Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Sự vận dụng của Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình hình thành đất nước.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.95 KB, 15 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Những thành tựu trong công cuộc đổi mới của đất nước ta trông thời gian qua đã
tạo ra thế và lực mới. Tạo ra nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa và hiện đại
hóa. Quan hệ của nước ta với các nước trên thế giới cũng được mở rộng hơn bao giờ
hết. Cách mạng khoa học và công nghệ phát triển nhanh với trình độ ngày càng cao,
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội. Tuy nhiên ưu thế về
vốn , công nghệ, thị trường thuộc các nước phát triển, khiến cho các nước đang phát
triển và các nước chậm phát triển đứng trước nhiều thử thách to lớn. Nguy cơ tụt hậu
xa hơn về nền kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thử thách to lớn và gay
gắt do điểm xuất phát của chúng ta quá thấp lại đi lên trong môi trường cạnh tranh
quyết liệt.
Trước tình hình đó, cùng với xu thế phát triển của thời đại, Đảng và nhà nước ta
cần lên tục tiến hành và đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong đó đổi
mới kinh tế đóng vai trò then chốt và chủ đạo. Đồng thời đổi mới về chính trị cũng
mang tính cấp bách bởi giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị có mối liên hệ chặt
chẽ với nhau không thể tách rời. Chính vì vậy, tìm hiểu giữa mối quan hệ vật chất và
ý thức sẽ cho phép chúng ta vận dụng nó vào mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị
của đất nước, giúp cho công cuộc xây dựng nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển,
ngày càng giàu mạnh.
Sau một thời gian nghiên cứu và học tập, cùng với sự tận tình giảng dạy của cô,
chúng em đã chọn làm thảo luận về đề tài: “Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Sự vận dụng của Đảng cộng sản
Việt Nam trong quá trình hình thành đất nước.”. Do thời gian và kiến thức có hạn
cho nên bài viết của nhóm em không tránh khỏi thiếu sót, vậy nên rất mong nhận
được ý kiến đóng góp từ cô giáo và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn cô!

CHƯƠN G 1 : Lý luận chung về quan hệ giữa vật chất và ý thức
1



1.Phạm trù vật chất và ý thức
1.1: Phạm trù vật chất
1.1.1: Vật chất là gì?
Quan niệm của chủ nghĩa duy vật trước Mác về vật chất có rất nhiều, trong đó
có các định nghĩa điển hình sau:
-Thời kì cổ đại, đồng nhất vật chất với một dạng vật cụ thể.
Talet cho rằng vật chất là nước
Anaximen cho rằng vật chất là không khí
Đêmôcrit cho rằng vật chất là nguyên tử

Quan niệm
vật chất mang tính trực quan, cảm tính. Nó chỉ có tác dụng chống lại quan điểm của
chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.

-Thời kì cận
đại thế kỉ XVII – XVIII: đồng nhất vật chất với thuộc tính của vật chất.
Ví dụ: Niuton cho rằng khối lượng là vật chất
=>Quan niệm vật chất mang tính siêu hình, máy móc.
- Định nghĩa vật chất của Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dung để chỉ
thực tại khách quanđược đem lại cho con người trong cảm giác, đượ cảm giác của
chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.- Đây
là định nghĩa khoa học nhất, hoàn chỉnh nhất về vật chất của V.I. Lênin trong tác
phẩm “Chủ nghĩa duy vật và Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”. Định nghĩa trên đã
đề cập tới các nội dung sau:
Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngoài ý thức và khoong phụ thuộc vào ý
thức, bất kể sự tồn tại ấy con người đã nhận thức được ấy chưa nhận thức được.
Thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi dạng vật chất là thuộc tính tồn
tại khách quan. Đây là nội dung quan trọng, có ý nghĩa chống lại chủ nghĩa duy tâm.
Vật chất là cái có thể gây nên cảm giác của con người, ý thức của con người là
sự phản ánh đối với vật chất, vật chất là cái được ý thức phản ánh.

1.1.2: Phương thức và hình thức tồn tại của vật chất
Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: tồn tại là phương thức tồn tại của vật
chất, không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất.
- Vận động là phương pháp tồn tại của vật chất
Ph.Ăngghen định nghĩa: “ Vận động, hiểu theo nghĩa chung nhất- tức được hiểu
2


