Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tìm hiểu về Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố trực thuộc TW

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.49 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
Phần 1: Mô hình thành phần chính phủ điện tử cấp tỉnh....................................5
1.
2.

Mục tiêu của mô hình thành phần....................................................................5
Mô hình thành phần.........................................................................................5

Phần 2: Thực trạng tại Việt Nam............................................................................9
1.
2.
3.
4.

Thực trạng CPĐT.............................................................................................9
Một số dịch vụ hành chính công qua website của chính phủ.........................12
Nguồn nhân lực cho việc triển khai CPĐT....................................................14
Nhận thức của người dân...............................................................................15

Phần 3: Ưu – nhược điểm của CPĐT...................................................................16
1.
2.

Ưu điểm.........................................................................................................16
Nhược điểm....................................................................................................17

Phần 4: Giải pháp đẩy mạnh.................................................................................18
KẾT LUẬN.............................................................................................................19


Danh sách thành viên và phân công công việc.........................................................20


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

MỞ ĐẦU
Vào những năm 1995 - 2000 chính phủ điện tử đã được các nước tiếp thu và
ứng dụng rộng rãi, thúc đẩy phát triển và ngày càng được các nước coi như một
giải pháp hữu hiệu để tăng hiệu quả làm việc của các cơ quan chính phủ, phục vụ
người dân và doanh nghiệp tốt hơn. Cho đến nay chính phủ điện tử vẫn tiếp tục
được các nước thúc đẩy phát triển mạnh mẽ, ngày càng sâu rộng hơn, các nước đã
coi phát triển chính phủ điện tử là bắt buộc.
Ngày nay, với sự bùng nổ của các phương tiện di động, băng thông rộng,
công nghệ,… nên nhiều nước đã đẩy mạnh phát triển chính phủ điện tử đa dạng
hơn, liên thông hơn dưới khái niệm chính phủ di động, chính phủ ở mọi lúc, mọi
nơi và trên mọi phương tiện.
Đã có rất nhiều tổ chức và chính phủ đưa ra định nghĩa “Chính phủ điện tử”.
Tuy nhiên, hiện không có một định nghĩa thống nhất về chính phủ điện tử, hay nói
cách khác, hiện không có một hình thức chính phủ điện tử được áp dụng giống
nhau cho các nước. Các tổ chức khác nhau đưa ra những định nghĩa về Chính phủ
điện tử của riêng mình.
Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới: “Chính phủ điện tử là việc các cơ
quan của chính phủ sử dụng một cách có hệ thống Công nghệ thông tin - truyền
thông để thực hiện quan hệ với công dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội. Nhờ
đó giao dịch của các cơ quan chính phủ với công dân và các tổ chức sẽ được cải
thiện, nâng cao chất lượng. Lợi ích thu được sẽ là giảm thiểu tham nhũng, tăng
cường tính công khai, sự tiện lợi, góp phần vào sự tăng trưởng và giảm chi phí”.
Theo định nghĩa của Liên hiệp quốc (UN): “Chính phủ điện tử được định
nghĩa như là việc sử dụng Internet để truyền tải cũng như cung cấp thông tin và
dịch vụ của chính phủ tới người dân và doanh nghiệp”.

Hoặc chi tiết hơn: Chính phủ điện tử là việc các cơ quan chính phủ sử dụng
công nghệ thông tin (như máy tính, các mạng diện rộng, Internet, và sử dụng công
nghệ di động) có khả năng biến đổi những quan hệ với người dân, các doanh
nghiệp, và các tổ chức khác của Chính phủ (làm việc và trao đổi qua mạng không
cần đến trực tiếp công sở). Những công nghệ đó có thể phục vụ những mục đích
khác nhau: cung cấp dịch vụ chính phủ đến người dân tốt hơn, cải thiện những
tương tác giữa chính phủ với doanh nghiệp, tăng quyền cho người dân thông qua
truy nhập đến thông tin, hoặc quản lý của chính phủ hiệu quả hơn.

2


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

Lợi ích của Chính phủ điện tử
Chính phủ điện tử là chính phủ đảm bảo được cung cấp đầy đủ thông tin cần
thiết và đúng lúc cho việc ra quyết định. Chính phủ điện tử lý tưởng là một chính
phủ cung cấp đầy đủ thông tin, đúng thời điểm cho những người quyết định, đó là
lợi thế lớn nhất của công nghệ thông tin (CNTT).
Chính phủ điện tử sử dụng CNTT để tự động hoá các thủ tục hành chính của
Chính phủ, áp dụng CNTT vào các quy trình quản lý, hoạt động của Chính phủ. Do
đó, tốc độ xử lý các thủ tục hành chính nhanh hơn rất nhiều lần.
Chính phủ điện tử cho phép công dân có thể truy cập tới các thủ tục hành
chính là thông qua phương tiện điện tử, ví dụ như: Internet, điện thoại di động,
truyền hình tương tác.
Chính phủ điện tử giúp cho các doanh nghiệp làm việc với Chính phủ một
cách dễ dàng bởi mọi thủ tục đều được hiểu, hướng dẫn và mỗi bước công việc đều
được đảm bảo thực hiện tốt, tin cậy. Mọi thông tin kinh tế mà Chính phủ có, đều
được cung cấp đầy đủ cho các doanh nghiệp để hoạt động hiệu quả hơn.
Đối với công chức:

CNTT dùng trong CPĐT là một công cụ giúp họ hoạt động hiệu quả hơn, có
khả năng dáp ứng nhu cầu của công chúng về thông tin truy cập và xử lý chúng.
Đối với người dân và doanh nghiệp:
Giảm thiểu thời gian cho công dân, doanh nghiệp và người lao động khi truy
nhập và sử dụng dịch vụ của chính phủ và do đó giảm thiếu chi phí của nhân dân.
Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng vào các hoạt động của chính phủ.
Đối với Chính phủ:
Giảm “nạn giấy tờ” văn phòng - công sở, tiết kiệm thời gian, hợp lý hoá việc
vận hành công việc, cho phép các cơ quan Chính phủ cung cấp các dịch vụ chất
lượng cao hơn và giảm ngân sách chi tiêu của Chính phủ

