Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

MỘT số BIỆN PHÁP tạo BIỂU TƯỢNG văn hóa vật CHẤT TRONG dạy học LỊCH sử THẾ GIỚI CHO học SINH lớp 10 THPT (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.06 KB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

DƢƠNG THỊ MINH HUỆ

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA
VẬT CHẤT TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ THẾ GIỚI

CHO HỌC SINH LỚP 10 THPT

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Sơn La, năm 2014


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

DƢƠNG THỊ MINH HUỆ

MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA
VẬT CHẤT TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ THẾ GIỚI

CHO HỌC SINH LỚP 10 THPT

Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học Lịch sử

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn: ThS. Chu Mai Hƣơng


Sơn La, năm 2014


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa luận này cùng với sự nỗ lực của bản thân, tôi còn
được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô Chu Mai Hương. Ngoài ra tôi cũng
đã nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Sử-Địa, cán bộ thư viện của
trường Đại học Tây Bắc cũng như gia đình và bạn bè.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới cô Chu
Mai Hương – giảng viên khoa Sử-Địa, cũng như toàn thể các thầy cô trong khoa
Sử-Địa trường Đại học Tây Bắc.
Qua đây, tôi cũng xin chân thành cảm ơn phòng thư viện trường Đại học
Tây Bắc, gia đình và bạn bè đã giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi thực hiện và hoàn thiện khóa luận này.
Sơn La, tháng 5 năm 2014
Tác giả
Dương Thị Minh Huệ


DANH MỤC VIẾT TẮT
THPT

: Trung học phổ thông

GV

: Giáo viên


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề...................................................................................................3
2.1. Nguồn tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài.........................................................3
2.2. Công trình nghiên cứu trong nước.................................................................4
3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài........................................................................5
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu......................................5
4.1. Cơ sở phương pháp luận................................................................................ 5
4.2. Phương pháp nghiên cứu................................................................................5
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài.................................................................................5
6. Bố cục của đề tài............................................................................................... 6
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VIỆC TẠO BIỂU TƢỢNG VĂN HÓA
VẬT CHẤT TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG THPT.................7
1. Cơ sở lí luận chung.......................................................................................... 7
1.1. Quan niệm......................................................................................................7
1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tượng văn hóa vật chất trong dạy học lịch
sử ở trường THPT................................................................................................. 9
2. Thực tiễn của việc tạo biểu tượng văn hóa vật chất ở trường THPT.............14
2.1. Về phía giáo viên......................................................................................... 14
2.2. Về phía học sinh...........................................................................................16
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO BIỂU TƢỢNG VĂN HÓA VẬT

CHẤT TRONG DẠY HỌC PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI CHO HỌC SINH
LỚP 10 THPT....................................................................................................18
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung của phần lịch sử thế giới lớp 10 THPT...............18
2.2. Các loại văn hóa vật chất cần tạo biểu tượng cho học sinh khi dạy phần
Lịch sử thế giới lớp 10 THPT............................................................................. 20
2.3. Một số biện pháp tạo biểu tượng văn hóa vật chất khi dạy phần lịch sử thế
giới thời nguyên thủy cổ đại và trung đại, lớp 10 THPT...................................23
KẾT LUẬN........................................................................................................55



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lê nin đã từng nói “Học, học nữa, học mãi. Câu nói đó được coi như một
chân lí của thời đại. Có ai đó đã từng nói “Học vấn là con đường ngắn nhất để đi
đến thành công”. Cùng với ý nghĩa đó thì “Nghề giáo dục được coi là nghề cao
quý nhất trong những nghề cao quý”. Đầu tư cho giáo dục là chìa khóa của sự
phát triển. Đó là những lí do mà đầu tư phát triển giáo dục là một trong những
mối quan tâm và là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta. Luật giáo dục được
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X thông qua ngày 25 tháng 12
năm 2011 đã nêu: “Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát
triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung
thành với lí tưởng dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc”(trích dẫn).
Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông có vai trò quan trọng trong việc hoàn
thành mục tiêu của nền giáo dục nước nhà, đặc biệt là ưu thế trong việc giáo dục
thế hệ trẻ. Với tư cách là một môn khoa học, Lịch sử có vai trò quan trọng trong
việc đào tạo, giáo dục học sinh trở thành một con người toàn diện. Môn Lịch sử
có nhiều ưu thế trong giáo dục đạo đức, thẩm mĩ, thế giới quan khoa học cho
học sinh như: giáo dục lòng yêu nước, truyền thống dân tộc, lòng biết ơn Đảng,
Bác Hồ…Lịch sử không chỉ giáo dục cho học sinh tình cảm yêu ghét, trong đấu
tranh giai cấp mà còn bồi dưỡng cho các em năng lực đối xử với mọi người xung
quanh, biết yêu quý cái đẹp, yêu lao động, sự căm thù quân cướp nước và chủ
nghĩa anh hùng cách mạng, khơi dậy ở học sinh sự thông cảm sâu sắc và lòng
kính yêu đối với quần chúng nhân dân. Bởi vậy Lịch sử chính là “Cô giáo của
cuộc sống”, giúp các em có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, và kế tục
xứng đáng sự nghiệp cách mạng của cha ông trong công cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước.

Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy chất lượng giáo dục nói chung, chất lượng
dạy học Lịch sử nói riêng vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu xây dựng và
1