là một phương thức tồn tại của vật chất, là một thuộc tính cố hữu của vật chất, - thì
bao gồm mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí
đơn giản cho đến tư duy”. Ph.Ăngghen chia vận động thành 5 hình thức: vận động cơ
học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận động sinh học và vận động xã hội. Các
hình thức vận động được sắp xếp theo thứ tự từ trình độ thấp đến trình độ cao và
chúng có quan hệ mật thiết với nhau.
-Không gian và thời gian là hình thức tồn tại của vật chất.
Vật chất luôn vận động và phát triển, sự vận động ấy không đâu khác ngoài
không gian và thời gian. Không gian và thời gian là hình thức cơ bản của mọi tồn tại.
Không gian là hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt vị trí, quảng tính, kết
cấu. Còn thời gian hình thức tồn tại của vật chất vận động về mặt độ dài diễn biến, sự
kế tiếp nhau của quá trình.
Là hình thức tồn tại của vật chất, không gian và thời gian tồn tại khách quan, bị
vật chất quy định; trong đó không gian có 3 chiều: chiều cao, chiều rộng, chiều dài;
thời gian có một chiều: chiều từ quá khứ đến tương lai.
1.1.3: Tính thống nhất vật chất của thế giới
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: bản chất của thế giới là vật chất, thế
giới thống nhất ở tính vật chất của nó. Nó thể hiên ở những điểm sau:
- Chỉ có một thế giới duy nhất là thế giới vật chất
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô tận, cô hạn, không được snh ra và không bị mất
đi.
- Mọi tồn tại của thế giới vật chất đều có mối liên hệ khách quan, thống nhất với nhau.

1.2.1: Nguồn gốc của ý thức
Theo quan điểm duy vật biện chứng, ý thức có nguồn gốc tự nhiên và nguồn gốc
xã hội.
-Nguồn gốc tự nhiên của ý thức có nhiều yếu tố cấu thành. Trong đó, hai yếu tố
cơ bản nhất là bộ óc người và mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo
nên hiện tượng phản ánh năng động, sáng tạo.
Bộ óc con nhười càng hoàn thiện, hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc càng
hiệu quả, ý thức của con người càng phong ph và sâu sắc.

3


Mối quan hệ giữa con người với thế giới khách quan tạo ra quá trình phản ánh
năng động sáng tạo. Trong mối quan hệ này, thế giới khách quan được phản ánh thong
qua hoạt đọng của các giác quan đã tác động đến bộ óc người, hình thành nên ý thức.
Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểmcủa dạng vật chất này ở dạng vật chất
khác trong quá trình tác động qua lại lẫn nhau giữa chúng.
Phản ánh được thể hiện dưới nhiều hình thức: Phản ánh vật lý, hóa học; phản
ánh sinh học; phản ánh tâm lý và phản ánh năng động, sánh tạo.
-Nguồn gốc xã hội của ý thức: có nhiều yếu tố cấu thành nguồn gốc xã hội của ý
thức. Trong đó, cơ bản nhất và trực tiếp nhất là lao động và ngôn ngữ. Lao động là
quá trình con người tác động vào giới tự nhiên nhằm tạo ra sản phẩm nhằm phục vụ
cho nhu cầu tồn tại và phát triển của mình. Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu vật chất
chứa đựng thông tin mang nội dung ý thức. Không có ngôn ngữ ý thức không thể tồn
tại và thể hiện.
1.2.2: Bản chất và kết cấu của ý thức
- Bản chất của ý thức: Chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng về bản chất ý thức
là sự phản ánh năng động, sang tạo thế giới khách quan vào óc người; là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan. Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã
hội.

Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Thể hiện rằng nội dung
của ý thức do thế giới khách quan quy định. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới
khách quan vì nó nằm trong bộ não con người. Ý thức là cái phản ánh thế giới khách
quan nhưng nó là cái thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan. Ý thức không có
tính vật chất, nó chỉ là hình ảnh tinh thần, gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu
tượng hóa, có định hướng, có lựa chọn. ý thức à sự phản ánh thế giới bởi bộ não con
người.
Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới: Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách
quan vào trong bộ óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Tuy
nhiên, không phải cứ thế giới khách quan tác động vào bộ óc người là tự nhiên trở
thành ý thức. Ngược lại, ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do
nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông
qua hoạt động lao động.

Ý thức là một hiện tượng xã hội và mang bản chất xã hội: Ý thức – trong bất kỳ
trường hợp nào cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự
phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ óc. Ý thức là sản phẩm lịch sử của sự phát
triển xã hội nên về bản chất là có tính xã hội: Ý thức không phải là một hiện tượng tự
4


nhiên thuần túy mà là một hiện tượng xã hội. ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử-xã hội,
phản ánh những quan hệ xã hội khách quan.


“Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội, và vẫn như vậy đến
chừng nào con người còn tồn tại”.




- Các Mác và Ăngghen -

_

-Kết cấu của ý thức: Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội có kết cấu rất phức
tạp bao gồm nhiều thành tố khác nhau có quan hệ với nhau. Có thể chia cấu trúc của ý
thức theo hai chiều:
Theo chiều ngang: Bao gồm các yếu tố như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý
trí, ý chí..., trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.


