học Y Dược TP HCM


3

GIỚI THIỆU LUẬN ÁN
1. Đặt vấn đề
Miệng niệu đạo thấp (MNĐT) là dị tật bẩm sinh của dương vật
(DV) thường gặp nhất, có tần suất khoảng 1/300 bé trai.
Dị tật này bao gồm 3 thương tổn chính là: miệng niệu đạo nằm lệch
thấp hơn vị trí bình thường so với đỉnh quy đầu từ khấc dương vật cho tới
tầng sinh môn, thiếu da ở mặt bụng dương vật và dương vật cong ở nhiều
mức độ tùy theo thương tổn.
Năm 1965 Nesbit là người đầu tiên giới thiệu kỹ thuật xẻ và khâu
gấp mặt lưng bao trắng để sửa tật cong dương vật.
Tuy nhiên với cong DV nặng (hơn 300) do mất cân đối của bao
trắng dương vật và thể hang, việc điều trị bằng cách khâu gấp mặt lưng
dương vật kiểu Nesbit tỏ ra không hiệu quả do làm ngắn DV, gập cuống
mạch máu thần kinh vùng lưng dương vật sẽ gây tê, đau và cong tái phát.
Giải pháp nào cho việc điều trị cong dương vật thể nặng ?
Để tránh được các khuyết điểm của kỹ thuật Nesbit, Devine và
Horton đề nghị phương pháp sử dụng mảnh ghép bì cho những trường hợp

cong dương vật nặng trong miệng niệu đạo thấp. Phẫu thuật này đã tránh
được các khuyết điểm của kỹ thuật Nesbit mà còn giữ được độ dài tốt nhất
cho dương vật.
Phẫu thuật tăng chiều dài mặt bụng dương vật đã được xử dụng
rộng rãi trên thế giới tuy nhiên tại Việt Nam chưa được phổ biến, mặc dầu
điều trị dị tật miệng niệu đạo thấp đã có từ lâu.
Từ thực tế trên đây, chúng tôi thực hiện đề tài “Nghiên cứu phương
pháp điều trị dị tật miệng niệu đạo thấp thể cong dương vật thể nặng bằng
mảnh ghép bì" nhằm tránh các biến chứng cong dương vật tái phát hay
ngắn dương vật, góp phần nâng cao hiệu quả trong việc điều trị dị tật này.
Các mục tiêu nghiên cứu của đề tài gồm:
1. Phân tích đặc điểm nhóm bệnh nhi nghiên cứu.
2. Ứng dụng quy trình phẫu thuật miệng niệu đạo thấp thể cong
dương vật nặng với mảnh ghép bì, đánh giá ưu nhược điểm của
phương pháp
3. Đánh giá kết quả phẫu thuật.


4
2. Tính cấp thiết của đề tài
Thương tổn thường hay gặp trong MNĐT thể sau là tật cong dương
vật, với các mức độ khác nhau. Phẫu thuật làm thẳng DV cũng là một
trong những mục tiêu chính điều trị dị tật này.
Phẫu thuật Nesbit có hiệu quả trong cong DV nhẹ, trong cong DV
nặng phẫu thuật này ít cho thấy tính hiệu quả khi theo dõi lâu dài như cong
tái phát. Phẫu thuật tăng chiều dài mặt bụng DV với mảnh ghép bì khắc
phục được các nhược điểm của phẫu thuật Nesbit đã được các tác giả nước
ngoài mô tả.
Tại Việt Nam, điều trị dị tật này đã có từ lâu, các công trình nghiên
cứu thiên về kỹ thuật sửa chữa tạo hình niệu đạo, chưa có công trình nào

của các tác giả trong nước ghi nhận, tường trình cách thức phẫu thuật hay
xử lý tật cong dương vật nặng phối hợp trong miệng niệu đạo thấp.
Do đó việc thực hiện đề tài “Nghiên cứu phương pháp điều trị cong
dương vật thể nặng bằng mảnh ghép bì trong dị tật miệng niệu đạo thấp”
mang tính cấp thiết.
3. Những đóng góp mới của luận án
- Nghiên cứu đánh giá kết quả điều trị của mảnh ghép bì trong dị tật
MNĐT có cong DV nặng.
- Ứng dụng quy trình phẫu thuật, nghiên cứu cũng nêu ra các ưu
khuyết điểm của phương pháp mở rộng bao trắng bằng mảnh ghép bì
- Nghiên cứu mô tả đặc điểm nhóm bệnh nhi MNĐT có cong DV
nặng.
4. Bố cục luận án
Luận án có 130 trang. Phần đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu (3
trang), kết luận và kiến nghị (3 trang), có 4 chương: tổng quan tài liệu 31
trang, đối tượng và phương pháp nghiên cứu 25 trang, kết quả 31 trang,
bàn luận 37 trang. Có 15 bảng, 19 biểu đồ, 43 hình, tài liệu tham khảo (14
tiếng Việt, 100 tiếng Anh).


5

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. PHÔI THAI HỌC VÀ SỰ HÌNH THÀNH CỦA DỊ TẬT MIỆNG
NIỆU ĐẠO THẤP
Vào cuối tháng đầu của thai kỳ hệ thống niệu dục tương lai và ruột
giữa phát triển tới bề mặt của phôi ở màng nhớp. Thời điểm này chưa thể
phân biệt được bộ phận sinh dục ngoài của nam và nữ.
Tuần thứ 8 của thai kỳ, các nếp thấp của da quy đầu xuất hiện ở cả 2
bên thân dương vật và dính vào vùng lưng tạo nên dây xơ ở bờ gần của

khấc quy đầu. Dây này không bao quanh hoàn toàn quy đầu do sự phát
triển không hoàn toàn của niệu đạo quy đầu. Như thế, nếp da quy đầu đã
dịch chuyển trực tiếp ở phần xa do sự phát triển của trung mô giữa nếp da
quy đầu và khấc quy đầu. Quá trình này tiếp tục cho đến khi nếp da quy
đầu che phủ hết toàn bộ quy đầu. Sự kết dính thường thấy lúc sinh nhưng
do sự bong tróc của lớp biểu mô kết dính làm cho da quy đầu tuộc ngược
ra. Nếu các nếp sinh dục không kết dính các mô da quy đầu, da sẽ không
tạo thành ở vùng bụng dương vật. Kết quả là da quy đầu trong miệng niệu
đạo thấp thiếu ở vùng bụng và dư ở vùng lưng.
1.2. GIẢI PHẪU HỌC MIỆNG NIỆU ĐẠO THẤP
1.2.1. Vị trí miệng niệu đạo
Miệng niệu đạo nằm ở vị trí bất thường là đặc trưng cho miệng
niệu đạo thấp. Miệng niệu đạo có thể nằm dọc theo đường đi của niệu đạo
phía bụng dương vật từ quy đầu cho đến tầng sinh môn. Miệng niệu đạo
thường khác nhau về hình dạng đường kính và độ đàn hồi. Có khi da phủ
vùng niệu đạo gần miệng niệu đạo rất mỏng và thỉnh thoảng miệng niệu
đạo bị hẹp. Nhiều khi miệng niệu đạo rộng và niệu đạo thân dương vật có
đường kính bình thường. Do vị trí miệng niệu đạo ở thấp cho nên dòng
nước tiểu thường lệch xuống dưới chân gây khó khăn trong tư thế đi tiểu,
đặc biệt trong thể tầng sinh môn em bé phải tiểu ngồi như bé gái.
1.2.2. Cong dương vật
Cong dương vật vùng bụng là thương tổn thường đi kèm với miệng
niệu đạo thấp ở nhiều mức độ khác nhau. Từ gập nhẹ của quy đầu so với
thân dương vật đến cong toàn bộ thân dương vật. Cong dương vật có tỷ lệ
cao trong miệng niệu đạo thấp thể nặng nhưng có thể độc lập không đi