phát triển đất nước việc đổi mới phương pháp nâng cao chất lượng dạy học Lịch
sử đang là vấn đề cấp thiết đặt ra.
Thông qua lí luận dạy học nói chung và lí luận dạy học lịch sử nói riêng
thì quá trình dạy học lịch sử trước hết là quá trình tổ chức hoạt động nhận thức
lịch sử của học sinh, tuân theo quy luật “từ trực quan sinh động đến tư duy trìu
tượng, từ tư duy trìu tượng đến thực tiễn. Nghĩa là dạy học lịch sử phải dựa trên
cơ sở cung cấp sự kiện, tạo biểu tượng, hình thành khái niệm, rút ra quy luật bài
học lịch sử phục vụ cho thực tiễn cuộc sống.
Do đặc trưng của kiến thức lịch sử và nhận thức lịch sử là không trực tiếp
quan sát nên việc học tập lịch sử phải dựa trên cơ sở nắm bắt sự kiện và tạo biểu
tượng lịch sử. Vì vậy trong dạy học lịch sử, việc tạo biểu tượng có vai trò rất
quan trọng. Đặc biệt là tạo biểu tượng về văn hóa vật chất, bởi văn hóa vật chất
là bức tranh quá khứ giúp chúng ta hình dung ra quá khứ một cách đầy đủ và
chính xác nhất. Tuy nhiên, trong dạy học lịch sử một bộ phận giáo viên chưa gắn
liền sự kiện lịch sử với các nền văn hóa vật chất, chưa khắc họa sinh động về các
loại văn hóa vật chất đó. Vì vậy thực tế cho thấy hiện tượng học sinh nhầm hoặc
không hiểu thậm chí thường “hiện đại hóa” lịch sử khi học tập lịch sử.
Dạy và học bộ môn lịch sử được xem là một nội dung quan trọng trong
việc giáo dục đạo đức, tình cảm cho học sinh trong nhà trường hiện nay. Tạo
biểu tượng về văn hóa vật chất một cách sinh động có sức thuyết phục đặc biệt
đối với học sinh. Biểu tượng sinh động gây cho các em hứng thú học tập lịch sử,
đồng thời khơi dậy mạnh mẽ những xúc cảm lịch sử đúng đắn, góp phần hình
thành nên nhân cách học sinh. Bên cạnh đó phát huy năng lực nhận thức độc lập
ở các em khi hiểu sâu sắc sự kiện lịch sử.
Trong dạy học lịch sử phổ thông hiện nay, phương pháp tạo biểu tượng

văn hóa vật chất đưa vào sử dụng nhiều và có nhiều ưu điểm như: giúp học sinh
nắm vững kiến thức một cách sâu sắc, cụ thể và tạo niềm đam mê khi học bộ
môn Lịch sử. Ngoài ra giáo dục phổ thông gần đây đã chú trọng vào việc đổi
mới phương pháp theo hướng lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực
của học sinh.
2


Giảng dạy lịch sử thế giới sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 THPT có vị trí
quan trọng trong toàn bộ tiến trình lịch sử thế giới, với nội dung phong phú và
đa dạng về các loại văn hóa vật chất để tạo biểu tượng cho học sinh. Việc tạo
biểu tượng chân thực về các loại văn hóa vật chất sẽ giúp học sinh hình dung
được bức tranh lịch sử sinh động của các dân tộc khác trên thế giới trong đó có
Việt Nam. Trên cơ sở đó, hình thành ở các em thái độ khâm phục, trân trọng, giữ
gìn, phát huy đối với các loại văn hóa vật chất đó. Đồng thời có thái độ lên án,
căm ghét đối với những hành động phá hoại. Tuy nhiên, việc tạo biểu tượng văn
hóa vật chất, để phát huy được hiệu quả thì phải đặt trong sự phối hợp hài hòa
với hệ thống các phương pháp dạy học lịch sử khác của bộ môn và được tiến
hành với nhiều biện pháp như sử dụng phương pháp miêu tả, phương pháp trao
đổi đàm thoại, sử dụng các câu truyện lịch sử,..để tạo biểu tượng các loại văn
hóa vật chất.
Đó là những lý do cơ bản để tôi chọn đề tài “Một số biện pháp tạo biểu
tượng văn hóa vật chất trong dạy học lịch sử thế giới cho học sinh lớp 10
THPT” với mong muốn bước đầu đi sâu nghiên cứu các biện pháp tạo biểu
tượng các loại văn hóa vật chất. Hơn nữa giải quyết tốt đề tài này sẽ là cơ sở vận
dụng nó một cách có hiệu quả trong dạy học lịch sử ở trường THPT hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề tạo biểu tượng văn hóa vật chất trong dạy học lịch sử từ lâu đã thu
hút được sự quan tâm đông đảo của các nhà giáo dục học, các nhà giáo dục lịch
sử, các thầy cô đang trực tiếp giảng dạy ở trường phổ thông. Đã có nhiều công

trình trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề này với nhiều mức độ khác nhau.
2.1. Nguồn tài liệu dịch từ tiếng nước ngoài
Trong tác phẩm: “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào”, NXB Giáo dục
học, Hà Nội – 1973, Đai ri – Nhà giáo dục học Liên Xô đã đưa ra quan niệm:
việc cảm thụ bằng nghe ở nhiều học sinh phát triển hơn là sự cảm thụ bằng nhìn
thấy, theo tiến sĩ N.G. Đai ri muốn cho học sinh phân biệt được các thời kỳ lịch
sử, không chỉ theo niên đại mà còn qua bộ mặt đời sống xã hội thì điều đó không
thể đạt được nếu không mở rộng tối đa các nguồn kiến thức, cần phải nghiên
3


cứu lịch sử qua các tác phẩm hội họa, kiến trúc, điêu khắc, coi các tác phẩm này
là những nguồn kiến thức lịch sử.
Ngoài ra trong tác phẩm lí luận dạy học của M.N.Sacdacop “Tư duy học
sinh”, NXB GD, HN, 1970 đã đề cập đến việc tạo biểu tượng lịch sử như là một
trong các khâu không thể thiếu của quá trình nhận thức lịch sử.
2.2. Công trình nghiên cứu trong nước
Các nhà giáo dục lịch sử Phan Ngọc Liên (chủ biên), Trịnh Đình Tùng,
Nguyễn Thị Côi trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử”, tập 1, 2, NXB
ĐHSP 2002; đã giành hẳn một phần nói về vấn đề “ tạo biểu tượng văn hóa vật
chất trong đó khẳng định tạo biểu tượng văn hóa vật chất trong dạy học lịch sử
gây hứng thú trong học tập cho học sinh nâng cao hiệu quả cho bài học lịch sử.
Trần Tuyết Oanh trong cuốn giáo trình “Giáo dục học tập 1”, NXB
ĐHSP, 2006.
Ngoài ra các bài viết trong tạp chí chuyên môn, tạp chí nghiên cứu giáo
dục, tạp chí thông tin khoa học giáo dục cũng đã đề cập đến vấn đề tạo biểu
tượng văn hóa vật chất trong việc dạy học lịch sử.
Trong cuốn “Một số chuyên đề phương pháp dạy học Lịch sử” do tác giả
Phan Ngọc Liên-Trịnh Đình Tùng-Nguyễn Thị Côi-Trần Vĩnh Tường đồng chủ
biên. Bài viết của tiến sĩ Đặng Văn Hồ - khoa Lịch sử - ĐHSP-ĐH Huế với nhan

