Tải bản đầy đủ (.docx) (133 trang)

Phát triển tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.85 MB, 133 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ

TRẦN THANH BÌNH

PHÁT TRIỂN TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP
CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM NGHIỆP, THỦY SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HÀ TĨNH
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60.34.04.10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Văn Hòa

Huế, tháng 5 năm 2016

1


2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC CÁC BẢNG

4




GIẢI THÍCH TỪ NGỮ

1. Nông nghiệp: Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử
dụng đất đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm
tư liệu và nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và
một số nguyên liệu cho công nghiệp. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn,
bao gồm nhiều chuyên ngành; theo nghĩa hẹp, nông nghiệp có các hoạt
động: trồng trọt, chăn nuôi, dưỡng thú, sơ chế nông sản và các hoạt động
dịch vụ nông nghiệp;
Nông nghiệp theo nghĩa rộng, còn bao gồm cả các hoạt động lâm nghiệp, thủy
sản. Là hoạt động kinh tế có tư liệu sản xuất chính là từ đất đai, sông nước, hồ, đập,
biển.

2. Lâm nghiệp: Là các hoạt động liên quan đến rừng, đất rừng, như trồng rừng,
trồng cây phân tán, khai thác rừng tự nhiên, khai thác từ rừng trồng, thu nhặt
các sản phẩm từ lâm nghiệp, từ tự nhiên, dịch vụ lâm nghiệp.
Lâm nghiệp là ngành sản xuất vật chất độc lập của nền kinh tế quốc dân có
chức năng xây dựng rừng, quản lý bảo vệ rừng, khai thác lợi dụng rừng, phát huy các
chức năng phòng hộ văn hóa, xã hội,... của rừng.

3. Thủy sản: Các hoạt động nuôi trồng, đánh bắt, ươm nuôi giống thủy sản.
Đánh bắt thủy hải sản bao gồm đánh bắt nội địa và đánh bắt biển.

4. Nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống: Theo Thông tư số
116/2006/TT-BNN ngày 18/12/2006 của Bộ trưởng Bộ nông nghiệp và Phát triển
nông thôn:
Nghề truyền thống là nghề đã được hình thành từ lâu đời, tạo ra những sản
phẩm độc đáo, có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay hoặc có

nguy cơ bị mai một, thất truyền. Nghề truyền thống phải là nghề đã xuất hiện tại địa
phương từ trên 50 năm tính đến thời điểm đề nghị công nhận; tạo ra những sản phẩm
mang bản sắc văn hoá dân tộc; gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên
tuổi của làng nghề.
Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư cấp thôn, ấp, bản, làng, buôn, phum,
sóc hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn, có các hoạt động
5


ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm khác nhau; Có tối
thiểu 30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn;
Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề nghị
công nhận; Chấp hành tốt chính sách, pháp luật của Nhà nước.
-

Làng nghề truyền thống là làng nghề phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất một nghề
truyền thống.

5. Hộ gia đình cá thể: Là hộ gia đình theo khái nhiệm của Tổng cục Thống kê là những
người ăn chung, ở chung có tổ chức các hoạt động sản xuất kinh doanh theo mô hình
tổ chức hộ cá thể, hay còn gọi là kinh tế hộ.

6. Tổ hợp tác: Là các nhóm hộ, lao động hợp tác lại với nhau theo tính tự
nguyện, thống nhất một số quy ước về trách nhiệm và nghĩa vụ với nhau để
tổ chức thực hiện các hoạt động liên quan đến sản xuất kinh doanh.

7. Hợp tác xã: Là tổ chức sản xuất được thành lập và hoạt động theo Luật hợp
tác xã. Được UBND cấp huyện hoặc Sở Kế hoạch và Đầu tư hoặc cơ quan có
thẩm quyền ban hành quyết định thành lập và cấp Giấy phép đăng ký kinh
doanh.


8. Doanh nghiệp: là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được
đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh
(theo Luật Doanh nghiệp năm 2014).