6
kèm với miệng niệu đạo thấp. Cong dương vật không kèm miệng niệu đạo
thấp có thể đơn thuần là ngắn da vùng bụng dương vật. Tuy nhiên việc

phát triển bất thường của niệu đạo hay bao trắng cũng có đóng vai trò
trong cong dương vật.
1.2.3. Chuyển vị dương vật bìu và bìu chẻ đôi
Bình thường củ sinh dục phát triển và nằm trên hai nhú sinh dục mà
sau này dương vật nằm trên hai bìu. Trường hợp này dương vật có thể nằm
kẹp giữa hai nửa bìu và bị nhấn chìm sâu vào trong. Bìu chẻ đôi thường
gặp trong miệng niệu đạo thấp thể bìu, tầng sinh môn, hai bìu bị chẻ đôi
bởi dây xơ từ miệng niệu đạo làm hai nửa bìu bị tách ra hai bên.
1.3. TỶ LỆ VÀ BỆNH NGUYÊN
Tỷ lệ miệng niệu đạo thấp ước tính 3.2/1000 bé trai sinh sống, hay
xấp xỉ 1/300 trẻ em nam. Một khảo sát khác ở Mỹ cho thấy tỷ lệ cao hơn
của miệng niệu đạo thấp là 1/125 bé trai.
Khuynh hướng gia đình cũng được nghi nhận: 8% trẻ miệng niệu
đạo thấp có cha bị miệng niệu đạo thấp, 14% số anh em trai ruột có miệng
niệu đạo thấp, nếu 2 thành viên trong gia đình có miệng niệu đạo thấp
nguy cơ đứa bé bị miệng niệu đạo thấp là 21%.
Nguyên nhân miệng niệu đạo thấp vẫn chưa được biết, được cho là
đa gen do tỷ lệ mang tính gia đình cao.
Ngoài ra yếu tố môi trường và nội tiết cũng có liên quan. Các yếu tố
môi trường có thể giải thích cho việc dùng thuốc trừ sâu, estrogen hay là
các chất có bản chất estrogen và các chất có bản chất độc tố. Hơn nữa các
chất kháng androgen trong môi trường cũng đóng vai trò như thuốc kháng
nấm.
Nghiên cứu khác cũng cho thấy rằng thiếu các yếu tố phát triển
thượng bì da ở vùng bụng dương vật.
Khiếm khuyết về mạch máu cũng được ghi nhận khi người ta luôn
không tìm thấy động mạch nuôi niệu đạo đoạn xa trong miệng niệu đạo
thấp. Men (enzym) cũng có liên quan khi có báo cáo nhận thấy có sự thiếu
hụt trong sinh tổng hợp testosterone trong miệng niệu đạo thấp thể gần.
Thụ tinh trong ống nghiệm cũng gia tăng tỷ lệ miệng niệu đạo thấp.



7
1.5. PHÂN LOẠI GIẢI PHẪU MIỆNG NIỆU ĐẠO THẤP
Phân loại theo John Duckett và Laurence Baskin gồm 3 thể:
- Miệng niệu đạo thấp thể trước: Quy đầu và khấc quy đầu
- Miệng niệu đạo thấp thể giữa: Dương vật xa, dương vật giữa,
dương vật gần
- Miệng niệu đạo thấp thể sau: gốc dương vật – bìu, bìu, tầng sinh
môn
1.6. PHÂN ĐỘ CONG DƯƠNG VẬT
Phân độ cong theo Lindgren B.W, Eduard F Reda
- Cong dương vật nhẹ: < 300
- Cong dương vật nặng: ≥ 300
1.7. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.7.1. Ngoài nước
+ Phẫu thuật Devin và Horton (1975): Cắt bao trắng, mở rộng bao
trắng với mảnh ghép bì.
Kỹ thuật: Sau khi bóc tách da ra khỏi thân dương vật, cắt bỏ mô xơ
dọc hai bên niệu đạo, tạo cương nhân tạo dương vật kiểm tra độ cong. Nếu
cong nặng: cắt bao trắng vùng bụng dương vật ngay vị trí đỉnh cong. Lấy
mảnh ghép từ bẹn sau khi lấy bỏ lớp thượng bì. Ráp mảnh ghép vào bụng
dương vật.
+ Phẫu thuật Kropp (2002): Cắt bao trắng, mở rộng bao trắng với
mảnh ghép chất sinh học tổng hợp.
Kỹ thuật: Dựa theo kỹ thuật của Devin và Horton nhưng mảnh ghép
là chất liệu tổng hợp Surgisis Biotech 1 lớp hay Stratasis 4 lớp, được chiết
xuất từ lớp dưới niêm mạc ruột non của heo qua xử lý các tế bào chỉ còn
lại tổ chức sợi cứng dai, giữ lại các phân tử phức hợp như collagen
glycosaminoglycans (hyaluronic acid, chondroitin sulfate A và B, heparin

heparan sulfate), proteoglycans, glycoproteins (fibronectin) có vai trò quan
trọng trong việc cấy ghép và dung nạp vào cơ thể ghép.
+ Phẫu thuật Perlmutter (1985): Cắt bao trắng, mở rộng bao trắng
với tinh mạc.