Theo chiều dọc: Bao gồm các yếu tố như tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình
nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại
ngôn ngữ. tri thức là phương thức tồn tại của ý thúc và là điều kiện để ý thúc phát triển.


Tình cảm là những rung động biểu hiện thái độ của con người trong các quan hệ.
Tìh cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh hiện thực, được hình thành từ sự khái
quát những cảm xúc cụ thể của con người.
Ý chí là sự biểu hiện sưc mạnh của bản than mỗi con người nhằm vượt qua những
cản trở trong quá trình thực hiện mục đích. Ý chí được coi là mặt năng động của ý thức,
một biểu hiên của ý thức trông thực tiễn.
Tất cả các yếu tố tạo thành ý thức có mối quan hệ biện chứng vối nhau song tri thức
là yếu tố quan trọng nhất, là phương thức tồn tại của ý thức, định hướng đối với sự phát
triển và quyết định mức độ biểu hiện của các yếu tố khác.
1.3 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Vật chất có trước có trước ý thức có sau, vật chất là nguồn ngốc của ý thức,quyết
định ý thức song ý thức không hoàn toàn thụ động mà có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thúc tiễn của con người.

1.3.1: Vai trò của vật chất đối với ý thức
Vật chất có trước có trước ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quết
định ý thức. Còn ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào trong bộ não con người.
Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: không có sự tác động của thế giới khách quan

5


vào trong bộ não người thì sẽ không có ý thức. Ý thức là sản phẩm của một dạng vật
chất có tổ chức cao là bộ não người. Thế giới vật chất là nguồn gốc khách quan của ý
thức. sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thưc bị các quy
luật sinh học, cấc quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định.
Vật chất quyết định nội dung của ý thức: ý thức là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan, nội dung của ý thức mang tính khách quan, do thế giới khách quan quy
định. Vật chất quyết định bản chất của ý thức. Vật chất quyết định phương thức, kết cấu
của ý thức.
Cả ý thức thông thường và ý thức lý luận đều bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên và
xã hội nhất định. Những ước mơ phong tục, tập quán, thói quen nầy nẩy sinh trên những
điều kiện vật chất nhất định đó là thực tiễn xã hội – lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học
cũng dựa trên mảnh đất hiện thực là những tiền đề về kinh tế chính trị xã hội, về khoa học
tự nhiên và sự kế thừa tinh hoa tư tưởng, văn hoá nhân loại cùng với thiên tài của Các
Mác và Ăngghen.
1.3.2: Vai trò của ý thức đối với vật chất
Do thực tại khách quan luôn luôn biến động vận động nên nhận thức của nó cũng
luôn luôn biến đổi theo, nhưng xét đến cùng thì vật chất bao giờ củng quyết định ý thức.
Nhưng ý thức đã ra đời thì nó có tác động lại vật chất. Với tính độc lập tương đối của
mình ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiển của con người.
Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động thực tiễn của con
người. Biểu hiện ở chỗ: ý thức trang bị cho con người sự hiểu biết về thế giới xung
quanh, giúp con người xác định mục tiêu, lựa chọn phương pháp cho hoạt động của

mình tạo nên ở con người tình cảm, niềm tin, ý chí, thôi thúc con người nỗ lực hành
động để đạt được mục tiêu đề ra. Ý thức tác động lại vật chất diễn ra theo hai hướng:
tiêu cực và tích cực. Nếu con người nhận thức đúng, có tri thức khoa học, có ý chí thì
hành động của con người phù hợp với các quy luật khách quan, con người có năng lực
vượt qua thách thức trong quá trình thực hiện mục đích của mình, như vậy thế giới sẽ
được cải tạo. Đó chính là sự tác động tích cực của ý thức với vật chất. Còn ý thức sẽ tác
động tiêu cực tới vật chất nếu ý thức con người phản ánh sai lệch hiện thực khách quan.
Như vậy, nếu ý thức phản ánh phù hợp với hiện thức thì nó sẽ làm thúc đẩy sự
phát triển của các điều kiện vật chất. Nếu ý thức phản ánh không phù hợp với hiện thực
thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các điều kiện vật chất. Song sự kìm hãm đó chỉ mang
tính tạm thời, bởi vì sự vật vận động theo các quy luật khách quan vốn có của nó, nên
nhất định phải có ý thức tiến bộ, phù hợp, thay thế cho ý thức lạc hậu, không phù hợp.

