Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

những giải pháp để nâng cao tính hiệu quả của hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Quốc hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.34 KB, 9 trang )

I.ĐẶT VẤN ĐỀ
Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Quốc hội. Kỳ họp là
nơi biểu hiện trực tiếp và tập trung nhất quyền lực nhà nước của cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất; trí tuệ tập thể của các đại biểu Quốc hội. Tại kỳ họp, Quốc hội thảo luận
dân chủ và quyết định những vấn đề quan trọng nhất của đất nước và của nhân dân; thực
hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Với vai trò đó,
nhiệm vụ tổ chức một kỳ họp Quốc hội có hiệu quả là rất quan trọng đối với sự phát triển
bền vững của một quốc gia. Do vậy, việc có một cái nhìn toàn diện, chính xác về thực
trạng của kỳ họp Quốc hội của nước ta hiện nay rất cần thiết trong việc tìm ra những giải
pháp để nâng cao tính hiệu quả của hình thức hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của
Quốc hội này.
II.NỘI DUNG
1. Giới thiệu chung về kỳ họp Quốc hội.
Điều 86 Hiến pháp 1992 quy định: Quốc hội Việt Nam họp thường lệ mỗi năm hai kỳ
do Ủy ban Thường vụ Quốc hội triệu tập.Trong trường hợp Chủ tịch nước, Thủ tướng
Chính phủ hoặc ít nhất một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội yêu cầu hoặc theo quyết
định của mình, Ủy ban Thường vụ Quốc hội triệu tập Quốc hội họp bất thường.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định triệu tập kỳ họp Quốc hội thường lệ chậm
nhất là ba mươi ngày, kỳ họp Quốc hội bất thường chậm nhất là bảy ngày, trước ngày
khai mạc kỳ họp.
Các kỳ họp của Quốc hội đều công khai, một số phiên họp được truyền hình trực tiếp,
phát sóng toàn quốc và ra nước ngoài. Tuy nhiên, Quốc hội cũng có thể họp kín theo đề
nghị của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ hoặc ít nhất
1/3 tổng số đại biểu Quốc hội. Thành viên của Chính phủ không phải là đại biểu Quốc
hội được mời tham dự các phiên họp toàn thể của Quốc hội. Đại diện cơ quan Nhà nước,
tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang, cơ quan báo chí, công dân và khách quốc
tế có thể được mời dự các phiên họp công khai của Quốc hội.
2. Thực trạng và giải pháp về vấn đề kỳ họp Quốc hội hiện nay.
Vì những đặc điểm mang tính ổn định về nội dung và tính chất của kỳ họp Quốc
hội mà hiệu quả (kết quả) kỳ họp phụ thuộc chủ yếu vào ba loại vấn đề lớn là việc chuẩn
bị cho kỳ họp, quá trình họp của kỳ họp Quốc hội và tinh thần làm việc của đại biểu


Quốc hội.
2.1.Việc chuẩn bị cho kỳ họp
Đây là nhiệm vụ của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) được quy định tại
khoản 2 Điều 7 Luật Tổ chức Quốc hội hiện hành. Theo đó, UBTVQH dự kiến chương
trình kỳ họp căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, đề nghị Chủ tịch nước, Thủ tướng
Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối
cao, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Việc chuẩn bị
gồm hai khối công việc lớn là chuẩn bị nội dung và chuẩn bị các công việc hành chính.


a.Về nội dung
Thông thường trong một kỳ họp của Quốc hội có hai phần công việc lớn được giải
quyết, đó là thảo luận, quyết định các vấn đề kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và thảo
luận, quyết định các vấn đề về luật pháp (thông qua các đạo luật, quyết định chương trình
xây dựng luật, pháp lệnh, ra nghị quyết về việc thi hành luật...). Quy trình như sau, các cơ
quan của Quốc hội chuẩn bị trước và trình ra UBTVQH (từ một đến ba lần mỗi việc);
UBTVQH xem xét cho ý kiến, nếu đạt được yêu cầu thì mới trình ra Quốc hội.
a.1. Chuẩn bị các vấn đề kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh:
Việc chuẩn bị này được thực hiện từ hai nguồn cơ bản. Một là kết quả giám sát của các
Ủy ban, của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội. Hai là kết quả triển khai các nhiệm vụ đó
của Chính phủ.
a.2. Việc chuẩn bị các dự án luật cho kỳ họp Quốc hội:
a.1.1. Thực trạng
Một dự án luật có thể đưa ra kỳ họp Quốc hội được hay chưa phụ thuộc vào hai
vấn đề lớn là chất lượng dự thảo luật và chất lượng thẩm tra của cơ quan thẩm tra.
• Về chương trình xây dựng pháp luật, chúng ta chưa có chiến lược lập pháp
dài hạn và mãi tới kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa X, Quốc hội mới thông qua được chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh cả nhiệm kỳ. Trong khi đó, trước yêu cầu của công cuộc
đổi mới thì hầu như trong lĩnh vực nào cũng cần phải sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới
các văn bản pháp luật. Việc đưa các dự án luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp

lệnh còn lúng túng, thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn vững chắc.
• Chất lượng soạn thảo các dự án luật được trình Quốc hội đã được nâng lên
một bước so với trước đây nhưng vẫn còn hạn chế. Các dự thảo luật do các cơ quan quản
lý chuyên ngành soạn thảo nên chủ yếu chỉ cố gắng đưa ra các biện pháp tình thế nhằm
bảo đảm thuận lợi cho quản lý ngành mà ít chú ý đến khâu phân tích chính sách, mô hình
hóa để quy định của luật trở thành mực thước chung, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, xã hội,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Các dự thảo luật còn dừng lại ở mức nguyên tắc,
thiếu cụ thể. Sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong việc chuẩn bị dự án còn chưa
chặt chẽ nên còn có một số dự án luật có báo cáo, tờ trình hoặc dự thảo chưa được chuẩn
bị kỹ về nội dung, về kỹ thuật soạn thảo văn bản.
• Khi đã có dự thảo luật thì phải chuẩn bị tờ trình. Đây là một tài liệu rất
quan trọng, nó có ý nghĩa như một bản thuyết trình phân tích đầy đủ tính khoa học, tính
thực tiễn, cách thiết kế các chương, điều; những nội dung cơ bản, những vấn đề còn có ý
kiến khác nhau... Đáng chú ý là vừa qua có một số dự án luật, tờ trình rất sơ sài (chỉ nói
đã dự thảo bao nhiêu lần, có mấy chương, mấy điều) không nói được những vấn đề cần
tập trung cho ý kiến, thậm chí tránh né những vấn đề phức tạp.
• Chất lượng thẩm tra dự án luật còn chưa cao. Điều này do nhiều nguyên
nhân: các dự án luật được gửi đến Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội chậm làm
cho các cơ quan này lúng túng, không chủ động được trong việc tổ chức phiên họp thẩm
tra; các thành viên của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội hoạt động kiêm nhiệm, lại
cư trú ở nhiều địa phương khác nhau nên việc tổ chức phiên họp toàn thể để thẩm tra dự
án luật gặp khó khãn; bộ máy giúp việc trong các cơ quan này còn thiếu chuyên gia giỏi
có nhiều kinh nghiệm về các lĩnh vực thuộc nội dung của dự án…
a.1.2 Giải pháp


Về chất lượng soạn thảo dự án luật, muốn có một dự thảo luật tốt trước hết ban
soạn thảo phải thật sự khách quan, đứng trên lợi ích của toàn xã hội. Vì vậy ít nhất phải
tập hợp được ba loại chuyên gia, đó là chuyên gia pháp luật chuyên ngành, chuyên gia
các ngành luật có liên quan và chuyên gia kỹ thuật lập pháp.