8
Kỹ thuật: Sau khi bóc tách da ra khỏi thân dương vật, cắt bỏ mô xơ
dọc hai bên niệu đạo, tạo cương nhân tạo kiểm tra độ cong nếu cong nặng
cắt bao trắng vùng bụng dương vật ngay vị trí đỉnh cong. Phẫu tích bìu lấy
mảnh ghép từ tinh mạc bọc tinh hoàn. May mảnh ghép vào bụng dương
vật.
1.7.2. Trong nước
Nghiên cứu trong nước:
Năm 1984, Võ Đức Quê báo cáo "Nhận xét 80 trường hợp điều trị
lỗ đái lệch thấp từ 1971 – 1980 tại bệnh viện Việt Đức".
Năm 1996 Trần Ngọc Bích nghiên cứu “Đánh giá kết quả dùng vạt
da dày tự do trong phẫu thuật chữa lỗ đái lệch thấp”
Năm 1995, Lê Công Thắng báo cáo tại Hội nghị Ngoại Nhi lần 1
"Đánh giá kết quả điều trị 102 trường hợp lỗ tiểu thấp tại bệnh viện Nhi
Đồng 1".
Năm 1996, Vũ Lê Chuyên tổng kết "Điều trị lỗ tiểu đóng thấp bằng
phẫu thuật một thì".
Năm 1998 Nguyễn Thanh Liêm và Lê Anh Tuấn đã báo cáo "Kết
quả tạo hình niệu đạo bằng sử dụng vạt da lưng dương vật trục dọc có
cuống".
Năm 2000, Lê Công Thắng và Lê Tấn Sơn nghiên cứu "Điều trị lỗ
tiểu thấp một thì: kỹ thuật Duckett".
Năm 2011 tác giả Phạm Hoàng Tâm nghiên cứu về “ Kết quả điều
trị cong dương vật bẩm sinh bằng phẫu thuật khâu gấp bao trắng tại khoa

Nam Học bệnh viện Bình dân”
Năm 2012 tác giả Trịnh Hoàng Giang với công trình “ Kết quả
phẫu thuật 26 trường hợp cong dương vật bẩm sinh theo phương pháp
Yachia tại bệnh viện Việt Đức “
Nhìn chung các công trình nghiên cứu trên đây thiên về kỹ thuật tạo
hình miệng niệu đạo trong điều trị miệng niệu đạo thấp, chưa nói nhiều về
việc điều trị tật cong dương vật nặng.
Chưa có công trình nào của các tác giả trong nước ghi nhận, tường
trình cách thức phẫu thuật hay xử lý tật cong dương vật phối hợp trong
miệng niệu đạo thấp.


9
Từ thực tế trên đây, trong quá trình điều trị dị tật miệng niệu đạo
thấp, chúng tôi cũng ghi nhận sửa chũa tật cong là một thách thức cho các
phẫu thuật viên niệu nhi, mà sửa chữa tật cong luôn là mục tiêu hàng đầu
trong điều trị dị tật miệng niệu đạo thấp.

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
Mô tả dọc tiến cứu.
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Trẻ em được chẩn đoán miệng niệu đạo thấp có cong dương vật
nặng được điều trị tại bệnh viện Nhi Đồng 1.
2.2.3. Tiêu chí chọn mẫu
Định nghĩa cong dương vật nặng: sau khi bóc tách da dương vật, cắt sàn
niệu đạo, cắt bỏ mô xơ loạn sản vùng bụng dương vật. Làm tạo cương
nhân tạo dương vật vẫn còn cong > 300.
+ Tiêu chí nhận vào (theo phác đồ điều trị của BV Nhi Đồng 1)

Chỉ định: theo chỉ định của Lingdgren B. W và Edward Reda, sau
khi bóc bỏ mô xơ loạn sản bụng dương vật, tạo cương nhân tạo dương vật
vẫn còn cong > 300
- Tất cả bệnh nhân được chẩn đoán miệng niệu đạo thấp kèm cong
dương vật nặng được điều trị với mảnh ghép bì tại khoa Ngoại Tổng hợp
bệnh viện Nhi Đồng 1 Thành Phố Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 3
năm 2011 đến tháng 10 năm 2014.
- Có theo dõi sau phẫu thuật ít nhất 6 tháng.
- Được phẫu thuật bởi cùng ê kíp và cùng một phương pháp.
+ Tiêu chí loại trừ
- Những trường hợp miệng niệu đạo thấp đã phẫu thuật vùng bụng
dương vật trước đó.


10
- Bệnh nhân miệng niệu đạo thấp đã được phẫu thuật ở tuyến trước
chuyển đến, bệnh nhi không đến kiểm tra, không đủ hồ sơ nghiên cứu.
2.3. CỠ MẪU
Với thiết kế báo cáo hàng loạt ca kiểu mô tả dọc tiến cứu, chúng tôi
lấy toàn bộ mẫu trong thời gian nghiên cứu.
2.4. PHƯƠNG PHÁP CHỌN MẪU
Chọn mẫu toàn bộ. Lấy tất cả các trường hợp miệng niệu đạo thấp
có cong dương vật nặng nhập viện trong thời gian từ tháng 3/2011 đến
10/2014 có chỉ định mở rộng bao trắng với mảnh ghép bì tham gia vào
nghiên cứu.
2.5. PHƯƠNG PHÁP THU THẬP SỐ LIỆU
2.5.1. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 3/2011 đến 10/2014.
2.5.2. Địa điểm
Tại khoa Ngoại Tổng hợp bệnh viện Nhi Đồng 1.

2.5.3. Cách tiến hành
Bước 1: Chuẩn bị
Chia bệnh nhi thành 3 nhóm theo giai đoạn phát triển của trẻ em:
nhóm 1 từ 1-3 tuổi, nhóm 2 từ 4-6 tuổi, nhóm 3 từ 7-15
Bước 2: Tư vấn đồng thuận tham gia nghiên cứu
Bước 3: Thực hiện phẫu thuật tại phòng phẫu thuật
Mô tả kỹ thuật: Phẫu thuật theo 2 thì, thì 1 sửa tật cong dương vật
với mảnh ghép bì theo kỹ thuật của Devin và Horton. Thì 2 tạo hình niệu
đạo sau 6 tháng theo kỹ thuật cuốn ống tại chỗ (kỹ thuật Thiersch Duplay).
Bước 4: Chăm sóc sau phẫu thuật tại khoa Ngoại Tổng Hợp
Bước 5: Điều trị và ghi nhận biến chứng sau phẫu thuật:
Bước 6: Tạo hình niệu đạo sau 6 tháng
Bước 7. Điều trị và ghi nhận biến chứng sau phẫu thuật tạo hình niệu đạo:


11
Bước 8. Tái khám tại phòng khám
2.5.4. Xử trí các sai sót kỹ thuật, tai biến, biến chứng
2.5.5. Tiêu chuẩn đánh giá kết quả sau phẫu thuật
Theo Bruce W Lindgren và Ed Reda trong thời gian tái khám sau
phẫu thuật 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng,1 năm. Đánh giá qua hình thể
dương vật lúc tái khám:
- Tốt: dương vật thẳng trục, không xoay, bụng dương vật da mềm
mại không có sẹo xấu.
- Trung bình: dương vật cong > 100, sẹo xơ vừa phải vùng bụng
dương vật.
- Xấu: dương vật cong > 200, sẹo xơ co rút vùng bụng dương vật.
Tiêu chuẩn đánh giá kết quả sau phẫu thuật lần 2:
- Tốt: miệng niệu đạo ở đỉnh quy đầu, không rò.
- Trung bình: sẹo xấu.

- Xấu: rò niệu đạo, hẹp niệu đạo, bung toàn bộ niệu đạo
(dehiscence)
Tiêu chuẩn đánh giá kết quả lần 3: (chuyển vị dương vật bìu)
- Tốt: dương vật nằm đúng vị trí ở trên, bìu ở dưới, da thân dương
vật và bìu mềm mại.
-Trung bình: dương vật lệch vị trí xuống dưới ngang phần trên
bìu.
- Xấu: dương vật về lại vị trí cũ, sẹo xấu vùng gốc dương vật bìu

2.8. XỬ LÝ SỐ LIỆU
- Nhập số liệu và xử trí bằng phần mếm SPSS 16.0
- Mô tả đặc điểm chung bằng phép kiểm trung bình, tỷ lệ phần trăm,
độ lệch chuẩn.