2. Ý nghĩa phương pháp luận
Nguyên lý triết học Mác - Lênin về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức có ý nghĩa
6


phương pháp luận quan trọng. Nó đòi hỏi chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan
nhưng đồng thời cũng phải phát huy tính năng động chủ quan.
Tính khách quan đặt ra hai yêu cầu. Thứ nhất, phải xem xét sự vật như chính nó
đang tồn tạ, phải xuất phát từ thực tế, từ điều kiện, hoàn cảnh vật chất hiện có, chống
thái độ xuyên tạc, bóp méo sự thật, chống tác phong quan liêu, qua loa, đại khái, xem xét
sự vật một cách chung chung, trừu tượng. Yêu cầu này không những đòi hỏi chủ thể nhận
thức và hành động, phải trung thực, thật sự cầu thị, cụ thể, tỉ mỉ mà còn phải có tri thức
khoa học vì nếu không hiểu biết sự vật thì không có khả năng phản ánh sự vật như chính
nó tồn tại. Thứ hai, phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, không thể tùy
tiện, bất chấp quy luật, chống chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí. Yêu cầu này đòi hỏi chủ yếu
nhận thức và hành động phải tích lũy kinh nghiệm, phải học tập theo phương pháp, phải
nghiên cứu khoa học để có tri thức ngày càng chính xác hơn, đầy đủ hơn về hệ thống quy

luật khách quan.
Tính khách quan cũng đòi hỏi đấu tranh chống chủ nghĩa chủ quan. Đấu tranh chống
chủ nghĩa chủ quan không chỉ khẳng định và giữ vững thế giới quan duy vật mà còn có ý
nghĩa giúp chúng ta tránh khỏi thất bại trong hành động thực tế vì chủ nghĩa chủ quan
dẫn tới bệnh duy ý chí, tư tưởng nóng vội, phiêu lưu, mạo hiểm, bất chấp quy luật khách
quan, đôi khi hành động mù quáng, kết quả thường thất bại.
Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực, năng động, sáng tạo
của ý thức và phát huy vai trò nhân tố con người trong việc vật chất hóa tính tích cực,
năng động, sáng tạo ấy. Điều này đòi hỏi con người phải tôn trọng tri thức khoa học; tích
cực học tập, nghiên cứu để làm chủ tri thức khoa học và truyền bá vào quần chúng để nó
trở thành tri thức, niềm tin của quần chúng, hương dẫn quần chúng hành động. Mặt khác,
phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình
cảm , nghị lực cách mạng để có thể thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính nhân
văn trong định hướng hành động.
Thực hiện nguyên tắc ôn trọng khách quan, phát huy tính năng động chủ quan trong
nhận thức và thực tiễn đòi hỏi phải phòng, chống và khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí;
đó là những hành động lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực, lấy ý
muốn chủ quan, lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược,.... Mặt khác,
cũng cần chống chủ nghĩa kinh nghiệm, xem thường tri thức khoa học, xem thường lý
luận, bảo thủ, trì trệ, thụ động,.... trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.

Chương 2: Sự vận dụng mối quan hệ vật chất và ý thức của
Đảng cộng sản Việt Nam trong quá trình hình thành đất nước
7


1. Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và chính trị:
Như chúng ta đã biết vật chất và ý thức có quan hệ biện chứng với nhau. Nhân tố
vật chất giữ vai trò cơ sở quyết định, còn nhân tố ý thức có tác dụng trở lại đối với nhân