3


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

PHẦN 1
MÔ HÌNH THÀNH PHẦN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ CẤP TỈNH
Chính phủ điện tử của tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương được hiểu là
chính quyền điện tử cấp tỉnh.
1. Mục tiêu của mô hình thành phần
- Tạo một mô hình thống nhất mang tính định hướng cho các tỉnh phát triển
chính quyền điện tử;
- Đảm bảo linh hoạt và khả năng đáp ứng đối với các thay đổi;
- Hỗ trợ xác định mức độ trưởng thành về chính quyền điện tử cấp tỉnh;
- Hỗ trợ việc lập kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng thông tin, ứng dụng công
nghệ thông tin, và dịch vụ công trực tuyến;
- Nâng cao khả năng tái sử dụng thay vì xây dựng mới từ đầu;
- Hỗ trợ việc lựa chọn các giải pháp công nghệ phù hợp với yêu cầu nghiệp
vụ, mức độ sẵn sàng về tài chính và nhân lực, xu thế phát triển của công nghệ.

2. Mô hình thành phần
Các thành phần chính của mô hình thành phần được kết nối với nhau theo
mô hình ở Hình 1:

Hình 1: Khái quát Mô hình thành phần của Chính quyền điện tử cấp tỉnh

4


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

Chi tiết các thành phần:
1) Người sử dụng: Là những người sử dụng các dịch vụ do các cơ quan
chính phủ cung cấp bao gồm người dân; các doanh nghiệp; các cán bộ công chức,
viên chức nhà nước.
2) Kênh truy cập: Là các hình thức, phương tiện qua đó người sử dụng truy
cập thông tin, dịch vụ mà chính phủ điện tử cung cấp. Các hình thức này bao gồm
và không giới hạn bởi các trang thông tin điện tử/cổng thông tin điện tử
(website/portal), thư điện tử (email), điện thoại (cố định hoặc di động), máy Fax,
hoặc có thể đến trực tiếp gặp các cơ quan chính phủ. Trong đó:
- Trang thông tin điện tử là trang thông tin hoặc một tập hợp trang thông tin
trên môi trường mạng phục vụ cho việc cung cấp, trao đổi thông tin.
- Cổng thông tin điện tử là điểm truy cập duy nhất của cơ quan trên môi
trường mạng, liên kết, tích hợp các kênh thông tin, các dịch vụ và các ứng dụng mà
qua đó người dùng có thể khai thác, sử dụng và cá nhân hóa việc hiển thị thông tin
3) Giao diện với người sử dụng:
Thành phần đảm bảo việc lấy người sử dụng làm trung tâm trong cung cấp
dịch vụ. Thành phần này cung cấp các khả năng liên quan trực tiếp đến quản lý
người sử dụng dịch vụ (cả bên ngoài lẫn bên trong), các nghiệp vụ tương tác với
người sử dụng dịch vụ, nằm ở phía ngoài của một nghiệp vụ và là giao diện với

nhiều đối tượng sử dụng dịch vụ. Ngoài ra, thành phần này còn đảm bảo sự nhất
quán về việc truy cập sử dụng dịch vụ, ứng dụng của người sử dụng dịch vụ trên
các kênh truy cập khác nhau. Đây là thành phần đảm bảo sự trong suốt của người
sử dụng trong việc sử dụng đa kênh truy cập.
4) Các dịch vụ công trực tuyến, các ứng dụng nghiệp vụ:
Đây là thành phần cơ bản trong mô hình thành phần của chính quyền điện tử.
Thành phần này bao gồm các dịch vụ công trực tuyến mà chính phủ điện tử cung
cấp cho người dân, doanh nghiệp thể hiện trong mối quan hệ tương tác giữa các cơ
quan chính phủ và người dân (G2C), và giữa các cơ quan chính phủ và các doanh
nghiệp (G2B) đã nói ở trên. Trong đó,
- Dịch vụ hành chính công là những dịch vụ liên quan đến hoạt động thực thi
pháp luật, không nhằm mục tiêu lợi nhuận, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp
cho tổ chức, cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh
vực mà cơ quan nhà nước đó quản lý.
Mỗi dịch vụ hành chính công gắn liền với một thủ tục hành chính để giải
quyết hoàn chỉnh một công việc cụ thể liên quan đến tổ chức, cá nhân.
5


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

- Dịch vụ công trực tuyến là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ khác
của cơ quan nhà nước được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi trường
mạng. (Nghị định số 43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ).
- Ứng dụng nghiệp vụ: Là các ứng dụng phục vụ tác nghiệp các nghiệp vụ
của các cán bộ công chức, viên chức trong cơ quan chính phủ, bao gồm: Các ứng
dụng bên trong (Quản lý tài chính, Quản lý nhân sự, Quản lý tài nguyên số…), Các
ứng dụng liên cơ quan (Quản lý văn bản và điều hành,..), Các ứng dụng cho cán bộ
(Đào tạo từ xa, Cung cấp thông tin phục vụ cán bộ, công chức, viên chức,…)
5) Lớp tích hợp:

Là thành phần cung cấp khả năng tích hợp các ứng dụng và dịch vụ nói
chung, nhằm tạo ra các dịch vụ tích hợp nhưng không phá vỡ cấu trúc, gián đoạn
hoạt động của các ứng dụng/dịch vụ đang hoạt động. Thành phần này tạo cơ sở cho
nhiều ứng dụng/dịch vụ khác nhau có thể giao tiếp với nhau một cách thông suốt
trong một môi trường không thuần nhất về nền tảng phát triển các ứng dụng và dịch
vụ, từ đó, hướng đến cung cấp các dịch vụ chất lượng cao theo cơ chế liên thông.
Thành phần này còn cung cấp khả năng cho phép các hệ thống ứng dụng mới truy
nhập vào các hệ thống ứng dụng có sẵn, nhằm tận dụng tối đa các nguồn lực đã đầu
tư vào các hệ thống và nền tảng có sẵn.
6) Các dịch vụ dùng chung:
Đây là các dịch vụ được sử dụng chung cho nhiều cơ quan chính phủ trong
tỉnh, hỗ trợ các ứng dụng nghiệp vụ và dịch vụ công trực tuyến. Đây là một thành
phần quan trọng của mô hình, việc triển khai thành công các dịch vụ dùng chung sẽ
góp phần đáng kể đảm bảo tránh lãng phí, đầu tư trùng lặp, nâng cao khả năng kết
nối của các hệ thống khi sử dụng chung các dịch vụ cơ bản.
7) Cơ sở dữ liệu:
Cơ sở dữ liệu là tập hợp các dữ liệu được sắp xếp, tổ chức để truy cập, khai
thác, quản lý và cập nhật thông tin qua phương tiện điện tử. CSDL bao gồm các cơ
sở dữ liệu (cũ và mới), các CSDL này không tồn tại độc lập mà phục vụ cho các
chương trình ứng dụng như các dịch vụ công trực tuyến, các ứng dụng nghiệp vụ.
8) Cơ sở hạ tầng
Thành phần cung cấp hạ tầng, phương tiện, nền tảng phục vụ cho người sử
dụng và các ứng dụng, cụ thể bao gồm:
- Trang thiết bị người dùng cuối: Bao gồm máy tính cá nhân, máy tính xách
tay, các thiết bị hỗ trợ cá nhân phục vụ công việc của các cán bộ, các trang thiết bị
phục vụ việc truy cập thông tin, sử dụng dịch vụ của người dân và doanh nghiệp.
6


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố


- Hệ thống mạng: Thành phần then chốt nhằm đáp ứng yêu cầu hạ tầng kết
nối các dịch vụ nền và các ứng dụng, dịch vụ, nhằm đáp ứng mục tiêu sẵn sàng
phục vụ nhu cầu truyền nhận dữ liệu và khai thác thông tin của các cơ quan nhà
nước. Cơ sở hạ tầng mạng đối với một địa phương đó là sự kết hợp của mạng diện
rộng WAN, mạng thành phố/đô thị MAN, mạng cục bộ LAN, mạng riêng ảo
(VPN), mạng Internet.
- Nền tảng, máy chủ: Bao gồm nền tảng là các hệ điều hành, các máy chủ
khác nhau trong các hệ thống thông tin.
- Tưởng lửa: Trang thiết bị phần cứng/phần mềm nhằm giới hạn sự truy cập
giữa các mạng và/hoặc các hệ thống theo một chính sách về an toàn bảo mật cụ thể.
9) Phần quản lý, các nội dung hỗ trợ tất cả các thành phần trên:
Thành phần này bao gồm các yếu tố phục vụ chung, hỗ trợ, tác động, duy trì
tất cả thành phần ở trên. Thành phần này bao gồm: Chính sách về An toàn bảo mật
thông tin, Tiêu chuẩn kỹ thuật, Quy định, quy chế, Tổ chức và điều hành, Truyền
thông và Đào tạo.
Chi tiết về các thành phần trong mô hình thành phần chính quyền điện tử
được thể hiện ở hình sau (Hình 2), Mô hình này được xây dựng dựa trên mô hình
của Gartner.

7


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

Hình 2: Mô hình thành phần chi tiết của Chính quyền điện tử cấp tỉnh

PHẦN 2
THỰC TRẠNG TẠI VIỆT NAM
Nhà nước ta rất quan tâm tới việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin

trong hoạt động quản lý nhà nước. Có nhiều văn bản pháp quy về các hoạt động
trong lĩnh vực này như Luật Giao dịch Điện tử, Nghị định số 43/2011/NĐ-CP, nghị
định số 14/2013/NĐ-CP,… Năm 2000 Thủ tướng chính phủ đã kí vào hiệp định
khung ASEAN điện tử, cam kết triển khai chính phủ điện tử tại Việt Nam theo các
lộ trình của ASEAN.
1. Thực trạng chính phủ điện tử
Hiện này, mô hình chính phủ điện tử đang được xây dựng rộng khắp trên cả
nước. Nhiều cơ quan nhà nước ở các thành phố, các tỉnh đã có website và cổng
thông tin điện tử để giao tiếp với người dân. Có thể kể đến một số tỉnh thành phố
như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Huế, Đà Nẵng,…
Triển khai chính phủ điện tử tại Hà Nội:

8


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

Được tổ chức lần đầu vào năm 2003, trải qua 13 năm triển khai thì Hội thảo Triển lãm Quốc gia về Chính phủ điện tử 2016 dưới sự chủ trì của Ủy ban Nhân
dân thành phố Hà Nội, Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội phối hợp cùng Tập
đoàn Dữ liệu Quốc tế IDG Việt Nam đã trở thành diễn đàn quốc gia lớn và uy tín
nhất tại Việt Nam về những dự án cải cách Chính phủ điện tử cũng như thảo luận
xây dựng các giải pháp nhằm đảm bảo Chính phủ điện tử sẽ phát triển một cách
hiệu quả và toàn diện nhất.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của bộ máy nhà
nước là nhiệm vụ cấp thiết cho sự phát triển của Chính phủ điện tử trong bối cảnh
hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, lộ trình ứng dụng CNTT trong phát triển Chính phủ tại
Hà Nội cũng như các tỉnh, thành phố khác hiện đang gặp phải nhiều khó khăn thách
thức như hạ tầng CNTT còn hạn chế khiến việc ứng dụng CNTT còn chậm, chưa
đáp ứng được nhu cầu của người dùng dẫn đến chỉ số phát triển CNTT-TT (ICT
Development Index) năm 2015 của Việt Nam chỉ xếp thứ 102/167, tụt 8 bậc so với