Về vấn đề chuẩn bị tờ trình, cơ quan thẩm tra phải xử lý tất cả các khuyết tật đó,
giúp cho UBTVQH giải quyết tối đa các tồn đọng trước khi đưa ra kỳ họp Quốc hội. Về
nguyên tắc, phải thực hiện đúng khoản 5 Điều 26 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành là "Tờ trình nêu rõ sự cần thiết phải ban hành, mục đích, yêu cầu, phạm vi,
đối tượng và nội dung chính của dự án, những vấn đề cần xin ý kiến chỉ đạo và những
vấn đề còn có ý kiến khác nhau;...".
Về việc thẩm tra dự thảo luật, báo cáo thẩm tra phải thể hiện rõ các chính kiến
bằng các lập luận có căn cứ khoa học (không tránh né, không dung hòa) để UBTVQH
quyết định được chính xác. Ban soạn thảo phải thẳng thắn tiếp thu những vấn đề hợp lý,
rõ ràng, khách quan thì mới chỉnh sửa tốt dự án luật (theo quy định hiện hành thì cơ quan
thẩm tra có vai trò tham mưu giúp UBTVQH và Quốc hội, còn giá trị pháp lý của các ý
kiến thẩm tra đối với cơ quan soạn thảo thì chưa được quy định rõ).
b.Về việc chuẩn bị các công việc hành chính
b.1. Thực trạng
- Ngoài những việc đã được quy định trong Luật tổ chức Quốc hội thì có một vấn
đề thường xảy ra là thời gian trình bày các báo cáo trước Quốc hội hoặc bị kéo dài, hoặc
là dư thừa, dang dở thời gian.
- Việc gửi tài liệu trước cho đại biểu là hết sức cần thiết vì đối với kỳ họp của
Quốc hội, với nhiều việc lớn trong một thời gian dài, thì đại biểu có được một lượng
thông tin trong đầu bằng cách nghiên cứu tài liệu trước khi vào họp là cực kỳ cần thiết và
bổ ích.
Theo các quy định hiện hành thì “các dự án luật phải được gửi đến đại biểu Quốc
hội chậm nhất là 20 ngày, các báo cáo và các dự án khác phải được gửi đến đại biểu
Quốc hội chậm nhất là 10 ngày trước ngày khai mạc kỳ họp” (Điều 8 của Nội quy kỳ họp
Quốc hội, Điều 72 của Luật tổ chức Quốc hội). Quy định này có nghĩa là khi đại biểu về
dự kỳ họp thì cơ bản đã nắm chắc nội dung các dự án luật và các nội dung quan trọng
khác của kỳ họp. Nhưng thực tế từ năm 1992 đến nay, chúng ta hầu như chưa thực hiện
được việc này và ngày càng không thực hiện được. Một năm thông qua khoảng 10 luật và
năm cao nhất tới 28 luật thì việc quy định thời gian gửi các dự án luật cho đại biểu như
trên không còn phù hợp.

b.2. Giải pháp.
- Trong công tác chuẩn bị phải thống kê rất rõ số lượng báo cáo phải đọc, số trang
của từng báo cáo và tổng số trang của tất cả các báo cáo. Thông thường thời gian đọc mỗi
trang in khổ A4 từ 2,5 đến 3 phút. Từ "định mức" đó mà xác định thời gian cần thiết để
đọc toàn bộ các văn bản.


- Về vấn đề chuẩn bị của đại biểu Quốc hội, có nhiều biện pháp khắc phục tình hình
này, nhưng trước hết là phải đổi mới quy trình xây dựng luật mà nhiều luật gia, các nhà
quản lý đã kiến nghị.
+ Trong đó, đáng lưu ý nhất là việc chuẩn bị các dự án luật khi được chuyển đến
UBTVQH thì chủ yếu phải là Hội đồng Dân tộc và các ủy ban chịu trách nhiệm chuẩn bị
(Hội đồng Dân tộc, các ủy ban phải chịu trách nhiệm tới mức đạt được yêu cầu trình ra
Quốc hội). Nếu một năm thông qua 20 dự án luật thì bình quân mỗi ủy ban, Hội đồng chỉ
phải đảm nhiệm 2 dự án, do đó sẽ không đến nỗi cập rập lắm. Tuy nhiên, không thể
không tính toán khối lượng công việc xây dựng luật để quy định lại thời gian cho mỗi
công đoạn phù hợp với thực tế.
+ Thứ hai là cách chuẩn bị ý kiến của đại biểu Quốc hội trước khi về dự kỳ họp, nên
chăng trong mỗi dự án luật, UBTVQH chỉ yêu cầu đại biểu nghiên cứu chuẩn bị vài ba
vấn đề then chốt nhất, gay cấn nhất, mà không nhất thiết phải chuẩn bị cả dự án luật (trên
thực tế, nhiều đại biểu đã thực hành như vậy)...
2.2.Quá trình họp của kỳ họp Quốc hội
Có rất nhiều vấn đề diễn ra trong các phiên họp làm ảnh hưởng đến tính hiệu quả
trong quá trình làm việc, tuy nhiên trong khuôn khổ giới hạn của bài viết, chỉ xin được đề
cập đến thực trạng và những giải pháp cơ bản về một số những yếu tố điển hình như sau:
vai trò của người điều hành kỳ họp, vấn đề sinh hoạt ở tổ, đoàn trong kỳ họp, vấn đề chất
vấn và trả lời chất vấn, vấn đề thông qua luật.
a. Vai trò của người tổ chức và điều hành kỳ họp
a.1 Thực trạng
Tại các phiên họp toàn thể trong các kỳ họp vừa qua, việc điều hành có rất nhiều