12
- So sánh chiều dài, độ cong trước và sau phẫu thuật trong từng
nhóm bằng phép kiểm “Pair T test”.
- So sánh chiều dài, độ cong trước và sau phẫu thuật trong 3 nhóm
bằng phép kiểm “one – way ANOVA”.
- Ý nghĩa thống kê được xác định khi p < 0.05.

Chương 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. ĐẶC ĐIỂM NHÓM BỆNH NHI NGHIÊN CỨU
3.1.1. Tuổi
Trong số 44 trường hợp:
- Tuổi nhỏ nhất 1 tuổi
- Tuổi lớn nhất 14 tuổi
- Phân bố theo nhóm tuổi:
+ Nhóm 1 (1- 3 tuổi): 24 trường hợp (54,5%)

+ Nhóm 2 (từ 4- 6 tuổi): 13 trường hợp (29,5%)
+ Nhóm 3 (từ 7-15 tuổi): 7 trường hợp (15,9%)
- Nhóm 1 chiếm nhiều hơn nhóm 2 và nhóm 3
Tuổi trung bình 4,57 ± 3,372
3.1.3.1. Vị trí miệng niệu đạo
- Thể giữa 15 trường hợp (34,1%), trong đó 4 thể DV giữa, 11 thể
DV sau.
- Thể sau 29 trường hợp (65,9%), trong đó 9 thể DV bìu, 8 thể bìu,
2 thể tầng sinh môn
Thể sau có tỷ lệ cao gần gấp đôi so với thể giữa.
3.1.3.2. Liên quan chiều dài trung bình dương vật trước phẫu thuật
theo nhóm tuổi
- Chiều dài trung bình DV trước phẫu thuật của nhóm 1 là 2,37cm ±
0,229


13
- Chiều dài trung bình DV trước phẫu thuật của nhóm 2 là 3,68cm ±
0,134
- Chiều dài trung bình DV trước phẫu thuật của nhóm 3 là 4,48cm ±
0,338
- Chiều dài trung bình DV trước phẫu thuật là: 3,09 ± 0,87cm
Chiều dài trung bình của 3 nhóm trước phẫu thuật khác nhau (oneway anova, p=0,0001).
3.1.3.3. Độ cong trung bình dương vật trước phẫu thuật
- Độ cong > 300 đến 450 có 10 trường hợp (chiếm 22.7%)
- Độ cong > 450 đến 600 có 14 trường hợp (chiếm 31,8%)
- Độ cong > 600 đến 750 có 11 trường hợp (chiếm 25%)
- Độ cong > 750 đến 900 có 9 trường hợp (chiếm 20,5%)
Độ cong trong khoảng 450 đến 600 chiếm số lượng cao
Độ cong trung bình DV trước khi cắt sàn niệu đạo: 66,480 ± 15,97

3.2. QUY TRÌNH PHẪU THUẬT
3.2.1. Độ cong dương vật trung bình theo nhóm tuổi trước và sau cắt
sàn niệu đạo
- Độ cong trung bình của nhóm 1 trước khi cắt sàn niệu đạo là
58,120 ± 14,20 sau khi cắt sàn niệu đạo là 39,380 ± 3,060, khác biệt có ý
nghĩa thống kê (T-test, p=0,0001).
- Độ cong trung bình của nhóm 2 trước khi cắt sàn niệu đạo là
71,540 ± 10,870 sau khi cắt sàn niệu đạo là 50,770 ± 9,760, khác biệt có ý
nghĩa thống kê (T-test, p=0,0001).
- Độ cong trung bình của nhóm 3 trước khi cắt sàn niệu đạo là
85,710 ± 7,310 sau khi cắt sàn niệu đạo là 70.70 ± 7,070, khác biệt có ý
nghĩa thống kê (T-test, p=0,0001).
So sánh độ cong của dương vật ở 3 nhóm tuổi trước phẫu thuật cho
thấy nhóm tuổi càng lớn thì độ cong dương vật càng lớn (one-way
ANOVA, p=0,0001).


14
Độ cong dương vật giảm sau khi cắt sàn niệu đạo, độ cong giảm có
ý nghĩa ở nhóm tuổi nhỏ so với nhóm tuổi lớn (ANOVA đo lường lặp lại,
p=0,001)
3.2.2. Chiều dài trung bình DV sau phẫu thuật thì 1 theo nhóm tuổi
- Chiều dài trung bình DV sau phẫu thuật của nhóm 1 là 3,70 ± 0,27 cm
- Chiều dài trung bình DV sau phẫu thuật của nhóm 2 là 5,60 ± 0,19 cm
- Chiều dài trung bình DV sau phẫu thuật của nhóm 3 là 6,54 ± 0,19 cm
- Chiều dài dương vật trung bình sau ghép mảnh ghép bì là 4,71 ±1,19 cm
Chiều dài trung bình của 3 nhóm sau phẫu thuật khác nhau (oneway anova, p=0,0001).
3.2.3. Độ tăng chiều dài DV trước và sau phẫu thuật thì 1 theo nhóm
tuổi
- Chiều dài trung bình DV sau phẫu thuật của nhóm 1-3 tuổi là 3,70cm.

Chiều dài tăng 56%.
- Chiều dài trung bình DV sau phẫu thuật của nhóm 4-6 tuổi là 5,60cm.
Chiều dài tăng 52%.
- Chiều dài trung bình DV sau phẫu thuật của nhóm 7-15 tuổi là 6,54cm.
Chiều dài tăng 46%.
Chiều dài tăng trung bình tăng 51,33%.
Chiều dài trung bình của 3 nhóm tăng và khác nhau có ý nghĩa
(ANOVA đo lường lặp lại, p = 0,001).
3.2.5. Độ dài thêm trung bình DV và nhóm tuổi
Bảng 3.2. Liên quan giữa độ dài thêm DV và nhóm tuổi


15

Nhóm tuổi

Dài trung bình

SD (độ lệch
chuẩn)

Số ca

1-3

1,33 cm

0,271

24


4-6

1,923 cm

0,189

13

7-15

2,057 cm

0,193

7

Tổng cộng

1,62 cm

1,189

44

- Khác nhau về chiều dài DV trong các nhóm tuổi.
- Tuổi lớn chiều dài dài hơn sau phẫu thuật.
- Trị số chiều dài tăng dần theo nhóm tuổi.
Chiều dài trung bình của 3 nhóm tăng và khác nhau có ý nghĩa
(ANOVA đo lường lặp lại, p = 0,001).