đề “tạo biểu tượng về nhân vật lịch sử để giáo dục tư tưởng, tình cảm cho học
sinh” đã nêu lên những lí luận cơ bản về tạo biểu tượng nhân vật lịch sử, vai trò,
ý nghĩa của việc tạo biểu tượng nhân vật lịch sử, các nguyên tắc và một số biện
pháp cụ thể.
Tuy nhiên, các công trình chỉ dừng lại ở mức độ lí luận chung, chưa đi sâu
nghiên cứu về phương pháp tạo biểu tượng về văn hóa vật chất trong dạy học
lịch sử nhất là khi dạy học phần Lịch sử thế giới cho học sinh lớp 10 THPT.
Vậy nên, tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp tạo biểu tượng về văn
hóa vật chất trong dạy học Lịch sử thế giới lớp 10 THPT làm khóa luận tốt
nghiệp với mong muốn bước đầu đi sâu nghiên cứu và tìm hiểu hệ thống hơn về
các biện pháp tạo biểu tượng văn hóa vật chất cho học sinh. Từ đó, tích lũy thêm
kinh nghiệm cho quá trình giảng dạy lịch sử sau này ở trường THPT.
4


3. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để thực hiện mục đích trên, đề tài cần giải quyết các nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu lí luận chung về phương pháp tạo biểu tượng về văn hóa vật chất
trong dạy học lịch sử lớp 10 ở trường phổ thông.
Tìm hiểu chương trình sách giáo khoa Lịch sử lớp 10 phần 1 Lịch sử thế
giới. Đề xuất một số biện pháp để tạo biểu tượng văn hóa vật chất.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở phương pháp luận
Khóa luận được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa MacLenin, tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về giáo dục nói
chung và giáo dục lịch sử nói riêng, lý luận của các nhà nghiên cứu giáo dục,
giáo dục lịch sử.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu một số tác phẩm của chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ tịch Hồ Chí
Minh, chủ trương của Nhà nước ta về nhận thức giáo dục nói chung và giáo dục
lịch sử nói riêng.

Nghiên cứu một số công trình của các nhà giáo dục và các tài liệu có liên
quan.
Nghiên cứu toàn bộ mục tiêu, nội dung của phần 1 Lịch sử thế giới lớp 10
(chương trình chuẩn).
Trên cơ sở khóa luận thuộc chuyên ngành “phương pháp dạy học Lịch
sử”. Bên cạnh những phương pháp nghiên cứu khoa học nói chung: nghiên cứu
tài liệu, phân tích, tổng hợp, so sánh khái quát hóa đề tài còn sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu chủ đạo:
Phương pháp điều tra.
Thực nghiệm sư phạm: dự giờ, giáo án thực nghiệm.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Do điều kiện thời gian và trình độ có hạn, đề tài chỉ giới hạn ở việc đề
xuất một số một số biện pháp tạo biểu tượng văn hóa vật chất trong dạy học lịch
5


sử thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại, lớp 10 THPT (chương trình
chuẩn) khi dạy học những bài nội khóa ở trên lớp.
6. Bố cục của đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần phục lục, mục lục và danh
mục tài liệu tham khảo thì nội dung chính gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận về việc tạo biểu tượng văn hóa vật chất trong dạy
học lịch sử ở trường THPT.
Chương 2: Một số biện pháp tạo biểu tượng văn hóa vật chất trong lịch sử
thế giới nguyên thủy cổ đại và trung đại cho học sinh lớp 10 THPT.

6


CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VIỆC TẠO BIỂU TƢỢNG VĂN HÓA


VẬT CHẤT TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƢỜNG THPT
1. Cơ sở lí luận chung
1.1. Quan niệm
1.1.1. Quan niệm về biểu tượng lịch sử
Do đặc điểm của nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không bắt đầu từ
trực quan sinh động mà từ việc nắm sự kiện và tạo biểu tượng lịch sử. Tuy vậy,
việc học tập lịch sử cũng tuân thủ quy luật chung của quá trình nhận thức: qua
hai giai đoạn nhận thức cảm tính và nhận thức lí tính. Có thể nói tạo biểu tượng
là giai đoạn nhận thức cảm tính của quá trình học tập lịch sử.
Biểu tượng là khái niệm được giải thích ở các mức độ và lĩnh vực nhận
thức khác nhau. Theo tâm lí học thì biểu tượng là biểu tượng của ký ức. Tức là
những hình ảnh của các sự vật, hiện tượng không phải đang được tri giác mà là
đã được tri giác trước đây. Trong quá trình tri giác thế giới khách quan, con
người phản ánh sự vật và hiện tượng xung quanh mình dưới dạng các hình ảnh
và sự phản ánh đó mang tính trực quan. Các hình ảnh trực quan đó luôn tác động
lên các cơ quan thụ cảm khác nhau của hệ thần kinh con người và được duy trì
một khoảng thời gian nhất định trong ý thức của họ. Với quan niệm trên P. A.
Ruđích cho rằng biểu tượng là “Những hình ảnh của các sự vật, hiện tượng của
thế giới xung quanh được giữ lại trong ý thức và hình thành trên cơ sở các tri
giác và các cảm giác xảy ra trước đó”. Tuy nhiên, trong thực tế các biểu tượng
thường mờ nhạt hơn các tri giác và những dấu hiệu về các sự vật, hiện tượng đã
tri giác được có thể không có trong biểu tượng. Quá trình tri giác luôn mang tính
trực quan cụ thể. Các hình ảnh của biểu tượng phản ánh những đặc điểm bên
ngoài của sự vật, hiện tượng. Và trong những trường hợp khác nó phản ánh cả
những đặc điểm bên trong của sự vật. Đó là sự nhận thức của hoạt động tư duy.
Như vậy, theo tâm lí học biểu tượng là những hình ảnh trực quan nảy sinh trong
não người về những sự vật và hiện tượng đã được tri giác trước đây.
Do đặc trưng của sự nhận thức lịch sử, việc học tập lịch sử không bắt đầu
từ trực quan sinh động. Vì lịch sử là những cái đã qua, không thể trực tiếp quan