tiến bộ, cần được phát huy.
- Trước hết, từ chủ tịch đến các phó chủ tịch đều nắm khá chắc nội dung, thông tin
về công việc được phân công điều hành trong phiên họp.
- Thứ hai, với tinh thần thực sự cầu thị, các vị chủ tọa phiên họp đã tạo được bầu
không khí ngày càng phát huy dân chủ, thẳng thắn, với các ý kiến nhiều chiều, nhiều khía
cạnh làm cho các vấn đề được lật đi, lật lại để xem xét toàn diện.
- Thứ ba, bên cạnh việc chỉ định phát biểu đồng đều, chủ tọa còn biết chỉ định
những đại biểu có chuyên môn sâu về một lĩnh vực để góp phần giải tỏa thông tin về
những vấn đề khó, ít người am tường.
- Thứ tư, với sự nhạy cảm, chủ tọa ngày càng nhuần nhuyễn hơn khi lượng ước
mức độ ý kiến, mức độ cần thảo luận cho mỗi vấn đề để đảm bảo kế hoạch, chương trình.
- Thứ năm, các ý kiến kết luận ngày càng có độ chắc chắn, chính xác hơn.
a.2. Giải pháp
Người tổ chức và điều hành kỳ họp phải tiếp tục thực hiện tốt vai trò của mình:
- Phải triệu tập đúng thành phần; nắm vững mục đích cuộc họp; nắm vững khối lượng
công việc và tiến hành tương ứng với thời gian cho phép; nắm chắc yêu cầu phải đạt tới;
có chuẩn bị những gợi ý, định hướng thảo luận; phát trước tài liệu (nếu cần).
- Báo cáo phải rõ ràng, chốt lại được các vấn đề trọng tâm phải trao đổi; nếu chỉ là
thông tin thì phải nhấn đậm các thông tin cần chuyển tải, truyền đạt để người nghe nắm
bắt.
- Người điều khiển thảo luận phải vui vẻ, lịch thiệp, cởi mở, sẵn sàng lắng nghe mọi ý
kiến, hiểu cho được nội dung phát biểu của mỗi người để sàng lọc lấy ý hay; tránh phê


phán ngay trực diện người đang nói hoặc lúc lúc lại nói chen ngang rất dài gây ức chế
cho người phát biểu và khiến người khác nhụt chí. Đặc biệt là phải điều hành được các ý
kiến phát biểu đúng nội dung và thời gian; khởi động nhanh khi mới bắt đầu thảo luận;
điều chỉnh được những ý kiến lệch trọng tâm; khuyến khích, khơi dậy được các ý kiến
còn tiềm ẩn. Điều hành theo đúng giờ đã định; kết luận các vấn đề hợp lý, đúng đắn và
chính xác.