3.3. KẾT QUẢ
3.3.1. Sửa chữa tật cong thì 1
Bảng 3.4. Tỷ lệ DV thẳng sau phẫu thuật
Độ cong dương vật

Trước phẫu
thuật

Sau phẫu thuật

Nhóm 1-3 tuổi

57,50 độ

DV thẳng /24 t.h

Nhóm 4-6 tuổi

71,54 độ

DV thẳng /13 t.h

Nhóm 7-15 tuổi

85,71 độ

DV thẳng /7 t.h

3.3.1.1. Biến chứng sớm
- Phù: 7 trường hợp, đa số có phù sau khi tháo băng rút thông xuất

viện, (chiếm tỷ lệ 16%) chủ yếu trong nhóm 2: 10 trường hợp, nhóm 3: 5
trường hợp.


16
- Chảy máu: 3 trường hợp (6,8%) trong đó đa số nằm trong nhóm
tuổi nhỏ 2 trường hợp trong nhóm 1-3 tuổi và 1 trong nhóm 4-7 tuổi.
- Nhiễm trùng nhẹ: 2 trường hợp với đỏ da vùng bụng dương vật
(4,5%).
- Nghẹt thông: 2 trường hợp (4,5%).
Tái khám sau xuất viện 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng và 1 năm.
Thời gian theo dõi trung bình 6 tháng đến 2 năm.
- Trục DV: dương vật thẳng trục, không xoay cả 44 trường hợp,
đánh giá qua tái khám nhiều lần và hỏi qua cha mẹ bệnh nhi.
- Sẹo da DV: Da dương vật mềm mại không co rút hay mô xơ bụng
dương vật, sàn niệu đạo mềm mại.
- Cong DV: không có trường hợp nào cong tái phát.
- Sẹo vùng bẹn: nơi lấy da ghép ở bẹn lành tốt không có sẹo lồi.
3.3.2.10. Kết quả tái khám sau phẫu thuật lần 2 (tạo hình niệu đạo)
Bảng 3.9. Tái khám sau phẫu thuật tạo hình niệu đạo
Tái khám

Phù

Trục DV thẳng

Da bụng DV tốt mềm mại

Lần 1


6

44 trường hợp

44 trường hợp

Lần 2

0

44 trường hợp

44 trường hợp

Lần 3

0

44 trường hợp

44 trường hợp

Tái khám sau phẫu thuật tạo hình niệu đạo 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng,
6 tháng và 1 năm. Sau xuất viện 1 tuần còn 6/44 trường hợp sưng nhẹ
vùng da lưng dương vật, dương vật thẳng trục không cong hay xoay. Da
vùng bụng dương vật không co rút trong cả 44 trường hợp.
Tái khám lần 2 sau 3 tháng da vùng bụng dương vật mịn màng, da
bụng niệu đạo tốt không có sẹo lồi hay co rút, không phát hiện nang bì
dưới da trong cả 44 trường hợp.
3.3.2.11. Kết quả sau phẫu thuật tạo hình niệu đạo:

Tỷ lệ biến chứng 18%


17
- Rò niệu đạo 4/44 trường hợp chiếm tỷ lệ 9%
- Tụt miệng niệu đạo 2 trường hợp chiếm tỷ lệ 4,5%
- Hẹp miệng niệu đạo 2/44 trường hợp chiếm tỷ lệ 4,5%
2 trường hợp hẹp miệng niệu đạo được xử trí nong niệu đạo. Sau đó
bệnh nhi tiểu tốt không biểu hiện hẹp.
3.3.2.14. Đánh giá chức năng cương
Để đánh giá chức năng này chúng tôi hỏi thăm phụ huynh bệnh nhi,
sau khi ngủ thức dậy vào buổi sáng lúc chưa đi tiểu dương vật có cương
cứng hay không thì nhận được trả lời từ cha hay mẹ bệnh nhi là dương vật
cương tự nhiên trong cả 44 trường hợp. Kiểm tra lại chức năng cương
trước khi phẫu thuật tạo hình niệu đạo thì 2 (sau 6 tháng) cho thấy dương
vật cương cứng và thẳng.
3.3.3. Kết quả phẫu thuật tật chuyển vị dương vật bìu:
Tám trường hợp chuyển vị dương vật bìu được phẫu thuật theo kỹ
thuật khuy áo (button hole). Sau phẫu thuật tạo hình niệu đạo thì 2, nếu có
tật chuyển vị chúng tôi phẫu thuật sau đó khoảng 4 tháng.Trong 8 trường
hợp này sau phẫu thuật kết quả tốt hình dáng dương vật và bìu hài hòa,
không có sẹo xấu.
3.3.5. Thời gian theo dõi trong nghiên cứu
Dài nhất 38 tháng, ngắn nhất 8 tháng
Tuy nhiên trong cả các trường hợp chúng tôi có liên lạc qua điện
thoại hẹn tái khám hay hỏi thăm tình hình sau phẫu thuật
Tái khám sau lần phẫu thuật thứ 1 44/44 trường hợp (100%)
Tái khám sau lần phẫu thuật thứ 2 44/44 trường hợp (100%) sau 1
tuần
Tái khám sau phẫu thuật lần thứ 2 một tháng 32/44 trường hợp, 21

trường hợp có tái khám sau 1 năm, 10 trường hợp tái khám sau 2 năm.
Số còn lại chúng tôi vẫn liên lạc được qua điện thoại, 3 trường hợp
mất liên lạc không rõ nguyên nhân. Tuy nhiên dương vật vẫn thẳng sau lần
phẫu thuật đầu và không rò ở 1 tuần sau lần tạo hình niệu đạo.
3.3.6. Tổng số lần phẫu thuật


18
Trong số 44 trường hợp miệng niệu đạo thấp có cong dương vật
nặng trải qua 44 lần phẫu thuật thì 1 sửa tật cong nặng với mảnh ghép bì,
44 lần tạo hình niệu đạo thì 2 sau 6 tháng, 4 trường hợp vá rò niệu đạo, 2
trường hợp phẫu thuật tụt miệng niệu đạo, 8 lần phẫu thuật chuyển vị
dương vật bìu. Tổng cộng 102 lần phẫu thuật.

Chương 4: BÀN LUẬN
4.1. PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM NHÓM BỆNH NHI NGHIÊN CỨU
4.1.1. Tuổi
Độ tuổi phẫu thuật trung bình trong nghiên cứu này 4,57 ± 3,372 tương
đối lớn hơn so với các tác giả khác. Điều này cho thấy có thể do đối tượng
nghiên cứu trong nghiên cứu này chỉ tập trung vào nhóm cong dương vật
nặng mà thôi
4.1.3.1. Vị trí miệng niệu đạo
Trong số 44 ca miệng niệu đạo thấp kèm theo cong dương vật
nặng chúng tôi ghi nhận không có thể trước, thể giữa 15 trường hợp trong
đó thể dương vật giữa 4 trường hợp, thể dương vật sau 11. Thể sau 29
trường hợp trong đó thể dương vật bìu 9 trường hợp, thể bìu 8, thể tầng
sinh môn 2. Sau khi cắt sàn niệu đạo và cắt bỏ mô xơ dọc 2 bên rãnh thể
xốp thoái hoá, miệng niệu đạo ban đầu có xu hướng giật lùi về sau bìu do
thân dương vật dài ra. Do vậy vị trí miệng niệu đạo sau khi được chữa tật
cong đều là thể sau (44 trường hợp).