năm 2014 (Theo khảo sát của Liên hiệp Viễn thông Quốc tế năm 2015). Hơn 10
năm qua, Chính phủ Việt Nam đã xác định CNTT-TT đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế quốc gia và là một trong những động lực thúc đẩy sự phát triển Kinh tế
- Xã hội của đất nước.
Lộ trình triển khai phát triển dịch vụ công thông minh đã có những bước tiến
trong nửa đầu năm 2014, điển hình là việc Công an thành phố Hà Nội đã bắt đầu
triển khai thử nghiệm hệ thống cấp hộ chiếu trực tuyến từ tháng 03/2014. Theo
thống kê, tỉ lệ hồ sơ đăng ký đã tăng từ 30% trong tháng đầu tiên lên đến gần 70%
trong tháng 6/2014.
Cùng với phát triển Chính phủ điện tử thì xây dựng thành phố thông minh
cũng là một trong những mục tiêu trọng tâm đã và đang được triển khai. Trong khi
đô thị hóa toàn cầu đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng thì việc ứng dụng CNTT
trong xây dựng thành phố thông minh được coi như một giải pháp tối ưu để giải
quyết bài toán quản lý đô thị và phát triển kinh tế- xã hội, điển hình như những
thách thức về giao thông và y tế. Thực tế hiện nay cho thấy rằng hạ tầng giao thông
(HTGT) tại Việt Nam tuy được chú trọng đầu tư nhưng hiệu quả mang lại vẫn chưa
cao.
Bình quân đầu tư vào HTGT của Việt Nam từ năm 1995 đến nay vào khoảng
4-5% trên tổng số GDP, trong khi nhiều nước chỉ đạt 2-3%. Nhận thức được vấn đề
này, Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) mới đây đã chính thức đưa ra “Giải pháp giao
thông thông minh trên nền bản đồ số” với kỳ vọng sẽ giải quyết được bài toán giao
thông phức tạp hiện nay.

9


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

Song song với giao thông, y tế cũng có những hoạt động đáng chú ý khi mà
kế hoạch ứng dụng và phát triển CNTT giai đoạn 2016 - 2020 được Bộ Y tế phê

duyệt với 33 dự án triển khai với vốn đầu tư gần 1.800 tỷ đồng. Bên cạnh đó, vào
đầu tháng 2 năm 2016, dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 sẽ chính thức được triển
khai với các cơ sở khám, chữa bệnh.
Tất cả những điều này đã phần nào thể hiện rõ nỗ lực cũng như quyết tâm
của Bộ y tế trong phát triển ứng dụng CNTT nhằm nâng cao hiệu quả công tác
quản lý và phục vụ dân sinh. Trong bối cảnh đó, Hôị thảo Quốc gia về Chính phủ
Điêṇ tử 2016 sẽ đưa vào thảo luận chủ đề chính: “Phát triển Chính phủ điện tử: Hạ
tầng hiện đại, dịch vụ công thông minh, tăng cường minh bạch và gắn kết công
dân”. Hội thảo sẽ tiếp tục các trao đổi, đánh giá về thực trạng và những bước phát
triển mới của Chính phủ điện tử, cũng như đề xuất các sáng kiến ứng dụng công
nghệ tạo đà cho những chuyển biến lớn trong phát triển Chính phủ Điện tử ngày
một bền vững, đáp ứng được nhu cầu và mang đến sự hài long tới người dân.
Triển khai Chính phủ điện tử tại Tp. Hồ Chí Minh:
Tp. Hồ Chí Minh là đơn vị có chỉ số sẵn sàng CNTT xếp hạng nhất trong các
tỉnh, thành và cũng đi đầu trong xây dựng chính phủ điện tử. Kết quả này đạt được
từ quyết tâm của lãnh đạo thành phố, từ cách làm đột phá và từ sự phát triển của hạ
tầng viễn thông, internet.
Tại Việt Nam nói chung và Tp. Hồ Chí Minh nói riêng, hạ tầng viễn thông và
internet phát triển mạnh những năm vừa qua đã tạo điều kiện rất tốt cho xây dựng
chính phủ điện tử (CPĐT). Tính đến tháng 10 - 2007, Tp. Hồ Chí Minh có 8,6 thuê
bao điện thoại, trong đó có 1,6 triệu điện thoại cố định, 7 triệu điện thoại di động,
chiếm 25% của cả nước. Internet băng thông rộng cũng phát triển rất ấn tượng, từ
5.000 thuê bao ADSL năm 2003 đến nay đạt gần 400.000, tăng 80 lần trong 5 năm
và chiếm 50% số thuê bao ADSL cả nước.
Tp. Hồ Chí Minh đã đưa CNTT vào cơ quan nhà nước từ rất sớm. Ngay từ
những năm 1998-2001, Sở Kế hoạch - Đầu tư, UBND Quận 1 đã tin học hóa thành
công một số công việc. Những năm sau đó TP cũng đã có nhiều chương trình, dự
án ứng dụng CNTT. Đặc biệt từ 2005 đến nay CPĐT được xây dựng một cách
chuyên nghiệp hơn với bộ máy chuyên nghiệp, mục tiêu rõ ràng, kế hoạch trọng
tâm và triển khai bài bản. Tp. Hồ Chí Minh đã xác định mục đích của CPĐT là

phục vụ người dân; giúp cơ quan quản lý xử lý thông tin nhanh, nhiều và chính xác;
công khai, minh bạch hóa hoạt động của cơ quan nhà nước. Là công cụ, đồng thời
là nội dung của cải cách hành chính. Các lĩnh vực cần tập trung thực hiện trước là:
đất đai-xây dựng, đăng ký kinh doanh và tạo môi trường làm việc điện tử.

10


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

Trong khi chưa có kiến trúc CNTT ở tầm quốc gia, Tp. Hồ Chí Minh đã chủ
động xây dựng kiến trúc CNTT của mình và lập kế hoạch đầu tư xây dựng chính
phủ theo kiến trúc này. Việc đầu tư được thực hiện trước tiên ở cấp quận-huyện nơi
phục vụ người dân nhiều nhất, trực tiếp nhất và có khối lượng thông tin cần xử lý
nhiều nhất. Thành phố đã đúc kết các kết quả của giai đoạn tự phát trước đó để xây
dựng mô hình hệ thống thông tin cấp quận. Năm 2005, Thành phố đã triển khai thí
điểm tại một số quận, sau đó tổ chức rút kinh nghiệm, hoàn chỉnh mô hình rồi nhân
rộng. Cách làm xây dựng mô hình, triển khai thí điểm rồi nhân rộng đã giảm được
rủi ro, giảm được kinh phí và tăng tốc độ triển khai.
Đến nay Hochiminh Cityweb đã được Alexa.com xếp hạng 5.134 trong số
các trang web được truy cập nhiều nhất. Ngoài trang web chung rất nổi tiếng, thành
phố đã có 66 website của sở ngành, quận huyện được liên kết với Hochiminh
Cityweb. Các trang web này cung cấp thông tin kinh tế - xã hội của thành phố, của
từng đơn vị, giới thiệu các quy trình quản lý Nhà nước như đóng thuế, hoàn thuế,
đăng ký thành lập doanh nghiệp, xin cấp phép xây dựng, thành lập bệnh viện tư
nhân, giới thiệu các lô đất được chào bán đấu giá, giá đất tại mỗi con đường của
thành phố. Những trang web này không chỉ cung cấp thông tin mà còn tiếp nhận ý
kiến của người dân, doanh nghiệp và trả lời nhanh chóng, kịp thời; ngoài ra còn có
một trang web dành riêng để đối thoại với doanh nghiệp và đang hoạt động có hiệu
quả.