7


sát quá khứ cũng như tái tạo lại nó trong phòng thí nghiệm như toán học, hoá
học hay vật lí. Bởi vậy, việc học lịch sử phải bắt đầu từ việc nắm các sự kiện và
tạo biểu tượng lịch sử. Trong học tập lịch sử không có biểu tượng nảy sinh từ
những trực giác đối với các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Mà việc hình thành nên
những biểu tượng lịch sử phải dựa trên những sự kiện, hiện tượng đã được con
người nhận thức từ trước để nhằm tái tạo lại một cách chính xác và sinh động.
Ví dụ, khi tạo biểu tượng lịch sử về không gian địa lí là thung lũng Điện
Biên Phủ trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Chúng ta không được trực
tiếp quan sát trận địa Điện Biên Phủ tại thời điểm đó được bố trí giữa ta và địch
như thế nào. Muốn tạo được biểu tượng, chúng ta phải sử dụng những hình ảnh,
ghi chép của các phóng viên, nhà báo hay nhà kí sự chiến tranh đã từng được
chứng kiến hay nghe kể. Khi đó, biểu tượng lịch sử được hình thành dựa trên cơ
sở của sự tri giác gián tiếp.
Với những quan niệm trên, có thể hiểu biểu tượng lịch sử “Là hình ảnh về
những sự kiện, nhân vật lịch sử, điều kiện địa lí vv... được phản ánh trong óc
học sinh với những nét chung nhất, điển hình nhất”.
Cũng như biểu tượng nói chung, biểu tượng lịch sử tái hiện những đặc
trưng cơ bản nhất của sự kiện, hiện tượng lịch sử. Tuy nhiên, việc tạo biểu tượng
lịch sử cho học sinh không chỉ dừng lại ở việc miêu tả bề ngoài mà còn đi sâu
vào bản chất sự kiện, nêu đặc trưng, tính chất của sự kiện để tiến tới việc nắm
khái niệm lịch sử. Vì vậy, biểu tượng lịch sử rất gần với khái niệm sở đẳng (còn
gọi là khái niệm đơn giản). Nói cách khác biểu tượng lịch sử là cơ sở để hình
thành khái niệm.
1.1.2. Quan niệm về biểu tượng văn hóa vật chất
Văn hóa là sản phẩm của con người là quan niệm về cuộc sống, tổ chức
cuộc sống và toàn bộ cách ứng xử của con người trong cuộc sống đó. Văn hóa
vật chất chính là các điểm hội tụ sáng nhất, là tinh hoa trí tuệ của loài người.

Văn hóa là tổng thể các giá trị tinh thần do loài người tạo ra, trong đó giá
trị vật chất như: Cổng I-sơ-ta-thành Babilon ở Lưỡng Hà, Kim tự tháp ở Ai Cập,

8


đền Pác-tê-nông ở Hy Lạp, đấu trường Rô-ma, một đoạn Vạn Lí Trường Thành
ở Trung Quốc…đều thuộc giá trị vật chất.
Văn hóa vật chất tạo ra phương thức hành động của con người để tồn tại
trong đó đời sống vật chất thường gọi là văn minh. Văn hóa vật chất qua mỗi
thời kì lịch sử luôn biến động theo đà phát triển của khoa học kĩ thuật.
Như vậy, biểu tượng về nên văn hóa vật chất. Đó là những thành tựu của
loài người trong việc chế ngự thiên nhiên, trong lao động sáng tạo sản xuất ra
của cải vật chất cũng như văn hóa tinh thần của xã hội loài người. Ví dụ, khi nói
về Kim tự tháp một công trình kiến trúc vô tiền khoáng hậu của lịch sử loài
người thì giáo viên phải tạo cho học sinh những biểu tượng về sự hùng vĩ của
công trình này, về tinh thần sáng tạo và trình độ kiến trúc của các nhà khoa học
cổ đại và sự hi sinh đổ máu của hàng vạn người để xây dựng.
1.2. Vai trò, ý nghĩa của việc tạo biểu tƣợng văn hóa vật chất trong dạy học
lịch sử ở trƣờng THPT
1.2.1. Vai trò của việc tạo biểu tượng văn hóa vật chất trong dạy học
lịch sử ở trường THPT
Lênin đã từng nói “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn”. Qúa trình nhận thức nói chung, nhận thức lịch sử
nói riêng đều tuân thủ theo quy luật này: Tức là đi từ cảm tính đến lý tính: từ
cảm giác, tri giác, biểu tượng, khái niệm đến phán đoán và suy luật. Trong đó,
biểu tượng lịch sử có quan hệ hữu cơ với tất cả các qúa trình nhận thức trên. Nó
đóng góp vai trò quan trọng trong qúa trình tri giác. Nếu không có biểu tượng
xuất hiện bằng việc liên kết với các hình ảnh của tri giác thì các hình ảnh lịch sử
này sẽ nghèo nàn và khô khan. Quá trình tri giác trở thành biểu tượng lịch sử là

cơ sở để hình thành khái niệm, từ đó phát triển óc phán đoán suy luận của con
người. Học tập lịch sử cũng tuân theo qúa trình nhận thức hiện thực khách quan.
Tuy nhiên, do đặc trưng riêng biệt của nhận thức lịch sử, việc học lịch sử phải
dựa trên cơ sở nắm bắt sự kiện và tạo biểu tượng lịch sử từ đó tiến tới hình thành
khái niệm, rút ra quy luật và bài học lịch sử cho học sinh. Vì vậy, biểu tượng
lịch sử chính là giai đoạn nhận thức cảm tính của qúa trình học tập lịch sử. Nếu
9


như không tạo biểu tượng thì hình ảnh lịch sử mà học sinh thu nhận sẽ nghèo
nàn, hiểu biết lịch sử không sâu sắc, không phát triển tư duy và không có cơ sở
hình thành khái niệm.
Sự thống nhất giữa tạo biểu tượng và hình thành khái niệm trong học tập
lịch sử là một trong những đặc điểm chung của phát triển tư duy. Hai qúa trình
này vừa tiến hành một cách độc lập, vừa hòa vào nhau trong một thể thống nhất.
Biểu tượng là sự minh họa cụ thể cho khái niệm bằng những hình ảnh sinh động.
Nội dung của các hình ảnh lịch sử, của bức tranh quá khứ càng phong phú bao
nhiêu thì hệ thống khái niệm mà học sinh thu nhận được càng vững chắc bấy
nhiêu. Bởi vậy, biểu tượng rất gần với khái niệm sơ đẳng, không chỉ dừng lại ở
đó việc tạo biểu tượng còn đóng vai trò quan trọng trong việc rút ra quy luật và
bài học lịch sử, có vai trò cũng như ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc nâng
cao chất lượng giáo dục lịch sử. Bởi thông qua những biện pháp tạo biểu tượng
nó giúp cho học sinh tiếp cận với lịch sử một cách nhanh nhất, chân thực nhất
cũng như những hình ảnh kiến thức được đọng lại trong óc học sinh lâu nhất.
1.2.2. Ý nghĩa
1.2.2.1. Về nhận thức
Biểu tượng văn hóa vật chất có ưu thế trong việc giúp học sinh nắm vững
về những cơ sở văn hóa vật chất, chúng được ra đời ở đâu, trong khoảng thời
gian nào, các địa điểm văn hóa vật chất trong mỗi thời kì lịch sử ra sao. Từ đó
hiểu sâu các vấn đề lịch sử, các thời đại lịch sử. Như vậy, tạo biểu tượng về văn