tố vật chất. Vai trò tích cực hay tiêu cực của ý thức chỉ được trong một thời gian nhất
định và điều kiện cụ thể vì thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận động theo quy luật
khách quan đòi hỏi ý thức phải biến đổi phù hợp với nó, nếu là tiêu cực của ý thức sớm
muộn cũng bị đào thải. Mặt khác ý thức là cái có sau, là cái phản ánh, hơn nữa vai trò của
nó còn tùy thuộc vào mức độ chính xác trong phản ánh hiện thực. Do vậy xét toàn cục ý
thức vẫn là nhân tố thứ hai bị quyết định, cần chú ý vai trò của ý thức chỉ có được nếu nó
thâm nhập vào quần chúng ta có thể thấy giữa kinh tế (biểu hiện của vật chất) và chính
trị(biểu hiện của ý thức) cũng có mối quan hệ dàng buộc lẫn nhau. Bởi vì chúng ta thấy
rằng tình hình kinhtế của đất nước cơ bản bị quyết định bởi chính trị. Nếu kinh tế của một
nước giàu mạnh nhưng chính trị bất ổn thì quốc gia đó cũng không thể tồn tại lâu dài.
Ngược lại, chính trị ổn định nhưng kinh tế kém phát triển thì quốc gia đó cũng khồn thể
tồn tại. Chính vì thế, để đất nước phát triển ổn định thì cả kinh tế chính trị đều phải có
tiềm lực.
Mối quan hệ giữa kinh tế và chính tri thay đổi theo từng hình thái kinh tế chính trị
hội. Trình độ tổ chức quản lý và tính chất hiện đại của nền sản suất sẽ là nhân tố quyết
định trình độ hiện đại và mức sống của xã hội. Hiện thực lịch sử đã chỉ ra rằng mọi quan
hệ của đời sống xã hội đều hình thành, biến đổi và phát triển gắn liền cơ sở kinh tế nhất
định. Trong xã hội đó theo Mác quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất
(quan hệ kinh tế) là hệ cơ bản nhất quyết định tất cả các quan hệ cơ bản khác. Một khi
sản xuất phát triển cách thức sản xuất của con người thay đổi, năng suất lao động tăng,
mức sống được nâng cao thì các mối quan hệ và mọi mặt của đời sống cũng được thay
đổi theo. Sản xuất vật chất hay kinh tế là cơ sở đầu tiên quan trọng nhất tham gia vào quá
trình phân hóa và hoàn thiện chức năng của con người, thỏa mãn nhu cầu của con người
và xã hội. Sự phong phú và đa dạng của những quan hệ vật chất, sự phát triển mạnh mẽ
của khoa học kỹ thuật và đời sống tinh thần trong quá trình sản xuất vật chất là cơ sở nảy
sinh sự phong phú và đa dạng trong sự phát triển thể chất năng lực và tinh thần của con
người.
Nguyên lý triết học Mác- Lênin là mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
đòi hỏi chúng ta phải xem xét tình hình các sự vật (nền kinh tế) từ thực tế khách quan,
tránh chủ nghĩa chủ quan, duy ý chí, đồng thời phát huy vai trò năng động sáng tạo của ý

thức, phát huy nỗ lực hoạt động chủ quan trong hoạt động của con người (như trong hoạt
động kinh tế của nước ta, trong công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi
8


xướng đã rất chú trọng trong việc đề cao yếu tố con người, làm cho ý thức thay đổi mới
thâm nhập vào cơ sở kinh tế và động viên quần chúng).
2. Sự vận dụng mối quan hệ vật chất và ý thức trong công cuộc đổi mới chính
trị của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam thì Đổi Mới không phải là từ bỏ thực
hiện xã hội chủ nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn giữ quyền lãnh đạo duy nhất. Đổi
mới chỉ là thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cho đến nay, đổi mới về chính trị ở Việt Nam lac chuyển từ lãnh đạo chủ quan, duy
ý chí sang tôn trong quy luật khách quan của thị trường.
Trên lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam chuyển từ chú trọng quan hệ hợp tác với các
nước XHCN sang chú trọng hợp tác đa phương, làm bạn với tất cả các nước, trên quan
điểm bình thường hóa các quan hệ với Mỹ, gia nhập các tổ chức ASEAN, APEC,
WTO,....
3. Sự vận dụng mối quan hệ vật chất và ý thức trong công cuộc đổi mới kinh tế
của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, sau khi giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước, nền kinh
tế Việt Nam còn nhiều nhược điểm. Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế nhiều
mặt mất cân đối, năng xuất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống, sản
xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ thực phẩm cho nhân dân, nguyên liệu cho công
ngiệp, hàng hóa cho xuất khấu. Trước tình hình đó, Đại hội Đảng lần thứ IV lại đề ra
những chỉ tiêu kế hoạch năm 1976-1980 quá cao và phát triển sản xuất vượt quá khả năng
của nền kinh tế. Đặc biệt là đã đề ra việc xây dựng thêm nhiều cơ sở mới về công nghiệp
nặng, đặc biệt là cơ khí và đặt nhiệm vụ hoàn thành về cơ bản cải tạo xã hội chủ nghĩa ở
miền Nam. Những chủ trương sai lầm đó cùng với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao
cấp đã tác động xấu đến nền kinh tế, ảnh hưởng không tốt đến đời sống của nhân dân…

Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt khoảng 50-60% mức đề ra, nền kinh tế
tăng trưởng rất chậm chạp: tổng sản phẩm xã hội tăng bình quân 1.5%, công nghiệp tăng
2.6%, nông nghiệp giảm 0.15%.
Đại hội Đảng lần thứ V cũng chưa tìm ra được đầy đủ những nguyên nhân đích thực
của sự trì trệ trong nền kinh tế nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương chính sách và
toàn diện về đổi mới, nhất là về nền kinh tế. Trong 5 năm 1981-1985 chúng ta chưa kiên
quyết khắc phục chủ quan, trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và
quản lí kinh tế, lại phạm những sai lầm mới nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối lưu