- Nếu cuộc họp chỉ để lấy ý kiến thì người chủ trì, người lãnh đạo phải xác định nghe
là chính, tránh tình trạng lái mọi ý kiến sang ủng hộ ý kiến riêng của mình dù nhiều
người chưa đồng tình.
b. Vấn đề sinh hoạt ở tổ, đoàn trong kỳ họp
b.1. Thực trạng
Không chỉ các phiên họp toàn thể mà tất cả các phiên làm việc ở tổ, ở đoàn, việc
điều hành đều có vai trò chi phối kết quả phiên họp. Như vậy, ngoài chủ tọa phiên họp
toàn thể còn có 22 tổ trưởng và hơn 30 tổ phó của 22 tổ góp phần quan trọng vào kết quả
kỳ họp (trừ Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, tổ và đoàn là một, còn các tổ khác mỗi tổ
có từ 2 đến 5 đoàn).
Tuy nhiên vẫn còn có tình trạng các đại biểu coi sinh hoạt ở tổ, đoàn không quan
trọng bằng các phiên họp toàn thể nên dễ tranh thủ đi làm việc khác; chưa triệt để tận
dụng thời gian (nhất là buổi làm việc cuối tuần).
b.2. Giải pháp
Các phiên làm việc ở tổ, đoàn cần khắc phục những hiện tượng làm lãng phí thời
gian và không có hiệu quả như trên. Người điều khiển (tổ trưởng, tổ phó) nên nghiên cứu
kỹ hơn vấn đề cần thảo luận để có thể có các gợi ý, hay là người phát biểu ý kiến đầu tiên
tạo không khí làm việc tích cực ngay từ đầu mỗi phiên làm việc.
c. Vấn đề chất vấn và trả lời chất vấn
Chất vấn là quyền của đại biểu Quốc hội đòi hỏi một cơ quan nhà nước, một nhà
chức trách nào đó phải trả lời, phải báo cáo với cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất về
vấn đề có liên quan đến hoạt động của cơ quan hoặc người bị chất vấn.
Chất vấn là một biện pháp thực hiện quyền giám sát của Quốc hội, nó thực sự
phát huy tác dụng tại các kỳ họp Quốc hội.
c.1. Thực trạng.
- Về việc gửi chất vấn, theo quy định tại Điều 43 của Nội quy kỳ họp Quốc hội và
Điều 49 của Luật tổ chức Quốc hội thì đại biểu gửi chất vấn trong thời gian Quốc hội họp
để chuyển đến người bị chất vấn.
Theo trình tự này thì những chất vấn gửi vào cuối kỳ họp sẽ rất khó xử lý tại kỳ
họp (chỉ còn cách là chuyển về phiên họp UBTVQH để thực hiện sau). Nhưng nếu phải

gửi ngay từ đầu kỳ họp thì phần lớn các chất vấn được hình thành từ các cuộc tiếp xúc cử
tri và tình hình thực tế của địa phương nên nội dung nhiều chất vấn thường mang tính cục
bộ. Qua nhiều kỳ họp của nhiều khóa Quốc hội cho thấy, quá trình thảo luận các vấn đề
kinh tế, xã hội, tư pháp, quốc phòng, an ninh mới xuất hiện nhiều vấn đề ở tầm vĩ mô
đáng phải chất vấn. Theo ghi chép thì có tới 40-45% các chất vấn có nguồn gốc từ kỳ họp
và phần lớn có nội dung xác đáng
- Trong phiên chất vấn, việc sắp xếp cho đại biểu nêu hàng loạt câu hỏi để bộ
trưởng trả lời có ưu điểm là nêu được nhiều vấn đề song câu trả lời cho mỗi vấn đề quá
ngắn, dẫn đến việc khó trả lời thấu đáo mà cử tri cũng khó theo dõi, giám sát.


- Có những vấn đề đã được quy định nhưng chưa có cơ chế thực hiện. Ví dụ
“trong trường hợp đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời chất vấn thì có
quyền đề nghị Chủ tịch Quốc hội đưa ra thảo luận tại phiên họp toàn thể hoặc phiên họp
của UBTVQH” (khoản 3, Điều 42 của Nội quy kỳ họp Quốc hội). Đã có nhiều trường
hợp đại biểu Quốc hội không đồng ý với trả lời của người bị chất vấn, nhưng chưa bao
giờ thực hiện được quy định trên. Nếu đưa ra thảo luận tại phiên họp toàn thể thì phiên
họp toàn thể nào? Chương trình kỳ họp đã được thông qua, không thể dừng chất vấn và
trả lời chất vấn đối với người sau để lấy thời gian thảo luận “vấn đề ách tắc” của người
trước; càng khó có thể biểu quyết kéo dài thời gian kỳ họp..
- Vừa qua, việc sử dụng thời gian quy định cho người chất vấn (không quá 3
phút), người trả lời chất vấn (không quá 15 phút cho một vấn đề) đều bị vi phạm ở mức
độ tương đối phổ biến, cần phải lưu ý để thực hiện cho đúng.việc quy định cho đại biểu
chỉ được phát biểu 7 phút hay 10 phút đều trái với các quy định hiện hành là “Thời gian
phát biểu lần thứ nhất không quá 15 phút, thời gian phát biểu lần thứ hai về cùng một vấn
đề không quá 5 phút” (Khoản 2 Điều 16 của Nội quy kỳ họp Quốc hội)..
c.2. Giải pháp
- Thời gian tới có thể quy định các chất vấn gửi đến Chủ tịch Quốc hội (qua Đoàn
thư ký kỳ họp) chậm nhất là sau khi kết thúc thảo luận các vấn đề kinh tế, xã hội, quốc
phòng, an ninh và tư pháp.