9. Doanh nghiệp vừa và nhỏ: Theo Nghị định số 56/2009-NĐ-CP ngày
30/6/2009 quy định doanh nghiệp có từ dưới 100 tỷ đồng tiền vốn và từ dưới
300 lao động là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Riêng doanh nghiệp thương mại
dịch vụ có vốn từ dưới 50 tỷ và có từ dưới 100 lao động.
Theo Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 07/01/2013 về hỗ trợ doanh nghiệp vừa và
nhỏ có quy mô từ dưới 200 lao động và có doanh thu từ dưới 20 tỷ đồng.

10. Cơ sở sản xuất: Là tổ chức sản xuất theo tổ, nhóm, hộ, doanh nghiệp, hợp tác
xã …. Một hộ có thể một hoặc có nhiều cơ sở sản xuất; một doanh nghiệp
cũng có thể có một hoặc nhiều cơ sở sản xuất.

11. Chỉ số sản xuất công nghiệp IIP (Index Industry Products): Là chỉ tiêu đánh
giá tốc độ phát triển sản xuất ngành công nghiệp hàng tháng, quí, năm. Chỉ
6


số này thường được tính dựa trên khối lượng sản phẩm sản xuất, nên còn
được gọi là “chỉ số khối lượng sản phẩm công nghiệp”; là một chỉ tiêu quan
trọng phản ánh khái quát tình hình phát triển toàn ngành công nghiệp nói
chung và tốc độ phát triển của từng sản phẩm, nhóm ngành sản phẩm nói
riêng; đáp ứng nhu cầu thông tin của cơ quan quản lý Nhà nước, các nhà đầu
tư và các đối tượng dùng tin khác.

12. Công nghiệp phụ trợ, công nghiệp hỗ trợ:
Công nghiệp phụ trợ (supporting industries) là khái niệm chỉ toàn bộ những sản

phẩm công nghiệp có vai trò hỗ trợ cho việc sản xuất các thành phẩm chính; cụ thể là
các sản phẩm là những linh kiện, phụ kiện, phụ tùng, sản phẩm bao bì, nguyên liệu để
sơn, nhuộn, v.v. và cũng có thể bao gồm cả những sản phẩm trung gian, những nguyên
liệu sơ chế. Sản phẩm công nghiệp phụ trở thường được sản xuất với quy mô nhỏ, thực
hiện bở các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cụm từ công nghiệp phụ trợ thường được sử
dụng để xây dựng các chủ trương chính sách từ trước những năm 2004-2006.
Công nghiệp hỗ trợ: Là các ngành công nghiệp cung cấp các yêu tố cân thiết
như nguyên vật liệu thô, linh kiện và vốn… cho các ngành công nghiệp lap ráp, bao
gồm ô tô, điện và điện tử (Theo định nghĩa của Nhật Bản năm 1993).
Ở Việt Nam, Công nghiệp hỗ trợ được định nghĩa tại Quyết định số
12/2011/QĐ-TTg ngày 24/02/2011 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách phát triển
một số ngành công nghiệp hỗ trợ. Công nghiệp hỗ trợ: là các ngành công nghiệp sản
xuất vật liệu, phụ tùng linh kiện, phụ kiện, bán thành phẩm để cung cấp cho ngành
công nghiệp sản xuất, lắp ráp các sản phẩm hoàn chỉnh là tư liệu sản xuất hoặc sản
phẩm tiêu dùng.
13. Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP- Trans Pacific Partnership
Agreement) là một hiệp định, thỏa thuận thương mại tự do giữa 12 quốc gia với mục
đích hội nhập nền kinh tế khu vực Châu Á – Thái Bình.
Mục tiêu chính của TPP là xóa bỏ các loại thuế và rào cản cho hàng hóa, dịch
vụ xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên. Ngoài ra, TPP sẽ còn thống nhất nhiều
luật lệ, quy tắc chung giữa các nước này, như: Sở hữu trí tuệ, chất lượng thực phẩm,
hay an toàn lao động…TPP có 30 chương, trong đó có 5 chương là trực tiếp liên quan
đến vấn đề trao đổi hàng hóa, dịch vụ, các chương còn lại đề cập nhiều vấn đề liên

7


quan đến các chuẩn mực, tiêu chuẩn khác nhau về môi trường, chất lượng lao động,
luật lệ tài chính, thực phẩm và thuốc men… Việt Nam tham gia ký Hiệp định tháng
04/02/2016 tại New Zealand, có hiệu lực sau hai năm vào năm 2018.


14. Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO-World Trade Organization) là một tổ
chức quốc tế đặt trụ sở ở Geneve, Thụy Sĩ, có chức năng giám sát các hiệp
định thương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương
mại. Hoạt động của WTO nhằm mục đích loại bỏ hay giảm thiểu các rào cản
thương mại để tiến tới tự do thương mại. Tính đến ngày 30 tháng
11 năm 2015, WTO có 162 thành viên. Mọi thành viên của WTO được yêu
cầu phải cấp cho những thành viên khác những ưu đãi nhất định trong
thương mại, ví dụ (với một số ngoại lệ) những sự nhượng bộ về thương mại
được cấp bởi một thành viên của WTO cho một quốc gia khác thì cũng phải
cấp cho mọi thành viên của WTO.

8


PHẦN I
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản là một trong
những nội dung quan trọng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực tiễn chỉ ra rang, một số nước trên thế
giới nhờ tiến hành phát triển công nghiệp chế biến (các nước đi trước như Anh, Pháp,
Mỹ, Đức…các nước đi sau như Nhật Bản, Đài Loan, Singapore…) đã thúc đẩy các
ngành kinh tế quốc dân, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao. Nông nghiệp là nền tảng,
tạo đà cho công nghiệp và các ngành khác phát triển. Mặc dầu có tầm quan trọng như
vậy, nhưng hiệu quả kinh tế trong sản xuất nông nghiệp ở nước ta hiện nay rất thấp mà
nguyên nhân chủ yếu do công nghiệp chế biến của nước ta chưa phát triển tương xứng
với yêu cầu của sự phát triển nông nghiệp.
Hà Tĩnh là tỉnh thuộc vùng duyên hải Bắc Trung Bộ, phía Bắc giáp tỉnh Nghệ
An, phía Nam giáp tỉnh Quảng Bình, phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp với

nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào, có diện tích tự nhiên 599.717,66 ha, chiếm
1,8% diện tích cả nước.
Kinh tế Hà Tĩnh những năm gần đây liên tục tăng trưởng, giai đoạn 2011-2015
tăng trên 18%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng nhanh tỷ trọng công
nghiệp - xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp. GDP bình quân đầu người
đạt trên 44 triệu đồng. Sự chuyển dịch này được đảm bảo bằng các dự án công nghiệp
lớn, bên cạnh đó là các dự án vừa và nhỏ, đặc biệt là công nghiệp hóa nông nghiệp
nông thôn, thực hiện chương trình nông thôn mới.
Nhu cầu phát triển công nghiệp trên địa bàn các huyện, thị xã, thành phố là một
tất yếu mà phát triển theo hướng hiện đại là phải tập trung vào các Cụm công nghiệp.
Nhu cầu mặt bằng để bố trí cho các cơ sở doanh nghiệp tại địa bàn huyện, thị trong
tỉnh, bao gồm cả các cơ sở đang ở lẫn trong khu dân cư là bức thiết, mỗi huyện, thị cần
thiết quy hoạch 1, 2 cụm công nghiệp cho mục đích này. Đồng thời cần nâng cao hiệu
quả hoạt động tại cụm công nghiệp để phát triển mạnh mẽ các cơ sở công nghiệp, thu
9


hút nhiều doanh nghiệp đầu tư vào hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
phụ trợ công nghiệp tại các cụm công nghiệp giai đoạn này sẽ là tiền đề để phát triển
công nghiệp, cụm công nghiệp cho giai đoạn tiếp theo.
Xuất phát từ một nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu; tư ưởng, tập quán sản
xuất lâu đời nay theo tính tự cung tự cấp. Sản phẩm nông nghiệp, thủy hải sản dưới
dạng thô. Ngoài việc đầu tư phát triển công nghiệp có tầm ảnh hưởng của khu vực
trong nước và thế giới; tỉnh Hà Tĩnh còn có tiềm năng lợi thế về công nghiệp chế biến
nông, lâm nghiệp và thủy sản chưa được phát huy và khai thác. Tổng diện tích tự
nhiên 599782 ha, 137 km bờ biển, trên 3500 tàu thuyền đánh bắt thủy hải sản; trên
6500 ha diện tích nuôi trồng thủy sản; đất sản xuất nông nghiệp 130 ngàn ha, chiếm
21,69%; đất sản xuất lâm nghiệp 352 ngàn ha, chiếm 58,67%, trong đó đất rừng sản
xuất 164 ngàn ha, chiếm 27,35% đất tự nhiên; có 357 ngàn hộ tham gia sản xuất nông,
lâm nghiệp và thủy sản, trong tổng số 371 ngàn hộ gia đình toàn tỉnh, chiếm 96,22%;