9


thông.
Trong cương kĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã
nhận định “ Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu,
tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan.Nóng vội
trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc đẩy
mạnh quá mức việc xây dựng, công việc nặng duy trì quá lâu, cơ chế quản lí tập trung
quan liêu, bao cấp, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ.
Tất nhiên, ngoài những khuyết điểm chủ quan nêu trên còn có những nguyên nhân
khách quan như: hậu quả của nhiều năm chiến tranh, bối cảnh quốc tế…song chủ yếu là
do chúng ta phạm sai lầm chủ quan, những sai lầm cùng với trì trệ trong công tác tổ chức,
cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất và triệt tiêu nhiều động lực phát triển.
Nhắc lại tình hình trên để thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức (ở đây là các chủ
trương chính sách về quản lí) đối với vật chất (là nền kinh tế) và thấy tác động qua lại
giữa kinh tế và chính trị trước khi có công cuộc đổi mới. Phép biện chứng duy vật khẳng
định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn cũng sẽ bị đào thải.
Trước tình hình ngày càng nghiêm trọng trong khủng hoảng kinh tế xã hội ở nước
ta, Đảng và Nhà nước đã đi sâu nghiên cứu, phân tích tình hình, lấy ý kiến rộng rãi của

cơ sở, của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế. Đại hội lần thứ VI của Đảng
đã rút ra bốn kinh nghiệm lớn, trong đó kinh nghiệm: phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn
trọng và hành động theo quy luật khách quan. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới, mở ra
bước ngoặt trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đảng đã tự phê bình
một cách nghiêm khắc, đã phân tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế
xã hội, đề ra các định hướng lớn và xác định chủ trương đổi mới, đặc biệt là đối với nền
kinh tế. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, ta đã đánh giá tình hình chính trị xã
hội Việt Nam sau hơn bốn năm thực hiện đường lối đổi mới: công cuộc đổi mới bước đầu
đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Tình hình chính trị của đất nước ổn định, nền
kinh tế có những chuyển biến tích cực, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước, nguồn lực sản
xuất của xã hội được huy động tốt hơn, tốc độ lạm phát được hạn chế bớt, đời sống vật
chất tinh thần của một bộ phận nhân dân có phần được cải thiện.
Không chủ quan với những thành tựu đã đạt được, Đaị hội VII chỉ ra những tồn tại
lớn cần giải quyết, đặc biệt về nền kinh tế đó là: lạm phát còn ở mức cao, nhiều cơ sở sản
xuất đình đốn kéo dài, lao động thiếu việc làm tăng lên…, đồng thời cũng tự phê bình về

10


việc chậm xác định rõ yêu và nội dung đổi mới, còn nhiều lúng túng và nhiều sơ hở trong
điều hành, quản lí vĩ mô nền kinh tế thị trường.
Như vậy, rõ ràng Đảng Cộng Sản Việt Nam ngày càng vận dụng đúng đắn phương
pháp luận duy vật biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi
mới, tiến hành đổi mới kinh tế trước để tạo điều kiện đổi mới trong lĩnh vực chính trị. Đại
hội VII, sau khi đã phân tích sâu sắcđặc điểm tình hình quốc tếvà trong nước đã đề ra
mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, những phương châm chỉ đạo trong 5 năm
1991-1995 , đặc biệt đáng chú ý là phương châm kết hợp động lực kinh tế và động lực
chính trị tinh thần.
Lạm phát được đẩy lùi từ 67% năm 1991 xuống 17.5% năm 1992 và còn 5.2% năm

1993.Tổng sản lượng trong nước GDP tăng bình quân 8.2% (mức đề ra trong năm 19911995 là5.5-6.5%) . Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, sản lượng lương
thực 5 năm qua đã tăng 26% so với 5 năm trước, tạo điều kiện cơ bản để ổn định đời sống
nhân dân, phát triển ngành nghề, chuyển dịch vụ cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông
thôn, vấn đề lương thực được giải quyết tốt. Sản xuất công nghiệp đạt nhịp độ tăng
trưởng bình quân hàng năm 13.3% (mức kế hoạch là 7.5-8.5%). Quan hệ kinh tế đối
ngoại mở rộng theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa, thị trường xuất nhập khẩu
được củng cố và mở rộng, nguồn đầu tư vốn từ nước ngoài tăng mạnh…tăng trưởng kim
ngạch xuất khẩu trong 5 năm 1991-1995 đạt trên 1.7 tỉ USD (kế hoạch là 12-15 tỉ USD),
đảm bảo nhập các loại vật tư, thiết bị và hàng hóa đáp ứng nhu cầu sản xuất và đời sống,
góp phần cải thiện cán cân thanh toán thương mại…Khoa học công nghệ có bước phát
triển, đã tập trung nghiên cứu các vấn đề lí luận và thực tiễn trong sự nghiệp đổi mới và
phát triển của nước ta, phục vụ cho việc xây dựng đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước. Lĩnh vực văn hóa-xã hội có nhiều chuyển biến tích cực, đời sống nhân dân được
cải thiện một bước, quốc phòng an ninh được giữ vững.
Như vậy,ở đây lại càng thấy rõ tác động của nền kinh tế đối với chính trị và xã hội,
đối với công tác đối ngoại và công tác quốc phòng an ninh…Đổi mới kinh tế quyết định,
nhưng các nhân tố chính trị, đối ngoại, xã hội… cũng ảnh hưởng tích cực trở lại một cách
biên chứng đối với kinh tế.
Với sự thành công của công cuộc đổi mới hơn 10 năm (1986-1995) , chúng ta càng
có cơ sở để khẳng định rằng:công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước ta là hoàn toàn
đúng đắn và phù hợp với xu thế phát triển khách quan của lịch sử, tức là chúng ta phải
thừa nhận giai đoạn phát triển kinh tế thị trường mà trước đây chúng ta đã phủ nhận nó
mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chủ nghĩa tư bản. Trước đây, Đảng ta đã phạm