Tiến lên một bước cao hơn, thành phố cũng đã xây dựng “một cửa điện tử”
cung cấp thông tin một cách tự động và trực tuyến về tình trạng giải quyết hồ sơ
cấp phép trong kinh doanh, lao động và văn hóa. Người dân có thể dùng phương
tiện liên lạc thông dụng nhất hiện nay là điện thoại để được trả lời tự động về tình
trạng hồ sơ bằng thoại, tin nhắn qua “một cửa điện tử”. Đây là công cụ hữu hiệu để
người dân và lãnh đạo giám sát các dịch vụ công. Như vậy người dân được cung
cấp thông tin ở mọi nơi, mọi lúc qua các phương tiện thông dụng và hiện đại nhất.
Tp. Hồ Chí Minh là đơn vị đi đầu trong cấp phép trực tuyến. Cấp giấy phép
qua mạng đối với giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đầu tư và
giấy phép thành lập văn phòng đại diện. Lần đầu tiên trong cả nước, thành phố đã
tích hợp thông tin từ các quận huyện lên “một cửa điện tử”. Để phục vụ cho việc
truyền khối lượng lớn dữ liệu với tốc độ nhanh, thành phố đã triển khai mạng
Metronet kết nối giữa các quận - huyện và sở ngành. Đây cũng là mạng Metronet
đầu tiên của cả nước do Bưu điện TP xây dựng. TP cũng đã xây dựng thí điểm
trung tâm chứng thực chữ ký số tại Sở BCVT, là trung tâm đầu tiên của phía Nam.
Việc sử dụng chữ ký số đã được triển khai có hiệu quả tại Sở Bưu chính Viễn
thông. Các cơ sở dữ liệu về đất đai, doanh nghiệp và dân cư đã được hình thành

11


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

trong quá trình hoạt động của các hệ thống thông tin. Các cơ sở dữ liệu này được
cập nhật hoàn toàn tự động trong quá trình xử lý thông tin, xử lý hồ sơ.
2. Một số dịch vụ hành chính công qua Website của Chính phủ
2.1. Mạng Cityweb TP. HCM:
Từ tháng 2/2001, UBND Tp. Hồ Chí Minh ban hành quyết định nội dung
thông tin cho các sở, ngành nối mạng HCM Cityweb của toàn thành phố. Trang
Web này cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến thành phố, phục vụ nhiều đối

tượng, trong đó có cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Qua mục "Tổng quan
về thành phố" và mục "Đầu tư", doanh nghiệp có thể nhận được đầy đủ thông tin về
kinh tế - xã hội, môi trường đầu tư, các dự án đang kêu gọi đầu tư, các địa chỉ cần
thiết để giao dịch, các văn bản pháp luật của Việt nam và thành phố để chuẩn bị
quyết định đầu tư. Hiện nay, ngoài phần tiếng Việt, mục đầu tư đã có thêm phần
tiếng Anh và đang thực hiện chuyển thể sang tiếng Trung, tiếng Nhật. Đây là công
cụ phục vụ đắc lực cho các nhà đầu tư.
Người dân Việt nam ở mọi miền đất nước hoặc người nước ngoài có thể truy
cập các thông tin về lịch sử thành phố, về văn hoá, du lịch, về các hệ thống giáo
dục, y tế, về nhiệm vụ, chức năng của các sở, ngành của thành phố, về các quyết
định của các UBND thành phố liên quan đến phát triển kinh tế, về đền bù và giải
toả, về quy hoạch đô thị… Bên cạnh trang thông tin tích hợp trên Internet, thành
phố cũng đang triển khai hệ thống thông tin đối thoại trên mạng cục bộ của thành
phố. Hệ thống này tạo ra kênh đối thoại qua mạng giữa người dân, doanh nghiệp và
các sở, ngành của thành phố. Thông qua hệ thống đối thoại qua mạng, người dân có
thể phản ánh kịp thời các khó khăn trong cuộc sống. Lãnh đạo các cấp, các ngành
có thể trả lời trực tiếp cho người dân, đồng thời thông qua kênh đối thoại có thể biết
được cấp dưới thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên ra sao.

12


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

2.2. Đăng ký kinh doanh qua mạng:
Vào năm 1997, Sở Kế hoạch và Đầu tư Tp. Hồ Chí Minh đã tiến hành xây
dựng một mạng thông tin diện rộng và lập cơ sở dữ liệu của hơn 10.000 doanh
nghiệp đã đăng ký, xây dựng quy trình đăng ký kinh doanh khép kín. Tiếp đến, từ
tháng 8/2000, Sở đã khai trương "Trang thông tin doanh nghiệp" bao gồm thông tin
về tất cả doanh nghiệp trên địa bàn thành phố. Hệ thống thông tin của Sở Kế hoạch