Lê Tấn Sơn và cộng sự có 5 trường hợp thể tầng sinh môn, 20
trường hợp thể bìu, 22 trường hợp thể dương vật bìu.
Ghi nhận của Jame M trong 28 trường hợp miệng niệu đạo thấp có
cong dương vật nặng được mở rộng bao trắng với mảnh ghép chất sinh
học tổng hợp, trong đó 18 trường hợp thể dương vật bìu 5 trường hợp thể
bìu và 5 trường hợp thể tầng sinh môn.
Nhìn chung theo ghi nhận của chúng tôi cũng như các nghiên cứu
nước ngoài, trong tật miệng niệu đạo thấp có cong dương vật nặng, sau khi
sửa tật cong tất cả đều thuộc thể sau.
4.1.3.2. Chiều dài trung bình DV trước phẫu thuật
Chiều dài trung bình của DV trước phẫu thuật trong nghiên cứu này
ghi nhận như sau: nhóm 1: 2,37cm, nhóm 2: 3,68cm, nhóm 3: 4,48cm.


19
Chiều dài trung bình của 3 nhóm tuổi lúc chưa phẫu thuật đều ngắn
hơn nhiều so với chiều dài trung bình chuẩn theo tuổi.
Chiều dài dương vật ngắn tương đối do chiều dài bao trắng không
cân xứng giữa vùng bụng và lưng, hơn nữa dương vật em bé phát triển
theo tuổi mô xốp loạn sản bụng dương vật cùng với mô sợi tăng sinh phát
triển nhiều hơn,vì thế dương vật cong nhiều theo tuổi chiều dài sẽ ngắn lại.
Chính vì thế phương pháp phẫu thuật áp dụng cho các trường hợp miệng
niệu đạo thấp có cong dương vật nặng nên cân nhắc để đừng làm cho
dương vật bệnh nhân ngắn hơn dù chỉ là ngắn ít nhất như Alchiede
Simonato đã khuyến cáo.
Nhìn chung ghi nhận trong nghiên cứu của chúng tôi giống các tác
giả nước ngoài.
4.1.3.3. Độ cong dương vật
Do thân dương vật phát triển theo tuổi mà thể hang dương vật phát
triển không tương xứng với nhau, độ cong dương vật càng nhiều khi tuổi

càng lớn. Mặt khác mức độ cong dương vật cũng thay đổi theo lứa tuổi
phát triển, nhóm 1 có độ cong trung bình là 57,50, nhóm 2 là 71,540, nhóm
3 là 85,710. Sự thay đổi theo hướng tăng lên theo tuổi, theo Devin C J và
Horton C E cong dương vật nặng là do thiểu sản thể hang vùng bụng
dương vật. Điều này giải thích dương vật có xu hướng phát triển cong
nặng hơn khi em bé tuổi càng lớn. Lindgren B.W, E Reda nhận thấy trong
số 29 bệnh nhân được dùng mảnh ghép bì đều có dương vật cong hơn 300
sau khi làm tạo cương dương vật. Cheng EY, Kropp BP, Pope JC ghi
nhận, trong số 15 bệnh nhân được dùng mảnh ghép chất liệu sinh học đều
có độ cong dương vật hơn 400. Adam C Weiser và Israel Franco có 9 bệnh
nhi được dùng mảnh ghép chất liệu sinh học Surgisis Cook Biotech, sau
khi cắt sàn niệu đạo dương vật còn cong hơn 400. Rithchey ML và
Ribbeck M, Yutaro Hayasihi và Yoshiyuki Kojima sử dụng mảnh ghép là
mảnh tinh mạc cũng ghi nhận độ cong hơn 400 sau làm tạo cương dương
vật. Để tăng chiều dài dương vật tối đa John Pope chọn mốc 15-200 cho
việc mở rộng bao trắng.
Snodgrass cho rằng khi cong dương vật do bất cân xứng bao trắng
mặt bụng và lưng, cần thiết phải mở rộng bao trắng và Snodgrass chọn
mốc hơn 300 sau khi tạo cương dương vật.
Nhìn chung để áp dụng kỹ thuật mở rộng bao trắng để điều trị cong
dương vật nặng với mảnh ghép tự do, các tác giả đều có chỉ định khi


20
dương vật cong hơn 300, ngoại trừ John Pope triệt để hơn với chỉ định
cong hơn 150, chúng tôi chọn mốc 300 theo Bruce W Lindgren và E.F
Reda. để chỉ định cho việc mở rộng bao trắng với mảnh ghép bì, đặc biệt
là những trường hợp dương vật ngắn.
4.2. QUY TRÌNH PHẪU THUẬT
4.2.1 Liên quan giữa độ cong DV và nhóm tuổi trước và sau khi cắt

sàn niệu đạo
Độ cong trung bình của nhóm 1 trước khi cắt sàn niệu đạo là 58,120
sau khi cắt sàn niệu đạo là 39,380. Độ cong trung bình của nhóm 2 trước
khi cắt sàn niệu đạo là 71,540 sau khi cắt sàn niệu đạo là 50,770. Độ cong
trung bình của nhóm 3 trước khi cắt sàn niệu đạo là 85,710 sau khi cắt sàn
niệu đạo là 70,700. Độ cong của dương vật của nhóm 1 nhỏ hơn nhiều so
với nhóm 2 ngay cả trước và sau phẫu thuật. Do tuổi càng lớn thân dương
vật càng phát triển nhưng thể hang vùng bụng dương vật loạn sản kém
phát triển, cho nên thân dương vật càng cong nhiều hơn.
Trong điều trị miệng niệu đạo thấp, một số tác giả có quan điểm
đó là bảo vệ sàn niệu đạo vì giữ lại sàn niệu đạo sẽ đảm bảo kết quả lâu
dài cho phẫu thuật .
Tuy nhiên, theo John Pope trước tiên và trên hết, một dương vật
thẳng một cách thẩm mỹ nên là mục tiêu đầu tiên của phẫu thuật. Vì vậy
việc cắt sàn niệu đạo để đặt mảnh ghép hầu giúp cho dương vật dài và
thẳng hơn là có thể chấp nhận để đạt được mục tiêu này.
Trong nghiên cứu của chúng tôi chọn mốc dương vật cong hơn 30
độ cho chỉ định mở rộng bao trắng với mảnh ghép bì.
Như đã nêu trên trong nhóm tuổi 1-3 tuổi chúng tôi nhận thấy độ
cong trung bình dương vật cũng ít hơn nhóm 4-6 và 7-14 tuổi.
4.2.2. Liên quan chiều dài DV trước và sau phẫu thuật thì 1
Sau khi bóc tách da thân dương vật ra khỏi dương vật đồng thời
bóc tách mô loạn sản dọc 2 bên máng niệu đạo, dương vật còn cong nhiều
sàn niệu đạo được cắt ngang, thể xốp loạn sản bụng dương vật được cắt
bỏ. Do vậy khi bao trắng được cắt từ vị trí 3 giờ đến 9 giờ dương vật được
dài ra đáng kể. Để tăng chiều dài tới mức tối đa Castellan Miguel rạch bao
trắng hơn một nửa chu vi thân dương vật.