11


sai lầm duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan: nóng vội trong cải tạo chủ nghĩa xã hội,
xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công
nghiệp nặng, duy trì quá lâu cơ chế quản lý tập trung quan lieu bao cấp, có nhiều chủ

trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương, công tác tư tưởng và quản lý cán
bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng. Lúc này, quán triệt nguyên tắc khách quan,
khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí chính là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân ta.Nhiệm
vụ này chỉ được thực hiện nếu chúng ta biết kết hợp nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa
học.
Trên tinh thần đó, cùng với những kinh nghiệm đã thu được những năm đổi mới,
Đại hội VIII lần này, Đảng cũng đã đi từ thực tế khách quan, đánh giá những đặc điểm
của tình hình kinh tế chính trị xã hội Việt Nam. Đảng cũng đã nhận định những thuận lợi
và khó khăn, thời cơ và nguy cơ đan xen nhau. Vì vậy, chúng ta phải chủ động nắm thời
cơ, vươn lên phát triển nhanh và vững chắc, tạo ra thế và lực mới, đồng thời luôn tỉnh táo,
kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, kể cả những nguy cơ mới nảy sinh, đảm bảo
phát triển đúng hướng. Xuất phát từ tình hình nói trên và căn cứ vào Cương lĩnh của
Đảng, cần nắm vững hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước ta thành 1 nước công
nghiệp có cơ sở vật chất kĩ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình đọ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao,
quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Quyết
tâm từ nay đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Và thực tế trong những năm qua, với những chính sách phát triển kinh tế chính trị
xã hội, chính sách ngoại giao hợp lý, chúng ta đã đạt được những bước tiến quan trọng:
bình thường hóa quan hệ với Mỹ, là thành viên của khối ASEAN (Hiệp hội các nước
Đông Nam Á), đặc biệt năm 1998, ta đã trở thành thành viên của khối APEC (Diễn đàn
hợp tác kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương),…từ chỗ bị bao vây cấm vận nước ta đang
từng bước hòa nhập với thế giới, có quan hệ ngoại giao với hơn 180 nước, quan hệ kinh
tế với hơn 220 thị trường nước ngoài. Đồng thời cân bằng quan hệ với các nước lớn, tăng
cường quan hệ với các nước láng giềng khu vực. Điều đó có ý nghĩa to lớn trong việc giữ
vững môi trường hòa bình và ổn định, là nền tảng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tăng trưởng GDP tiếp tục tăng cao, năm 1996 là 9,3% ; năm 1987 là 8,2% ; năm
1998 là 5,8% (Do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực). Lạm phát