và Đầu tư đã phát huy tác dụng. Theo Luật Doanh nghiệp, cơ quan đăng ký kinh
doanh phải cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức và
thậm chí là cả các cá nhân. Nhờ hệ thống thông tin của mình, Sở đã đáp ứng thông
tin kịp thời, tổng hợp các báo cáo của cơ quan đăng ký kinh doanh với các ngành
chức năng theo từng thời kì hoặc đột xuất. Đặc biệt, Sở Kế hoạch và Đầu tư dễ
dàng báo cáo cho lãnh đạo thành phố biết được có bao nhiêu doanh nghiệp theo
ngành nghề hoạt động trên từng địa bàn, tổng vốn đã đăng ký, số lượng lao động…
hoặc giúp doanh nghiệp tìm hiểu về một doanh nghiệp khác đang hoạt động hay
giải thể, cung cấp các thông tin cần thiết khác để họ có thể ký kết hợp đồng với đối
tác.
Sau khi xây dựng xong quy trình đăng ký kinh doanh khép kín, từ ngày
1/1/2000, công tác đăng ký kinh doanh của Sở đã được xử lý qua mạng nội bộ
(LAN). Điều này có nghĩa là khi doanh nghiệp nộp hồ sơ, phòng Đăng ký kinh
doanh sẽ tiếp nhận xử lý theo quy trình trên mạng nội bộ. Với hình thức đăng ký
này, doanh nghiệp phải đến Sở để nhận mẫu đơn đúng theo yêu cầu và nộp lại.
Trong quá trình xử lý, những người có trách nhiệm sẽ kiểm tra thông tin trong đơn,
bộ phận tiếp nhận sẽ hẹn ngày đến nhận giấy phép.
Đăng ký kinh doanh qua mạng đem lại rất nhiều lợi ích cho cả cơ quan đăng
ký kinh doanh và cả doanh nghiệp. Đăng ký kinh doanh qua mạng giúp hạn chế
những sai sót trong nhập liệu như ngày tháng năm sinh, số chứng minh thư nhân
dân. Các doanh nghiệp, thay vì phải đến cơ quan đăng ký kinh doanh để được
hướng dẫn đăng ký kinh doanh, có thể ngồi tại văn phòng dể xem hướng dẫn trực
tiếp từ hệ thống. Nếu đăng ký kinh doanh qua mạng, doanh nghiệp có thể tiết kiệm
được thời gian chờ đợi, giảm được số lần phải đến Sở (chỉ phải đến một lần).
2.3. Báo điện tử:
Hiện Việt Nam có 21 tờ báo, tạp chí điện tử, điển hình là các tờ Nhân Dân,
Sài Gòn Giải Phóng, Lao Động, Người Lao Động, Quốc Tế, Quê Hương, Đầu Tư,
Thời Báo Kinh Tế, Sài Gòn Tiếp Thị …. Con số 21 trên 500 tờ báo và tạp chí in
vẫn còn khiêm tốn. Xong để tìm được hết tất cả các báo, tạp chí điện tử này lại
không đơn giản chút nào, kể cả đối với những người làm việc thường xuyên trên

mạng. Các tờ báo dễ tìm thấy trên mạng có nội dung và hình thức khá tốt. Các
13


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

trang chủ tổ chức có trật tự, màu sắc bắt mắt, chứng tỏ chúng được xây dựng và
duy trì ở mức chuyên nghiệp cao. Tuy nhiên, đa số các bài được đưa lên mạng chỉ
dừng ở mức lặp lại trang tin trên các tờ báo in của chính nó. Lợi thế của báo điện tử
là đưa tin nhanh, dung lượng tin lớn, đa dạng gần như bị tuột khỏi tay các tổng biên
tập. Phần lớn những người làm báo điện tử chỉ đơn thuần là biên tập viên chứ chưa
có các phóng viên thực thụ và chuyên nghiệp theo nghĩa “điện tử”. Đó là nguyên
nhân chính làm thu hẹp thị trường độc giả và do đó các báo điện tử ở nước ta vẫn
sống nhờ vào báo in, nguồn thu từ quảng cáo trực tuyến cũng rất khiêm tốn.
Hiện báo điện tử đang gặp phải một số khó khăn. Đầu tiên là về vấn đề thiếu
ngân sách. Một vấn đề khác nữa là hành lang pháp lý cho báo điện tử. Bên cạnh đó,
các tờ báo điện tử đang vấp phải đối thủ cạnh tranh là các trang tin điện tử như
VASC-Orienrtz (www.vnn.vn), VN-Express (Vnexpress.net)... Hàng ngày có
khoảng 6 triệu lượt người truy cập trang www.vnn.vn. Dung lượng tin tức của họ
vượt trội, khoảng 140 tin mỗi ngày. Thực chất, lượng tin ấy có đến 60% chép lại từ
các tờ báo in và 25% dịch từ nguồn tin nước ngoài. (Nguồn: PCWorld B Việt nam
số 11/2002).
3. Nguồn nhân lực cho việc triển khai Chính phủ điện tử
Hiện nay trên phạm vi toàn quốc ước tính có khoảng 20.000 cán bộ đang
hoạt động trong lĩnh vực CNTT, trong đó có khoảng 2.000 người chuyên làm về
phần mềm tin học. Ngoài ra, có khoảng 50.000 người Việt Nam ở nước ngoài đang
hoạt động trong lĩnh vực CNTT.
Từ năm 1980, một số trường đại học đã bắt đầu có khoa tin học và cho tới
nay hầu hết tất cả các trường đại học đều có khoa tin học và tất cả các sinh viên đều
được đào tạo tin học đại cương. Bảy trường lớn ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh

và một vài tỉnh miền Trung đã được Nhà nước hỗ trợ đầu tư cho các khoa CNTT
với mục tiêu đào tạo 2000 cử nhân và kỹ sư tin học mỗi năm. Cho tới nay, trung
bình mỗi năm có khoảng 3.500 người được đào tạo cơ bản về tin học. Tuy nhiên,
nếu tính bình quân đầu người so với Singapore thì nước ta còn kém khoảng 50 lần.
Hiện nay, chúng ta vẫn đang thiếu nhân lực về CNTT, số sinh viên tốt nghiệp hàng
năm chưa đủ đáp ứng nhu cầu của các tổ chức và doanh nghiệp. (Nguồn: Thương
mại điện tử - Học viện hành chính quốc gia - NXB Lao động 2003)
Còn về đội ngũ cán bộ quản lý các dự án tin học hoá quản lý hành chính nhà
nước, mặc dù đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình tin học hoá này nhưng đa
số các cán bộ không có nhận thức đầy đủ và đúng đắn về nó. Một dự án tốt mà
những nhà lãnh đạo chủ chốt lại không có nhận thức đầy đủ về bản chất của vấn đề
thì không bao giờ có thể thành công được.