21

Do bất cân xứng của bao trắng vùng bụng và vùng lưng thân
dương vật, nghĩa là chiều dài bao trắng vùng bụng luôn ngắn hơn vùng
lưng, động tác cắt ngang bao trắng vùng bụng để tăng thêm chiều dài với
mảnh ghép, dương vật dài ra thêm đáng kể.
Can thiệp vào bụng dương vật theo nguyên tắc "làm dài bên ngắn
chứ không làm ngắn bên dài", do đó chiều dài thân dương vật tương đối
dài thêm.
Theo ghi nhận của chúng tôi chiều dài trung bình sau phẫu thuật
của nhóm 1 là 3,7 cm, nhóm 2 là 5,6 cm, nhóm 3 là 6,54 cm.
Chiều dài trung bình dương vật trước phẫu thuật 3,09 ± 0,87 cm
Chiều dài trung bình dương vật sau phẫu thuật 4,7 ± 1,19 cm
Tỷ lệ tăng chiều dài dương vật trung bình 51,33%.
Về sử dụng mảnh ghép bì, Hesham Badawy chọn vùng bẹn trong
số 16 bệnh nhân, kích thước trung bình mảnh ghép là 3x2cm, tuy nhiên
diện tích mảnh ghép có kích thước lớn hơn 20-30% vị trí khuyết của bao
trắng.
Trước khi khâu mảnh ghép Hesham Badawy khâu 2 mép cân
dartos ở 2 bên lên trên để tránh tổn thương các thần kinh lưng dương vật.
James M. Elmore sử dụng mảnh ghép nhân tạo trong điều trị tật
cong dương vật nặng, với kích thước mảnh ghép 1 lớp có diện tích lớn hơn
20% để phòng ngừa co rút mảnh ghép.
Horton C E lấy mảnh ghép ở vùng bẹn và diện tích mảnh ghép
trung bình 3x2 cm trong 24 trường hợp. Tác giả cho rằng sau khi ghép
mảnh ghép bì thời gian hậu phẫu rất quan trọng, nhất là khoảng 48-72 giờ
đầu tiên sau phẫu thuật để thiết lập nên vòng tuần hoàn mới. Đây là thời
điểm quan trọng của sự gắn kết của mảnh ghép và sự thâm nhập của mảnh
ghép để hòa nhập vào mô cơ thể. Vì thế trong thời gian 2 ngày đầu bệnh
nhi nằm nghỉ ngơi tại giường tránh vận động mạnh và giới hạn vận động
trong 2 ngày kế tiếp để ngừa mảnh ghép xê dịch khỏi vị trí ghép.
Nhận thấy diện tích mảnh ghép tăng theo nhóm tuổi, việc lấy

mảnh ghép chúng tôi làm theo tác giả E Reda trực tiếp hướng dẫn lấy diện
tích giống như diện tích chỗ khuyết của bao trắng, Hendren W Hardy
khuyên nếu sau khâu mảnh ghép vị trí dư thừa có thể khâu vài mũi khâu
xếp nếp lên mảnh ghép bì.


22
Chúng tôi không lấy mảnh ghép dư hơn vị trí khuyết của bao
trắng, quan sát thấy sau khi may mảnh ghép vào bao trắng và mở dây ga rô
dương vật, máu trong thể hang đầy và căng phồng mảnh ghép. Trong hàng
loạt các trường hợp chúng tôi không thấy vấn đề trở ngại trong việc lấy
mảnh ghép bì đúng diện tích chỗ khuyết bao trắng. Trong khoảng thời gian
48-72 giờ đầu chúng tôi cũng khuyến cáo với cha mẹ em bé vấn đề dinh
dưỡng ăn uống có chất xơ rau quả tránh táo bón, nghỉ ngơi tại giường. Do
vậy chúng tôi không ghi nhận vấn đề bất thường của mảnh ghép.
Trong nghiên cứu chúng tôi ghi nhận diện tích mảnh ghép như
sau: Diện tích mảnh ghép trung bình nhóm 1 là 1,5cm2, diện tích mảnh
ghép trung bình nhóm 2 là 2,45cm2, diện tích mảnh ghép trung bình nhóm
3 là 3,3cm2. Diện tích trung bình của mảnh ghép trong nghiên cứu là
2,072cm2, diện tích này có nhỏ hơn các nghiên cứu của các tác giả trên.
4.2.5. Ưu điểm của phương pháp mảnh ghép bì:
Mảnh ghép bì (dermal graft): Về mặt mô học mảnh ghép bì gần
giống với bao trắng dương vật, mô tăng sinh sợi chiếm ưu thế với 90%
chất gắn kết ngoại bào với collagen và 10% là elastine, nhiều sợi mô liên
kết, dai chắc và đàn hồi. Do có các đặc tính trên nên mảnh ghép bì được
các nhà niệu khoa áp dụng trong các phẫu thuật niệu dục.
Ưu điểm của phương pháp mở rộng bao trắng với mảnh ghép bì:
+ Không làm ngắn dương vật
+ Kỹ thuật lấy mảnh ghép bì không quá khó khăn
+ Không đòi hỏi trang thiết bị kỹ thuật tinh vi

+ Mô ghép của chính cơ thể.
+ Vị trí lấy mảnh ghép dễ dàng: có thể là bẹn hay hạ vị.
+ Do lấy da ghép vùng bẹn nên đạt yếu tố thẩm mỹ, không để lại
sẹo xấu phơi bày.
+ Theo dõi lâu dài không có biến chứng liên quan đến mảnh ghép
bì.
Nhược điểm duy nhất của phương pháp dùng mảnh ghép bì: là tốn
nhiều thời gian cho việc lấy mảnh ghép.


23
Đây cũng là nhược điểm chính của phương pháp dùng mảnh ghép
bì, mà nhiều tác giả khác đã sử dụng mảnh ghép sinh học để thay thế mảnh
bì trong việc ghép mở rộng bao trắng.
4.3. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ PHẪU THUẬT
4.3.1.2. Kết quả phẫu thuật thì 1
Dương vật thẳng trục cả 44 trường hợp, đánh giá qua tái khám và
hỏi qua thân nhân bệnh nhi. Da bụng dương vật mềm nại không co rút.
Dương vật không xoay. Sẹo vùng bẹn lấy da ghép lành tốt.
Hendren W. Hardy và M Keating ghi nhận 28 trường hợp được
điều trị với mảnh ghép bì trong thời gian 1979 – 1987 không ghi nhận
cong tái phát hay biến chứng liên quan đến mảnh ghép như mọc lông hay
hình thành nang bì. Ghi nhận của Lindgren BW và E Reda trong báo cáo
năm 1998 trong số 38 bệnh nhân được điều trị, 29 trường hợp sử dụng với
1 mảnh ghép bì, 9 trường hợp còn lại sau khi dùng 1 mảnh ghép bì, dương
vật còn cong nhẹ nên được khâu thêm bao trắng vùng lưng.
Để góp phần tăng tỷ lệ thành công của phẫu thuật như dương vật
thẳng, sàn niệu đạo mềm mại… chúng tôi có chú ý một số động tác trong
phẫu thuật và chăm sóc sau phẫu thuật:
- Tiến hành phẫu thuật bóc tách nhẹ nhàng, tránh làm bầm dập mô.