250 ngàn con trâu bò, trên 400 ngàn con lợn và 4,8 triệu con gia cầm; hàng năm sản
xuất trên 77 ngàn tấn sản phẩm chăn nuôi các loại và trên 43 ngàn tấn thủy hải sản;
506 ngàn tấn lúa; 27 ngàn tấn ngô; 40 ngàn tấn khoai; 47 ngàn tấn sắn; 41 ngàn tấn
lạc; 14 ngàn tấn cam; hơn 1 ngàn tấn dứa; trên 230 ngàn m3 gỗ các loại … thuận lợi
cho phát triển công nghiệp chế biến hàng nông, lâm nghiệp thủy sản.
Thực hiện các chủ trưởng của Đảng, Nhà nước trong phát triển kinh tế xã hội;
Hà Tĩnh trong những năm gần đây có tốc độ tăng trưởng kinh tế tương đối cao. Thực
hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu quốc gia; trong đó có Chương trình Mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới là điểm sáng trong toàn quốc. Gắn phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hóa theo chuỗi giá trị. Các đề án và chính sách phát triển sản xuất
được ra đời. Gắn sản xuất nông nghiệp với công nghiệp chế biến sâu, chế biến sạch.
Về đời sống và thu nhập, Hà Tĩnh cũng đang là một tỉnh có thu nhập thấp, dưới
mức bình quân chung của cả nước, trong đó thu nhập từ nông lâm nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn nên kéo mức thu nhập chung xuống; tỷ trọng thu nhập từ công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp chưa đáng kể; công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp phát triển chưa
tương xứng làm động lực thúc đẩy cho nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản phát triển;
chưa tương xứng tiềm năng và lợi thế sẵn có của tỉnh, dẫn đến đời sống thu nhập thấp.

10


Một số mô hình nhỏ lẻ, manh mún, một số cơ sở hoạt động cầm chừng, chưa ổn định,
một số mô hình hình thành khu, cụm công nghiệp sản xuất, chế biến đang mang tính
thủ công, tự phát; máy móc thiết bị kỹ thuật mới còn hạn chế; nguồn cung cấp và thị
trường nguyên liệu đầu vào và sản phẩm đầu ra chưa được ổn định. Sản phẩm đầu ra
với số lượng không lớn, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường; đặc biệt là thị trường
ngoài nước. Đây là vấn đề đang được các cấp chính quyền và nhân dân tỉnh nhà hết
sức quan tâm, cho nên việc tìm ra các giải pháp thúc đẩy sự phát triển tiểu thủ công
nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản trên địa bàn tỉnh là yêu cầu bức thiết trong giai
đoạn hiện nay.

Đã có nhiều tác giả nghiên cứu và viết về vấn đề phát triển công nghiệp chế
biến nông, lâm nghiệp và thủy sản, nhưng ở những thời gian, gốc độ và ở từng địa
-

phương khác nhau, như:
“Phát triển công nghiệp chế biến nông lâm sản trên địa bàn thị xã Quảng Trị” - Thái

-

Bảo Ngọc, Luận văn thạc sĩ Kinh tế chính trị năm 2015.
“Phát triển ngành công nghiệp chế biến thủy sản theo định hướng xuất khẩu tại Đà

-

Nẵng”- Nguyễn Thị Thu Hương, Luận văn thạc sĩ, năm 2008.
“Phát triển công nghiệp nông thôn tại thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế” –