14


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

4. Nhận thức của người dân và khả năng tiếp cận các dịch vụ điện tử
Có thể nói nhận thức của người dân Việt nam về Chính phủ điện tử điện tử
rất kém. Hầu như mọi người đều không biết Chính phủ điện tử là gì, kể cả những
sinh viên đại học chuyên ngành công nghệ thông tin hay kinh tế, chứ không nói gì
đến những người dân bình thường, kể cả người dân ở các thành phố lớn đến những
người dân ở nông thôn. Từ tình trạng sử dụng dịch vụ Internet ta có thể thấy, mặc
dù tỷ lệ người dân sử dụng Internet đã tăng lên, nhưng vẫn còn rất thấp so với các
nước khác. Do vậy khả năng tiếp cận các dịch vụ công của Chính phủ là rất thấp.
Đối tượng sử dụng chủ yếu là các doanh nghiệp, nhưng vẫn không phải tất cả các
doanh nghiệp Việt nam đều sử dụng được các loại dịch vụ của Chính phủ điện tử.
Còn người dân thì chỉ có một số ít sử dụng, đó là những người đã quen thuộc với
Internet. Như vậy, muốn tăng khả năng sử dụng các dịch vụ công của Chính phủ

điện tử, điều cần thiết trước mắt là phải nâng cao nhận thức của người dân về vai
trò của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong đời sống.
Hiện nay nhiều nhà lãnh đạo chưa thấy hết được giá trị của công nghệ thông
tin trong công tác quản lý. Nhận thức của đại bộ phận cán bộ công chức còn kém,
chưa thấy sức mạnh và chưa biết khai thác công nghệ thông tin.

15


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

PHẦN 3
ƯU - NHƯỢC ĐIỂM CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ
Việc xây dựng và triển khai Chính phủ điện tử ở Việt Nam đã đem lại sự
thuận tiện, cung cấp các dịch vụ công một cách hiệu quả và kịp thời cho người dân,
đáp ứng mọi nhu cầu của công dân bằng việc nâng cao chất lượng hoạt động của bộ
máy chính quyền từ trung ương tới cơ sở.
1.

Ưu điểm của chính phủ điện tử

+ Gia tăng hiệu quả làm việc và nâng cao năng lực làm việc của các cán bộ,
công chức trong các cơ quan nhà nước.
+ Giảm thiểu phí phạm và tránh làm lại cùng một công việc nhiều lần.
+ Truyền, xử lý và quản lý thông tin dễ dàng, nhanh chóng, chính xác, hữu
hiệu. Giúp thủ tục hành chính được công khai, tin cậy và tạo sự bình đẳng trong
truy cập thông tin.
+ Bớt gánh nặng hành chính cho người dân và cho doanh nghiệp.
+ Tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển kinh tế thương mại điện tử.
+ Tạo điều kiện thuận lợi, nhanh chóng, dễ dàng cho các cá nhân, tổ chức

tìm hiểu thông tin, làm hồ sơ,... và các cơ quan, bộ phận có thẩm quyền giải quyết
hồ sơ, làm thủ tục.
+ Dễ dàng thu thập ý kiến đóng góp của người dân giúp tỉnh thành phố đưa
ra những phương án, kế hoạch phát triển tỉnh, thành phố hiệu quả, phù hợp hơn nhờ
khả năng thu thập và phân tích thông tin một cách nhanh chóng.
+ Giúp lãnh đạo, các cơ quan cấp tỉnh, thành phố cởi mở gần gũi với người
dân hơn, phục vụ và cung cấp dịch vụ một cách dễ dàng hơn, đồng thời nâng cao
trình độ hiểu biết của người dân trong việc sử dụng công nghệ thông tin và mạng
Internet để học hỏi.
+ Giảm thiểu hiện tượng quan liêu, tham nhũng trong cơ quan công quyền.
+ Hệ thống văn bản pháp lý và tài liệu hướng dẫn thực hiện được cung cấp
đầy đủ, chi tiết trên các website.
+ Tạo điều kiện thuận lợi để hội nhập vào cộng đồng thế giới.

16


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố
2.

Nhược điểm

Rõ ràng, Chính phủ điện tử có nhiều ưu điểm, đem lại những lợi ích không
hề nhỏ cho người dân, các tổ chức, doanh nghiệp, các cơ quan nhà nước,... Tuy
nhiên, bên cạnh những ưu điểm đó, Chính phủ điện tử vẫn còn có những nhược
điểm sau đây:
+ Nhận thức về chính phủ điện tử còn thấp. Khái niệm chính phủ điện tử còn
khá mới mẻ đối với Việt Nam, khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt
động quản lý ở cấp tỉnh thành phố chưa cao.
+ Hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông yếu. Trang thiết bị tuy đã có

nhiều cải tiến nhưng vẫn còn lạc hậu. Số lượng chưa được phổ biến rộng rãi, chỉ tập
trung một số vùng có trình độ dân trí cao.
+ Cải cách hành chính với phương thức điều hành còn hạn chế.
+ Môi trường pháp lý chưa hình thành dù đã có nhiều văn bản quy định về
vấn để ứng dụng công nghệ thông tin. Chính phủ điện tử là mục tiêu lớn của đất
nước, nhưng chưa có một văn bản nào nói về việc xây dựng chính phủ điện tử Việt
Nam.
+ Việc tuyên truyền các kiến thức về Chính phủ điện tử, an toàn bảo mật
thông tin cho chính quyền địa phương và hiệp hội các doanh nghiệp chưa phát huy
được hiệu quả.
+ Bảo mật thông tin chưa được đảm bảo. Khả năng bảo mật còn kém an toàn
thông tin không được đảm bảo đây là hạn chế lớn đối với quá trình xây dựng chính
phủ điện tử. Đây không chỉ riêng là vấn đề của các tỉnh thành phố mà là vấn đề của
cả nước, của toàn cầu.
+ Chức năng của hệ thống phải cập nhật liên tục và năng cấp liên tục để thích
ứng với công nghệ hiện nay.
+ Thiếu vốn, thiếu nguồn nhân lực cao cấp. Nguồn nhân lực và vốn là có yêu
tố đầu tiên làm tiền để triển khai bất cứ một hành động nào và chính phủ điện tử
cũng cần như vậy.