- Không nên hỏi quá nhiều về một vấn đề, thay vào đó, đại biểu Quốc hội nên
chọn lọc để tập trung vào những khúc mắc lớn, mang tầm khái quát, thật sự có giá trị chứ
không nên sa đà vào những cái tản mạn.
- Về những vướng mắc hoặc chưa thỏa đáng của đại biểu Quốc hội, sau này khi
sửa đổi các luật có liên quan đến việc này, phải làm rõ cơ chế, thủ tục thực hiện, hoặc khi
thông qua chương trình kỳ họp thì ngoài 3 ngày tiến hành chất vấn chính thức, cần quy
định thêm thời gian dự phòng
- Phải phân loại các loại ý kiến để quy định thời gian cho mỗi lần phát biểu. Phát
biểu thảo luận kinh tế, xã hội, thu chi ngân sách; cho ý kiến lần đầu về các dự án luật thì
có thể tối đa 15 phút như quy định hiện hành; thảo luận các báo cáo hàng năm về lĩnh
vực tư pháp, về một số dự án khác... thì khoảng 10 phút; phát biểu thảo luận một điều
luật khi thông qua dự án luật, hoặc phát biểu lại một vấn đề... thì chỉ nên 5 phút.
d. Vấn đề thông qua luật
d.1. Thực trạng
Từ sau khi Nhà nước ta ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật, hoạt động xem xét, thông qua luật tại kỳ họp Quốc hội
ngày càng đi vào nề nếp và trở nên thiết thực, có hiệu quả hơn.Tuy nhiên vẫn còn những
bất cập, hạn chế và nhìn chung còn có điểm chưa thật sự phù hợp với tính chất và đặc
điểm của Quốc hội nước ta. Ðiển hình là một số điểm như sau:
- Về quy trình thông qua luật:
+ Việc trình Quốc hội xem xét, thông qua các dự án luật còn thiếu sự đồng bộ,
chưa thực sự ưu tiên các văn bản luật có nhu cầu cấp thiết ban hành.
+ Số lượng các luật cần được thông qua trong mỗi kỳ họp là quá lớn so với khả
năng thông qua của Quốc hội hiện nay.


+ Quốc hội vẫn chưa thực hiện được việc biểu quyết những nội dung cơ bản của
dự thảo luật trong lần thảo luận đầu tiên để làm cơ sở cho việc chỉnh lý do việc cung cấp
thông tin, tư liệu liên quan đến các dự án luật còn chưa kịp thời, đầy đủ.
+ Sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong quá trình chuẩn bị các dự án luật

còn chưa thật chặt chẽ nên vẫn có những dự án luật, báo cáo, tờ trình chưa được chuẩn bị
đầy đủ về nội dung, về kỹ thuật soạn thảo văn bản; trong quy trình xem xét, thông qua
luật còn có điểm chưa cụ thể, đặc biệt là vai trò của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội còn chưa được phát huy
Vai trò chỉnh lý dự thảo luật của Ðoàn thư ký kỳ họp chưa được quy định nhất
quán trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp
luật và trong Nội quy kỳ họp Quốc hội do đó hiện nay chưa rõ cơ quan này có trách
nhiệm phải tham gia vào việc chỉnh lý dự thảo luật hay không.
Do công tác tập hợp, tổng hợp, nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý văn bản cũng còn
thiếu sót, chưa thật đầy đủ nên trong quá trình xem xét, thông qua các dự án luật, Quốc
hội còn mất nhiều thời gian cho các công việc có tính chất kỹ thuật.
+ Hình thức lấy phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội về các nội dung quan trọng
còn có ý kiến khác nhau của dự án luật làm căn cứ để chỉnh lý dự thảo luật chưa được
quy định trong Luật ban hành vãn bản quy phạm pháp luật (mới chỉ nhắc tới trong Nội
quy kỳ họp)
d.2. Giải pháp
- Đổi mới thủ tục thảo luận dự án luật. Về việc trình Quốc hội xem xét và thông
qua luật nên ưu tiên các văn bản luật có nhu cầu cấp thiết ban hành, giảm tình trạng tại
mỗi kỳ họp thông qua quá nhiều văn bản luật, sau đó, mỗi văn bản luật mặc dù đã có hiệu
lực nhưng vẫn chưa đưa vào thực tiễn được vì phải chờ các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan hữu quan trong việc chuẩn bị dự án
luật, tờ trình, từ đó làm tăng hiệu quả làm việc trong quá trình họp, tránh làm mất thời
gian vì những lý do kỹ thuật.
- Hoàn thiện quy định về thủ tục biểu quyết những nội dung cơ bản của dự án luật
trong lần trình thứ nhất. Theo đó, Quốc hội quyết định dự án luật cần tổ chức lấy ý kiến
nhân dân ngay khi Quốc hội thông qua Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh hàng năm.
Trên cơ sở đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ tổ chức việc lấy ý kiến nhân dân về dự án
luật trước khi dự án được trình ra Quốc hội lần thứ nhất.
2. 3. Tinh thần làm việc của các đại biểu Quốc hội
a.Thực trạng