hóa vật chất có tác dụng cụ thể hoá một số sự kiện lịch sử, làm sáng tỏ những
vấn đề cơ bản của lịch sử.
Mặt khác, tạo biểu tượng về văn hóa vật chất còn giúp cho học sinh tránh
được những sai lầm về “hiện đại hóa” lịch sử, những nhận thức thiếu chủ quan,
phiến diện và đánh giá, nhận định tình hình thiếu cơ sở khoa học. Bởi vì những
tư liệu phong phú về văn hóa vật chất sẽ giúp cho học sinh có sự nhận thức
khách quan và thiếu độ tin tưởng chính xác cao đối với các sự kiện, hiện tượng.

10


1.2.2.2 Về thái độ
Trong dạy học phổ thông, bộ môn Lịch sử có vai trò giáo dục tư tưởng,
đạo
đức, tình cảm cho học sinh rất lớn. Đặc biệt việc tạo biểu tượng sinh động, hấp
dẫn về các sự kiện, hiện tượng, nhất là về văn hóa vật chất sẽ có tác động sâu sắc
đến tư tưởng tình cảm các em. Bởi vì đó là những biểu tượng về sự sáng tạo con
người trong quá khứ. Trong một hoàn cảnh cụ thể, sự sáng tạo của con người có
tác động mạnh đến tư tưởng, tình cảm ở các em. Các em không chỉ tri giác mà
còn có những tình cảm, thán phục và tôn trọng những giá trị văn hóa vật chất
của lịch sử. Biểu tượng văn hóa vật chất tác động không những đến trí tuệ mà cả
về tâm hồn và tình cảm, là yếu tố hình thành nên nhân cách của học sinh.
Thông qua các bài học lịch sử, những hành động sáng tạo, trí tuệ của con
người có sức hấp dẫn lôi cuốn cực kỳ đối với học sinh. Vì ở độ tuổi các em tình
cảm dễ bị tác động và có những xúc cảm lịch sử sâu sắc. Từ đó, hình thành ở các
em lòng khâm phục, biết ơn, tự hào đối với các dân tộc đã làm lên những giá trị
to lớn về văn hóa vật chất. Đồng thời có ý thức tự giác bảo vệ và có trách nhiệm
đối với những giá trị văn hóa vật chất đó. Ngược lại, các hành động phá hoại sẽ
hình thành ở các em thái độ căm ghét. Biểu tượng về văn hóa vật chất phong phú
sẽ giúp các em nhận thức được cái đẹp, loại trừ cái xấu để chọn lọc học tập.

1.2.2.3. Về kĩ năng
Biểu tượng văn hóa vật chất là một trong những biện pháp quan trọng làm
cho hoạt động trí tuệ của học sinh không ngừng phát triển. Vì thông qua việc
giáo viên sử dụng kết hợp các đồ dùng trực quan, tư liệu lịch sử, học sinh phải
huy động trí óc quan sát, tư duy và tưởng tượng để có được biểu tượng lịch sử
đúng đắn nhất.
Việc tạo biểu văn hóa vật chất là cơ sở để tiến tới sự nhận thức lý tính của
hiện thực lịch sử, là điều kiện để cho học sinh nhận thức lịch sử đúng đắn, tiến
tới hình thành khái niệm.
1.2.3. Yêu cầu của việc tạo biểu tượng trong dạy học lịch sử

11


Để hình thành khái niệm lịch sử cho học sinh có nhiều con đường khác
nhau, mỗi con đường thực hiện đều có cách thức yêu cầu riêng. Với biện pháp
tạo biểu tượng văn hóa vật chất trong dạy học lịch sử cũng cần một số yêu cầu
cụ thể.
Thứ nhất, phải căn cứ vào nội dung, mục tiêu giáo dục, giáo dưỡng và
phát triển của bài học để lựa chọn cách tạo biểu tượng (tranh ảnh, mô hình, sa
bàn,...) phù hợp và tiêu biểu cho bài học lịch sử.
Ví dụ, khi dạy bài 9 “Vƣơng quốc Campuchia và vƣơng quốc Lào”
phần Lịch sử thế giới lớp 10 giáo viên cần có tranh ảnh về Ăngcovat ở
Campuchia và tháp Thạp Luổng ở Viêng chăn-Lào để tạo biểu tượng văn hóa
vật chất cho học sinh.
Thứ hai, với mỗi loại văn hóa vật chất phải tìm ra biện pháp tạo biểu
tượng hợp lí nhất.
Ví dụ, khi dạy bài 4 “Các quốc gia cổ đại phƣơng Tây Hilap và Rôma”
phần 1 có hình “Xưởng chế biến dầu ôliu ở Nam Italia” với hình này giáo viên
cần có tranh ảnh để tạo biểu tượng cho học sinh, cũng trong bài này phần 2 có

hình 7 “Pê-ri-cret (495-429 TCN)” với hình này giáo viên có thể sử dụng tài liệu
về tiểu sử của nhân vật để tạo biểu tượng.
Thứ ba, sử dụng phương pháp tạo biểu tượng phải kết hợp với các biện
pháp, con đường sư phạm và con đường tiêu biểu nhất là trình bày miệng và sử
dụng phương tiện kỹ thuật vào dạy học.
Ví dụ, khi dạy bài 3 “Các quốc gia cổ đại phƣơng đông” khi dạy đến
phần 5 văn hóa phương Đông có hình 4 “Cổng I-sơ-ta thành Babilon ở Lưỡng
Hà” và hình 5 “Kim tự tháp”, khi tạo biểu tượng giáo viên cần sử dụng đồ dùng
trực quan kết hợp với việc trình bày miệng để giúp học sinh có cái nhìn khái
quát hiểu sâu về công trình này.
Thứ tư, tạo biểu tượng đảm bảo phát huy tính chủ động, tích cực của học
sinh, sử dụng con đường phát vấn và nêu vấn đề.