12


vẫn được giữ ở mức dưới 10%. Tốc độ tăng trưởng của công nghiệp vẫn đạt hai con số...
Đời sống của nhân dân ngày càng được ổn định và nâng cao.
Tại Đại hội IX với sự nhất trí cao, Đại hội đã thông qua 5 nghị quyết quan trọng:
“Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể”.
“Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh
tế tư nhân”.
“Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 20012010”.
“Nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”.
“Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn”.
Thực hiện tốt mục tiêu “phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm và xây dựng Đảng
là nhiệm vụ then chốt”. Sau hơn 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới, những thành tựu
thu được đã chứng minh giá trị to lớn của sự vận dụng đúng đắn và sáng tạo mối quan hệ
biện chứng giữa vật chất- ý thức. Trong công cuộc đổi mới ở nước ta, khi thực tiễn đất
nước này sinh những vấn đề cần được giải đáp về mặt lý luận, Đảng ta đã đứng trên quan
điểm, phương pháp luận của mối quan hệ biện chứng để xem xét. Nhờ đó Đảng ta đã hiểu
được quy luật và định ra được đường lối, phương châm, bước đi cụ thể thích hợp với thực
tiễn nước ta.
Như vậy, công cuộc đổi mới do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo
ngày càng được cụ thể hóa và đi vào chiều sâu được nhân dân nhiệt liệt hưởng ứng và
hăng hái thực hiện, chính vì Đảng ngày càng nắm vững và vận dụng đúng đắn sáng tạo
phương pháp luận triết học toàn diện Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới nhằm tăng trưởng nên
kinh tế là rất rõ ràng.
Đổi mới là sự nghiệp khó khăn chưa có tiền lệ nhưng thực tiễn những năm qua đã
chứng tỏ đường lối đổi mới, chủ trương chính sách lớn về đổi mới, chủ trương chính sách
mới về đổi mới là rất đúng đắn, bước đi là thích hợp. Những diễn biến phức tạp của tình
hình thế giới, những biến động nhiều mặt của đất nước ta trong thời kì đổi mới toàn diện

xã hội càng đòi hỏi chúng ta phải kiên trì, giữ vững lòng tự tin, quyết tâm khắc phục khó
khăn đồng thời phải tỉnh táo, thông minh, nhạy bén để thích ứng kịp thời với tình hình
thực tế biến đổi từng ngày từng giờ. Để phát huy tính năng động chủ quan phải kết hợp
chặt chẽ giữa nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học. Rõ ràng việc đảm bảo sự thống

13


nhất giữa nhiệt tình, ý thức cách mạng và tri thức khoa học là hết sức cấp bách và cần
thiết. Bởi vì tri thức khoa học có được hay không cũng nhờ lòng hiểu biết, trí thông minh,
ý trí quyết tâm học tập và nhận thức khoa học; ngược lại nếu trí thắc khoa học phát huy
được tác dụng trong thực tế thì nó lại trở thành động lực tăng thêm ý trí và nhiệt tình cách
mạng.
4. Sự vận dụng mối quan hệ vật chất và ý thức trong công cuộc đổi mới văn hóa
đất nước của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đổi mới văn hóa ở Việt Nam thì được biết dưới tên Cởi Mở, tương tự như chính
sách Glanstnost của Nga Xô. Quá trình này bắt đầu cùng Đổi mới kinh tế nhưng sau đó
dừng lại trong thập niên 1990. Việc đổi mới văn hóa là điều cần thiết để hòa nhập với xu
thế của đất nước, nhưng những tinh hoa văn hóa nên được bảo toàn và gìn giữ, lưu truyền
cho các thế hệ sau.
5. Sự vận dụng mối quan hệ vật chất và ý thức trong công cuộc đổi mới các mặt
khác của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đổi mới trên các mặt khác vẫn đang diễn ra và vẫn chưa có các tổng kết khoa học
về vấn đề này. Ví dụ: Việt Nam đang đổi mới giáo dục: chuyển từ lối giáo dục truyền
thống của Á Đông sang phương pháp giáo dục lấy người học làm trọng, tấn công trực
tiếp và bệnh thành tích.

KẾT LUẬN
Quán triệt phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, vận
dụng thành thạo mối quan hệ biện chứng vào việc nghiên cứu và quản lý kinh tế, phát huy

mạnh hơn nữa mối quan hệ giữa biện chứng giữa kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới
trong nền kinh tế quốc dân, tạo diều kiện cho nền kinh tế Việt Nam cất cánh, để từ đó nâng cao
hợn nữa vị thế của Việt Nam trên chính trường quốc tế, góp phần củng cố hơn nữa sự ổn định về
chính trị đất nước.
Đòi hỏi Đảng và nhà nước ta phải kiên trì, kiên định, giữ vững lòng tin, quyết tâm khắc
phục khó khăn đồng thời phải tỉnh táo, thông minh, nhạy bén để thích ứng kịp thời với tình hình
thực tế biến đổi từng ngày, từng giờ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. V. I. Lênin toàn tập
2. Đảng cộng sản Việt Nam - Cương lĩnh đầu tiên xây dựng Đất nước trong thời kỳ quá
độ đi lên XHCN.
14


NXB Sự thật 1991
3. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000.
NXB Sự thật 1991
4. Giáo trình triết học Mác - Lênin.
NXB Chính trị quốc gia
5. Bài giảng triết học.

TS. Đặng Văn Sinh

6. Tài liệu hỏi đáp về các nghị quyết hội nghị lần thứ 5- ban chấp hành trung ương Đảng
khóa IX
7 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI.
8. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII.
9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII.
10. Thời báo kinh tế Việt Nam.

11. Tạp chí cộng sản.
12. Trang web điện tử .

15



×