- Cầm máu kỹ sau khi phẫu tích mô xốp loạn sản dọc hai bên niệu đạo.
- Sau khi tháo ga rô nếu vị trí đường khâu mảnh ghép có rỉ máu, khâu
tăng cường mũi rời Vicryl 7.0.
- Khi chuyển vạt da tạo sàn niệu đạo ở bụng dương vật nên xén mép sắc
gọn, khâu kiểu trong da với chỉ Vicryl 7.0.
- Những trường hợp phẫu tích rộng niệu đạo vùng bìu và cắt mô xơ
loạn sản rộng, chúng tôi đặt thêm lam cao su dẫn lưu ở bìu .
- Tránh các biến chứng hậu phẫu như nhiễm trùng chảy máu và tụ máu.
- Nên làm ướt băng với nước muối sinh lý trước khi thay băng, tháo
băng nhẹ nhàng tránh làm bong tróc đường chỉ khâu.
Nghiên cứu của chúng tôi thời gian theo dõi trung bình 6 tháng
đến 2 năm.


24
Nhìn chung kết quả phẫu thuật thì 1 về hình dáng và trục dương
vật sau phẫu thuật mở rộng bao trắng với mảnh ghép bì, kết quả của chúng
tôi không khác với các kết quả của nước ngoài.
4.3.2. Kết quả phẫu thuật tạo hình niệu đạo (thì 2)
Trong số 44 trường hợp được tạo hình niệu đạo sau 6 tháng phẫu
thuật lần đầu, áp dụng kỹ thuật Thiersch-Duplay cho tất cả các trường hợp.
Để tăng cường độ bền vững của niệu đạo tân tạo chúng tôi bóc tách
rộng 2 bên da thân dương vật và tạo ra 2 vạt cân dartos để che phủ lên niệu
đạo tân tạo, vừa có tác dụng làm giảm tỷ lệ rò niệu đạo và bền vững thêm
niệu đạo mới này vốn không có thể xốp che chở.
Castellan Miguel củng có 4 trường hợp che phủ niệu đạo với mảnh
tinh mạc, Lê Tấn Sơn và cộng sự trong nghiên cứu 47 trường hợp phẫu
thuật miệng niệu đạo thấp thể nặng có 28 trường hợp che phủ niệu đạo
mới thì 2 với cân dartos và mảnh tinh mạc.
Trong nghiên cứu của chúng tôi tất cả niệu đạo mới đều được che

phủ với cân dartos, 36 trường hợp từ thân dương vật và 8 từ bìu.
Lê Tấn Sơn với 28 trường hợp trong số 47 trường hợp được dẫn lưu
lam cao su hay cổ găng tay phẫu thuật từ vùng bìu được.
Trong nghiên cứu của chúng tôi 17/44 trường hợp được dẫn lưu lam
cao su chiếm tỷ lệ 38,6%.
Thông niệu đạo chúng tôi rút sau 9 - 10 ngày, do miệng niệu đạo
trong miệng niệu đạo thấp thì 2 thường ở gốc dương vật hay bìu.
Kết quả tạo hình niệu đạo, tỷ lệ biến chứng 18% trong đó:
- Rò niệu đạo 4/44 trường hợp chiếm tỷ lệ 9%
- Tụt miệng niệu đạo 2/44 trường hợp chiếm tỷ lệ 4,5%
- Hẹp miệng niệu đạo 2/44 trường hợp chiếm tỷ lệ 4,5%
Trong số 2 trường hợp hẹp miệng niệu đạo được xử trí nong niệu
đạo tại phòng tiểu phẫu với cây nong niệu đạo và gel Lidocain 3 lần. Sau
đó bệnh nhi tiểu tốt không biểu hiện hẹp.
Charles Horton trong số 24 trường hợp có 3 ca rò niệu đạo và 1 ca
hẹp miệng niệu đạo, tỷ lệ biến chứng là 16,6%.


25
Kết quả điều trị tạo hình niệu đạo của nghiên cứu cũng không khác
với các tác giả nước ngoài nhiều.
4.3.3. Phẫu thuật chuyển vị dương vật bìu:
Trong 8 trưởng hợp chúng tôi phẫu thuật theo kỹ thuật khuy áo
theo kỹ thuật của Mark Franco và Edward Reda sau cùng khi đã tạo hình
niệu đạo. Chúng tôi chọn kỹ thuật khuy áo vì tính thẩm mỹ và hiệu quả
của nó. Chỉ có 1 đường sẹo che dấu ở gốc dương vật bìu, phẫu thuật sửa
chữa tật chuyển vị được thực hiện sau cùng sau khi chất liệu là mô da và
niêm mạc được ưu tiên cho niệu đạo tân tạo.

KẾT LUẬN

Qua nghiên cứu 44 trường hợp điều trị miệng niệu đạo thấp thể
cong dương vật nặng với mảnh ghép bì tại khoa Ngoại Bệnh Viện Nhi
Đồng 1 từ tháng 3 năm 2011 đến tháng 10 năm 2014, các kết quả được ghi
nhận như sau:
1. Đặc điểm nhóm bệnh trong nghiên cứu
+ Độ tuổi phẫu thuật trung bình trong nghiên cứu này 4,57 ± 3,372
+ Vị trí miệng niệu đạo hay gặp là thể giữa và thể sau, thể sau chiếm
tỷ lệ 65,9% so với thể giữa 34,1%.
+ Độ cong dương vật tăng theo nhóm tuổi, nhóm 1 có độ cong trung
bình 58,120, nhóm 2 có độ cong trung bình 71,540, nhóm 3 có độ cong
trung bình 85,710.
+ Do cong dương vật nặng nên chiều dài dương vật tương đối ngắn.
Nhóm 1 có chiều dài trung bình 2,37 cm, nhóm 2: 3,68 cm, nhóm 3: 4,48
cm.
2. Ứng dụng quy trình phẫu thuật điều trị miệng niệu đạo thấp thể
cong dương vật nặng bằng mãnh ghép bì, đánh giá ưu nhược điểm
của mảnh ghép bì
Dị tật miệng niệu đạo đóng thấp thể cong dương vật nặng được
điều trị theo 2 thì phẫu thuật . Thì 1 sửa tật cong với mảnh ghép bì, tạo
hình niệu đạo thì 2 sau 6 tháng. Nếu có tật chuyển vị dương vật bìu phối
hợp, sẽ được phẫu thuật sau 3 – 4 tháng theo kỹ thuật khuy áo.


×