12


Ví dụ, khi dạy bài 1 “Sự xuất hiện loài ngƣời và bầy ngƣời nguyên
thủy” có hình 1 “Người tối cổ” khi tạo biểu tượng về hình người tối cổ giáo
viên phải nêu ra các câu hỏi để phát vấn học sinh ví dụ như
Quan sát vào hinh 1 trong sách giáo khoa em hãy cho biết một số đặc
điểm của người tối cổ (trán, u mày, hàm răng, cằm).
Sau khi đã nêu được một số đặc điểm của người tối cổ giáo viên có thể
đưa ra câu hỏi: Người tối cổ là gì? Như vậy, sau khi giáo viên đưa ra câu hỏi
học sinh trả lời được, học sinh đã có những kiến thức cơ bản về người tối cổ.
Thứ năm, khi tạo biểu tượng giáo viên trình bày miệng kết hợp với sử
dụng đồ dùng trực quan. Vì vậy, giáo viên phải luyện tập thường xuyên với các
loại đồ dùng trực quan.
Khi tạo biểu tượng cho học sinh về Kim tự tháp ở Ai Cập giáo viên sử
dụng đồ dùng trực quan kết hợp với việc trình bày miệng, giáo viên phải luyện
tập thường xuyên thành thạo với máy tính và máy chiếu, trình bày miệng phải

lưu loát dễ hiểu để việc tạo biểu tượng đạt hiệu quả cao.
Thứ sáu, đòi hỏi người giáo viên nắm vững chuyên môn. Biểu tượng lịch
sử về nền văn hóa vật chất đó là những hình ảnh cụ thể về thành tựu của loài
người trong cuộc chiến chống lại thiên nhiên, trong lao động, sáng tạo, sản xuất
ra của cải vật chất cũng như văn hóa tinh thần của xã hội loài người. Để tạo biểu
tượng giáo viên cần nắm vững chuyên môn, phải đọc nhiều tài liệu và tìm nhiều
hình ảnh liên quan đến biểu tượng cần tạo sau đó chọn những dữ liệu cần thiết
cho việc tạo biểu tượng
Thời gian chuẩn bị cho một sự kiện, hiện tượng lịch sử khá lâu, mất nhiều
công sức, tiền của. Như chúng ta đã biết để tạo được một biểu tượng văn hóa vật
chất giáo viên cần có các phương tiện kĩ thuật để phục vụ cho việc tạo biểu
tượng, phải chuẩn bị hình ảnh phóng to các hình ảnh mà mình cần tạo biểu
tượng và việc tạo biểu tượng mất rất nhiều thời gian.
Trong giờ học tạo biểu tượng sẽ giúp học sinh hứng thú với giờ học, song
việc tạo biểu tượng sẽ làm mất thời gian của giáo viên và có thể làm cho giờ học
trở thành một cuộc trò truyện của học sinh. Vì khi tạo biểu tượng, nếu giáo viên
13


tạo biểu tượng không đúng mục đích và nội dung cần sử dụng trong bài học thì
đây sẽ trở thành chủ đề để học sinh trò truyện.
Dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông chưa khắc phục được tình trạng
nặng nề về nội dung chương trình, nhiều giáo viên vẫn nặng về cung cấp kiến
thức, chưa áp dụng phương pháp mới tích cực, vẫn nặng về lối truyền thụ một
chiều, đọc chép, thầy dạy thế nào, trò tiếp thu thế ấy. Làm các em trở nên thụ
động khi tiếp nhận kiến thức, không phát huy được các năng lực tư duy, sáng
tạo, khả năng làm việc độc lập khi giải quyết nội dung bài học. Hậu quả của nó
là lối học thụ động, thiếu sáng tạo và hàng loạt các hiện tượng tiêu cực trong
kiểm tra, đánh giá, thi cử, làm chất lượng dạy học bộ môn suy giảm. Chất lượng
môn Lịch sử giảm sút do nhiều nguyên nhân. Một số ý kiến cho rằng bộ môn

Lịch sử vẫn chưa khắc phục được tình trạng nặng nề về nội dung, trong khi đó
thời gian dành cho bộ môn theo chương trình lịch sử là quá ít chỉ từ 1 - 2
tiết/tuần. Thời gian ngắn nên hầu hết các giáo viên chỉ thiên về thuyết trình và
không có sự phát huy tích cực của học sinh, kết quả là học sinh học một cách thụ
động, thiếu sáng tạo. Điều đặc biệt hơn cả làm cho chất lượng môn Lịch sử giảm
sút.
Trong những năm qua, việc đổi mới phương pháp dạy học lịch sử đã được
quan tâm và bước đầu có sự thay đổi, nhưng nhìn chung việc dạy và học theo
kiểu truyền thống còn phổ biến “thầy đọc - trò ghi” không chú ý đến việc phát
huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh. Phần lớn giáo viên không có những
phương pháp để tạo biểu tượng văn hóa vật chất, họ cho rằng những hình ảnh
trong sách giáo khoa không phải là kênh truyền đạt thông tin cho học sinh.
2. Thực tiễn của việc tạo biểu tƣợng văn hóa vật chất ở trƣờng THPT
2.1. Về phía giáo viên
Bên cạnh những mặt đã đạt được, trong thực trạng chung của nền giáo
dục, chất lượng dạy học môn Lịch sử hiện nay tồn tại rất nhiều vấn đề cần khắc
phục có thể nói bộ môn chưa đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn xây
dựng và phát triển đất nước .

14


Thứ nhất, một số giáo viên còn chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc
đổi mới phương pháp dạy học. Do đó, chưa khắc phục được những sai lầm, yếu
kém trong dạy học vẫn “đường mòn” kinh nghiệm chủ nghĩa truyền thụ kiến thức.
Thứ hai, một số giáo viên nhận thức được điểm mấu chốt của việc đổi mới
phương pháp dạy học là “lấy học sinh làm trung tâm” nhưng những biện pháp phát
huy tính tích cực của học sinh lại mang tính hình thức và máy móc, vấn đề tạo biểu
tượng trong giờ học chưa được giáo viên quan tâm và sử dụng biện pháp tạo biểu
tượng vào giờ dạy học. Vì vậy nhiều giáo viên biến giờ dạy học môn Lịch sử hình

thành “hỏi và đáp”, khiến giờ học trở nên căng thẳng và khô khan.