Một số đại biểu vẫn chưa chuẩn bị, nghiên cứu kỹ lưỡng những vấn đề của kỳ họp
- Có đại biểu phát biểu sau, vì ý kiến viết thành bài sẵn nên vẫn đọc nguyên xi các
thông tin đã “bão hòa”, do đó mức độ trùng lặp khá cao.
- Có những đại biểu rất ngại phát biểu hoặc ngược lại, cũng có những đại biểu việc gì
cũng muốn nói vài lần (mặc dù thông tin không thật “đắt giá”, bổ ích lắm).
- Việc kiêm nhiệm đòi hỏi phải trực tiếp xử lý nhiều công việc đã làm cho người kiêm
nhiệm “quá tải”... Ví dụ như rất nhiều phiên họp của UBTVQH khoá XI không đủ 2/3 số
thành viên theo quy định của Luật tổ chức Quốc hội, vì nhiều Chủ nhiệm còn phải giải
quyết công việc của Ủy ban. Ngay như trong kỳ họp Quốc hội thứ hai vừa qua, tại những
phiên biểu quyết thông qua nghị quyết quan trọng, số lượng đại biểu vắng mặt lên tới 50.
Điều này gây khó khăn rất lớn trong việc thực hiện nguyên tắc làm việc tập trung và biểu
quyết theo đa số.
- Vẫn còn tình trạng đại biểu không thật sự chú ý trong các phiên họp, có những tư thế
thiếu thẩm mĩ vô tình “phô bày” trên màn hình trông rất phản cảm


b.Giải pháp
- Đại biểu phải đọc dần các tài liệu đã được gửi tới trước ( báo cáo kinh tế- xã hội,
các dự án luật,…) để hiểu được nội dung, có thể tham gia thảo luận; chuẩn bị các tài liệu
của địa phương mình, ngành mình có liên quan đến những vấn đề đó.
- Chuẩn bị kỹ các ý kiến để tham gia thảo luận, đặc biệt là những vấn đề, những
lĩnh vực mà mình hiểu biết sâu, có nhiều thông tin có thể trao đổi. Đại biểu phải theo dõi
liên tục để điều chỉnh ý kiến của mình cho hợp lý, nâng cao hiệu quả đóng góp của mình.
- Đại biểu phải tham dự đầy đủ mọi phiên họp, vì đây là vấn đề thuộc tiêu chuẩn
đại biểu (có điều kiện hoạt động cho Quốc hội). Đại biểu chỉ nên vắng mặt trong trường
hợp bất khả kháng. Để đạt kết quả cao, đại biểu cần tập trung toàn bộ tâm trí, sức lực cho
các công việc của kỳ họp. Đại biểu nên hết sức tránh những tình trạng, tư thế thiếu thẩm
mĩ trong các phiên họp.
III.LỜI KẾT.
Mặc dù vẫn còn tồn tại một số vấn đề chưa thật sự hoàn thiện nhưng với sự cố

gắng không ngừng của các nhà chức trách có thẩm quyền cùng các đại biểu Quốc hội đại
diện cho nhân dân cả nước, hiện nay, các kỳ họp của Quốc hội đã thực sự trở thành sự
kiện chính trị cuốn hút và những phiên thảo luận, chất vấn và trả lời chất vấn sôi nổi, tâm
huyết tại hội trường đã để lại dấu ấn tốt đẹp trong cử tri và nhân dân cả nước. Nhờ đó,
hoạt động của Quốc hội đã làm sâu sắc hơn nhận thức về xây dựng nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, góp phần tăng cường sự gắn bó giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước, tạo ra
một hình ảnh về sự năng động, dân chủ của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


MỤC LỤC



×