17


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

PHẦN 4
GIẢI PHÁP VỀ VIỆC ĐẨY MẠNH XÂY DỰNG
CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ CẤP TỈNH, THÀNH PHỐ
Từ những nhược điểm của chính phủ điện tử ở trên, nhóm chúng em có đưa
ra một số giải pháp để tăng cường, đẩy mạnh việc xây dựng chính phủ điện tử ở

cấp tỉnh, thành phố như sau:
Các tỉnh, thành phố theo chức năng, nhiệm vụ được giao chỉ đạo triển khai
đồng bộ, hiệu quả các Nghị quyết, Chỉ thị của Bộ Chính trị, các chương trình, kế
hoạch của Chính phủ và các nghị quyết, quyết định của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ về đẩy mạnh phát triển và ứng dụng CNTT; tập trung vào giải pháp đẩy
mạnh đổi mới, tăng cường ứng dụng CNTT trong công tác quản lý nhà nước, nhất
là trong việc giải quyết thủ tục hành chính, cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối
với những lĩnh vực bức thiết, liên quan đến người dân và doanh nghiệp. Từng bước
triển khai các hệ thống thông tin về dân cư, đất đai - xây dựng, doanh nghiệp... Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện chứng từ, hồ sơ điện tử.
Khẩn trương triển khai các giải pháp để cung cấp dịch vụ công trực tuyến
thuộc thẩm quyền của tỉnh thành phố. Xây dựng, ban hành và hàng năm cập nhật
danh sách các dịch vụ công được ưu tiên cung cấp trực tuyến tối thiểu ở mức độ 3.
Bổ sung, nâng cấp và tích hợp các dịch vụ công trực tuyến của các tỉnh,
thành phố và các đơn vị trực thuộc lên cổng thông tin điện tử của tỉnh, thành phố.
Tích hợp các dịch vụ công trực tuyến của các tỉnh, thành phố lên Cổng dịch vụ
công Quốc gia.
Phối hợp thực hiện xây dựng chính phủ điện tử giữa các ban, ngành, tỉnh,
thành phố một cách hài hòa, hợp lý.
Tổ chức đào tạo, đào tạo lại đội ngũ cán bộ chuyên trách CNTT ở các cơ
quan nhà nước các cấp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ về CNTT và việc thuê dịch vụ
CNTT; tăng cường năng lực cán bộ làm công tác an toàn, an ninh thông tin trong
các cơ quan nhà nước.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính. Rà soát, đơn giản hóa, bãi bỏ các thủ
tục hành chính không cần thiết, tạo mọi thuận lợi và giảm thời gian, chi phí cho
doanh nghiệp, người dân.
Thiết lập hệ thống điện tử lấy ý kiến đánh giá của người dân về các dịch vụ
công trực tuyến, từ đó hoàn thiện các dịch vụ tốt hơn.
Nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng viễn thông để có thể đáp ứng được tối đa
nhu cầu sử dụng của công dân, tổ chức, cơ quan nhà nước.

18


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

Tăng nguồn vốn cho việc xây dựng và phát triển chính phủ điện tử ở các tỉnh
thành phố.
Tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về chính phủ điện tử.
Học tập kinh nghiệm về phát triển chính phủ điện tử ở nước ngoài, đẩy mạnh
phối hợp với các tổ chức quốc tế trong việc hỗ trợ phát triển chính phủ điện tử.

KẾT LUẬN
Chính phủ luôn đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong công cuộc kinh tế kinh
tế - xã hội của một quốc gia. Nhưng làm thế nào để bộ máy Chính phủ hoạt động
hiệu quả và ít tốn kém nhất? Câu trả lời được nhiều người tán thành là phát triển
Chính phủ điện tử. Đây là một cơ hội lớn đồng thời cũng là một thách thức không
nhỏ đối với một quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Việc đẩy mạnh xây dựng và phát triển chính phủ điện tử ở cấp tỉnh thành phố
là không thể thiếu trong quá trình xây dựng chính phủ điện tử ở nước ta. Chính phủ
điện tử ở Việt nam mới chỉ đang trong giai đoạn đầu, tức là giai đoạn ứng dụng
công nghệ thông tin sao cho bộ máy hành chính nhà nước điều hành hiệu quả hơn,
cung cấp các thông tin phục vụ đời sống xã hội, tin học hoá quản lý hành chính nhà
nước… Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Việt nam là phải thực hiện những
bước đi hợp lý, thực hiện những biện pháp cụ thể và hiệu quả để nhanh chóng
chuyển sang giai đoạn tiếp theo của Chính phủ điện tử. Để thực hiện được điều này,
Việt Nam cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng công nghệ
thông tin viễn thông, xây dựng và có kế hoạch quản lý chặt chẽ đề án Chính phủ
điện tử và tích cực tuyên truyền để nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp dân chúng
về Chính phủ điện tử. Hi vọng rằng việc triển khai Chính phủ điện tử sẽ ngày càng
tốt hơn, đáp ứng tối đa nhu cầu của nhân dân, nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu

quả làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức trong quản lý hành chính nhà nước,
góp phần đưa đất nước phát triển.

19


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

 HẾT 

20


Chính phủ điện tử cấp tỉnh, thành phố

BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC CỦA THÀNH VIÊN
ST
T
1

Thành viên
Nguyễn Thị Vân Anh
(7/4/1996)

2

Hoàng Thị Mỹ Giang

3


Trần Quốc Hải

4

Đàm Thị Phương An

5

Lê Vân Anh

6

Đinh Thị Thúy Giang

7

Nguyễn Thị Hà

8

Hoàng Công Đức

9

Vương Thị Hạnh

10

Nguyễn Huy Hiệu


11

Trần Thị Hồng Ánh

12

Nguyễn Duy Thu Hằng

13

Nguyễn Thị Thu Hà

14

Nguyễn Thị Thu An

15

Nguyễn Thị Vân Anh
(4/1/1996)

16

Nguyễn Thị Duyên

Công việc

-

Phần mở đầu

Mô hình thành phẩm

-

Phần thực trạng

-

Phần ưu – nhược điểm

-

Phần giải pháp

-

Phần kết luận
Tổng hợp, chỉnh sửa bản word
Slide

-

Thuyết trình

21



×