Thứ ba, ở các vùng sâu, vùng xa do điều kiện còn khó khăn ở các trường
học còn thiếu các thiết bị, phương tiện dạy học phục vụ cho quá trình dạy học, vì
vậy giáo viên chưa áp dụng được phương pháp dạy học tích cực để phát huy tính
tư duy, sáng tạo của học sinh. Việc tạo biểu tượng cho học sinh trong dạy học
chưa được giáo viên áp dụng vào việc giảng dạy bộ môn. Do đó, chất lượng học
tập môn Lịch sử còn thấp.
Thứ tư, phương pháp dạy học ở trường phổ thông hiện nay và đặc biệt là ở
vùng sâu, vùng xa chưa theo kịp chương trình và sách giáo khoa. Phần lớn giáo
viên phụ thuộc vào sách giáo khoa nhất là phần kênh chữ. Giáo viên chưa khai
thác được các kênh hình trong sách giáo khoa, để khai thác được các kênh hình
một trong những biện pháp để khai thác là giáo viên phải tạo biểu tượng mà việc
tạo biểu tượng cho học sinh trong quá trình dạy học lại chưa được giáo viên áp
dụng vào việc giảng dạy và khai thác kênh hình.
Thứ năm, quan niệm cho rằng bộ môn Lịch sử là một môn học phụ vẫn
còn tồn tại nhiều. Nên đã tác động đến tâm lí cả giáo viên và học sinh yếu tố coi
thường, đối phó dạy và học. Đồng thời, hiện nay nền kinh tế thị trường, thương
mại hóa giáo dục càng tác động to lớn đến chất lượng dạy học. Mà tác động tiêu
cực của nó là việc một số thầy cô chưa trau dồi nghề nghiệp của mình thật tốt.
Mặt khác, về chủ quan nhận thức của giáo viên và học sinh về vị trí và tác
động của bộ môn Lịch sử đều chưa sâu sắc. Dẫn đến việc thiếu trau dồi nội dung
kiến thức của giáo viên, trong đó có tạo biểu tượng văn hóa vật chất nên truyền
đạt không gây được sự hứng thú học tập của các em. Vì vậy, hệ thống các biện
15


pháp tạo biểu tượng văn hóa vật chất để giáo viên vận dụng có hiệu quả vào
giảng dạy là vấn đề quan trọng và hết sức cần thiết, góp phần nâng cao chất
lượng dạy học bộ môn.

2.2. Về phía học sinh
Qua thực tiễn dạy học bộ môn cho thấy không ít học sinh xa rời, coi
thường bộ môn Lịch sử, coi môn Sử là môn học phụ. Do đó, các em đã không
chú ý đến việc học tập bộ môn vì vậy chất lượng học tập bộ môn giảm sút.
Một số học sinh không thích học môn Lịch sử vì cho rằng môn Lịch sử khó nhớ
những mốc thời gian, sự kiện…cho rằng môn này phải học nhiều và là môn học thuộc
nên một số em đặc biệt là các em nam không có hứng thú với môn Lịch sử.

Tuy có nhiều học sinh có hứng thú học tập môn Lịch sử. Xong phần lớn
các em tỏ thái độ thờ ơ, hững hờ với môn học hoặc học một cách thụ động, đối
phó chưa có sự chủ động tích cực trong học tập. Một số em còn cho rằng môn
Lịch sử là một môn học khô khan, dập khuôn, không có sự sáng tạo. Vì vậy, các
em không đầu tư thời gian vào việc học tập bộ môn.
Từ những nguyên nhân trên làm cho chất lượng học tập của bộ môn giảm
sút, để khắc phục những khó khăn và hạn chế trên cần đưa ra những biện pháp
tạo biểu tượng văn hóa vật chất.
Việc tạo biểu tưởng văn hóa vật chất trong dạy học ở trường phổ thông
nói chung và trong dạy học lịch sử nói riêng đã đem lại nhiều điểm tích cực.
Thứ nhất, giúp học sinh nhớ kĩ, hiểu biết sâu sắc bản chất của sự kiện lịch
sử, là cơ sở để hình thành các khái niệm lịch sử quan trọng giúp học sinh nắm
vững các quy luật của sự phát triển xã hội, và khắc phục tình trạng “hiện đại
hóa” lịch sử của học sinh.
Thứ hai, tạo biểu tượng văn hóa vật chất trong dạy học lịch sử giúp phát
triển khả năng quan sát, trí tưởng tượng, tư duy, ngôn ngữ và tác phong của
người học sinh. Đặc biệt, khi sử dùng đồ dùng trực quan để tạo biểu tượng văn
hóa vật chất học sinh dễ dàng nhận xét, phán đoán, hình dung quá khứ lịch sử
được phản ánh, minh họa như thế nào. Học sinh suy nghĩ và tìm cách diễn đạt
bằng lời nói chính xác, có hình ảnh rõ ràng, cụ thể về bức tranh xã hội đã qua.
16



Thứ ba, giúp đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên góp phần cho
bài dạy đạt được hiệu quả cao, gây hứng thú học tập cho học sinh, lớp học trở
nên sôi nổi hơn.
Thứ tư, trong những năm qua, bộ môn Lịch Sử ở trường phổ thông chiếm
một vị trí quan trọng trong chương trình dạy học, góp phần thực hiện mục tiêu
giáo dục trong nhà trường. Đặc biệt bộ môn còn được sự quan tâm của các cấp
Đảng, Nhà nước, các cơ quan thông tin đại chúng: báo, đài, truyền hình, như
việc đưa tin, phản ánh kịp thời tình hình chất lượng học tập, chất lượng các kì thi
lịch sử. Đội ngũ giáo viên cũng có nhiều cố gắng, luôn luôn tìm tòi, cập nhật
kiến thức mới, áp dụng hình thức, phương pháp dạy học mới nhằm không ngừng
nâng cao hiệu quả dạy học. Học sinh có hứng thú với việc học tập bộ môn, nên
đã tiếp thu kiến thức một cách căn bản, đáp ứng yêu cầu cuộc sống.

17


CHƢƠNG 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TẠO BIỂU TƢỢNG VĂN HÓA VẬT

CHẤT TRONG DẠY HỌC PHẦN LỊCH SỬ THẾ GIỚI
CHO HỌC SINH LỚP 10 THPT
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung của phần lịch sử thế giới lớp 10 THPT
2.1.1. Vị trí
Chương trình lịch sử được thực hiện theo nguyên tắc đồng tâm kết hợp
với đường thẳng. Ở trường THPT tiếp tục trang bị cho học sinh những kiến thức
cơ bản mang tính hệ thống và khái quát lịch sử phát triển của nhân loại cũng như
lịch sử thế giới từ quá khứ đến nay.
Trong sách giáo khoa lịch sử lớp 10 gồm có 3 phần, trong đó phần lịch sử
Thế giới có 2 phần, còn 1 phần là phần lịch sử Việt Nam.
Phần một, Lịch sử thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại. Là phần

mở đầu cho toàn bộ Lịch sử thế giới, là nền tảng để học được Lịch sử thế giới
giai đoạn sau cũng như là học Lịch sử dân tộc.
Học tốt phần Lịch sử thế giới thời nguyên thủy cổ đại và trung đại sẽ trang
bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về nguồn gốc loài người, học sinh nhận
thức được sự ra đời, phát triển, suy vong của các quốc gia cổ đại phương Đông
và phương Tây. Đồng thời hiểu những nét chính về Trung Hoa phong kiến, Ấn
Độ và các quốc gia khác. Cuối cùng là hiểu được sự hình thành và suy vong của
chế độ phong kiến.
2.1.2. Mục tiêu
2.1.2.1. Về nhận thức
Giúp cho học sinh có những hiểu biết về sự kiện, hiện tượng một cách có hệ
thống, cơ bản khái quát về tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại từ nguồn
gốc cho đến hết thời kì thứ nhất của Lịch sử thời cận đại.
Qua phần Lịch sử thế giới giúp cho học sinh nhận thức được nguồn gốc
của loài người, quá trình tiến hóa của loài người. Nhận thức được sự ra đời, phát
triển, suy vong của các quốc gia cổ đại phương Đông và các quốc gia cổ đại
phương Tây. Các em cũng có thể hiểu được sự ra đời của quá trình đấu tranh của
18


giai cấp tư sản trong lòng xã hội phong kiến nhằm xây dựng chế độ tốt đẹp hơn đó
là chủ nghĩa tư bản, thông qua các cuộc cách mạng tư sản và cuộc cách mạng công
nghiệp. Đồng thời cũng làm cho các em hiểu rõ được sự hình thành và phát triển
của lịch sử loài người, những giá trị về vật chất của các dân tộc trên thế giới.

2.1.2.2. Về giáo dục
Giúp cho học sinh có tư tưởng biết quý trọng giá trị văn hóa, có thái độ
đúng đắn về nguồn gốc loài người chống lại những quan điểm của tôn giáo, biết
quý trọng giá trị vật chất của nhân loại và ý thức bảo vệ giá trị đó. Qua đó giáo
dục học sinh có niềm tin khoa học, càng phát triển không ngừng theo chiều

hướng tiến bộ đi lên của xã hội loài người càng vươn tới đỉnh cao văn minh hòa
bình và phồn vinh. Từ đó, các em có thể hăng say cải tiến để nâng cao hiệu quả
việc học tập của bản thân, giúp học sinh hoàn thiện bản thân để theo kịp thời đại
công nghiệp hóa hiện đại hóa.
2.1.2.3. Về kĩ năng
Dạy học Lịch sử Thế giới thời nguyên thủy, cổ đại và trung đại giúp học
sinh rèn luyện và phát triển các kĩ năng của bộ môn như: kĩ năng sử dụng sách
giáo khoa để tìm tòi nghiên cưú kiến thức ; phát triển óc quan sát gắn liền với kĩ
năng sử dụng tranh ảnh, bản đồ, sơ đồ, phim tài liệu; phát triển kĩ năng phân tích
tổng hợp sự kiện, hiện tượng để rút ra bản chất, kĩ năng đánh giá sự kiện nhân
vật lịch sử.
Trên cơ sở vận dụng phối hợp các phương pháp, biện pháp sư phạm phát
triển ở học sinh óc quan sát, tưởng tượng để có những biểu tượng về văn hóa vật
chất.
2.1.3. Nội dung cơ bản của phần lịch sử thế giới lớp 10
Chương trình lịch sử Thế giới lớp 10 giới thiệu những thời kì đầu tiên của
lịch sử loài người được cấu thành 2 phần:
Phần một, gồm 3 thời kì lịch sử: Xã hội nguyên thủy cổ đại và trung đại.
Phần xã hội nguyên thủy học sinh tìm hiểu nguồn gốc loài người, quá trình tiến
hóa từ vượn thành người, những tổ chức xã hội đầu tiên của loài người: thị tộc,
bộ lạc. Về xã hội cổ đại, các em tìm hiểu về những quốc gia cổ đại đầu tiên
19


những đặc điểm về vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên thể chế chính trị của các quốc
gia cổ đại. Đồng thời giúp học sinh hiểu được đóng góp thành tựu về văn minh
của các quốc gia này đối với nền văn minh nhân loại.
Về thời phong kiến: Học sinh hiểu được những nét chính về Trung Hoa
phong kiến và những thành tựu vĩ đại về mặt văn hóa của lịch sử Trung Hoa,
ngoài ra còn có lịch sử Ấn Độ và các quốc gia Đông Nam Á khác.

Về phần Châu Âu phong kiến: Cung cấp cho học sinh cái nhìn toàn diện
đến quá trình hình thành và đến khi suy vong của chế độ phong kiến, nó gắn liền
với sự hình thành của chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn Thế giới.
Phần hai, học sinh sẽ tìm hiểu về nguyên nhân bùng nổ, diễn biến, kết quả
và ý nghĩa của các cuộc cách mạng tư sản, quá trình diễn ra cuộc cách mạng
công nghiệp, chủ nghĩa tư bản hình thành trên phạm vi toàn thế giới, gắn với sự
ra đời của chủ nghĩa thực dân đi xâm lược trên quy mô toàn thế giới. Điều đó đã
dẫn đến sự bùng nổ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước Á Phi-Mĩ La Tinh.
Đồng thời trong phần này học sinh sẽ tìm hiểu các cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân và sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản.
2.2. Các loại văn hóa vật chất cần tạo biểu tƣợng cho học sinh khi
dạy phần Lịch sử thế giới lớp 10 THPT
Tên bài
Bài 1: Sự xuất hiện
của loài người và

Biểu tượng cần tạo

Biện pháp cần tạo

Hình 1: Người tối cổ

Sử dụng tranh ảnh kết
hợp phương pháp miêu

bầy người nguyên

tả, phương

thủy


đổi đàm thoại.

pháp

trao

Hình
2: Tranh
khắc Sử dụng tranh ảnh kết
trên tường hầm mộ ở
hợp phương pháp, miêu
Bài 3: Các quốc gia
cổ đại phương Đông

Tebơ (Ai

Cập) thế kỉ tả,

XV TCN
Hình

giảng

giải,

thích.

3: Quách


vàng

tạc hình vua Ai Cập
Tu-tan-kha-môn
20

Sử dụng tranh ảnh kết

(1361 hợp phương pháp miêu

giải


×