-

Phạm Thị Duy Hải, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế, năm 2012.
“Giải pháp phát triển công nghiệp-tiểu thủ công nghiệp huyện Hoằng Hóa- Tỉnh Thanh
Hóa” – Đỗ Gia Vinh, Luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế năm 2012.
Tuy nhiên chưa có đề tài trực tiếp nghiên cứu phát triển công nghiệp chế biến
nông, lân nghiệp và thủy sản trên đại bàn tỉnh Hà Tĩnh. Vì vậy, tôi lựa chọn đề tài :
“Phát triển tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu chung
Từ cơ sở khoa học và thực tiễn của phát triển tiểu thủ công nghiệp chế biến nông,
lâm nghiệp, thủy sản, phân tích phát triển ngành công nghiệp nói chung và tiểu thủ công

nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp thủy sản nói riêng trên địa bàn tỉnh để hoạch định
chính sách phát triển kinh tế vĩ mô một cách bền vững.
2.2. Mục tiêu cụ thể

11


Thực hiện Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Hà Tĩnh lần thứ XVIII, nhiệm kỳ
2015-2020, với mục tiêu: “… phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, gắn với nền nông
nghiệp công nghệ cao, quy mô sản xuất lớn”. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể:
- Những vấn đề lý luận cơ bản về công nghiệp chế biến, sản phẩm công nghiệp
sản xuất từ sản phẩm của nông, lâm nghiệp và thủy sản;
- Thực trạng số lượng, cơ cấu doanh nghiệp, hợp tác xã, lao động chế biến
nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh.
- Số lượng, giá trị một số loại sản phẩm chủ yếu của công nghiệp chế biến
nông, lâm nghiệp và thủy sản qua các năm 2010-2014;
- Một số giải pháp phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản
đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
3. Đối tượng, nội dung và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp chế biến nông,
lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
3.2. Nội dung nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu về các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp
chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn, thông qua các chỉ tiêu: số lượng
các cơ sở, cơ cấu các chỉ tiêu, tổ chức sản xuất, phân tích đánh giá kết quả sản xuất,
năng lực sản xuất, nhu cầu sản xuất, thị trường đầu vào đầu ra của sản phẩm, hoạt
động sản xuất tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản; tiềm năng,
lợi thế, nguồn nguyên liệu cho sản xuất tiểu thủ công nghiệp chế biến trên địa bàn tỉnh
Hà Tĩnh.

3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Tỉnh Hà Tĩnh.
- Thời gian: Nguồn số liệu thu thập nghiên cứu từ năm 2010-2014; một số giải
pháp cho giai đoạn 2016-2020.
- Phạm vi nghiên cứu về thành phần kinh tế: Nền kinh tế nước ta nhiều thành
phần (hiện tại có 5 thành phần kinh tế). Giá trị sản xuất công nghiệp tỉnh Hà Tĩnh năm
2014 (giá hiện hành) của thành phần kinh tế cá thể chiếm 32,17%, tương đối lớn trong
12


giá trị sản xuất công nghiệp (Biểu 12) và số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể
năm 2014 của ngành công nghiệp chiếm 23,87% trong tổng số 68.603 cở sở cá thể;
đứng thứ hai sau số cơ sở thương mại là 47,88% (Biểu 2); Luận văn chỉ nghiên cứu
trong phạm vi cơ sở sản xuất công nghiệp chế biến nông lâm nghiệp, thủy sản các cơ
sở kinh tế cá thể hộ gia đình.

4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp chung
Sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà
nước ta để tiếp cận đối tượng và nội dung nghiên cứu theo quan điểm khách quan, toàn
diện, phát triển và hệ thống.
4.2. Phương pháp cụ thể
- Phương pháp thu thập thông tin, số liệu
Số liệu thứ cấp: Được thu thập từ các sách, tài liệu tham khảo chuyên ngành,
các văn bản báo cáo tình hình kinh tế xã hội của tỉnh Hà Tĩnh; Niên giám Thống kê
tỉnh Hà Tĩnh năm 2011-2015; các ấn phẩm của ngành Thống kê Hà Tĩnh; các báo cáo
tổng kết, chuyên đề, đề án, quy hoạch chuyên ngành: Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Sở Công Thương; Văn phòng điều phối xây dựng nông thôn mới tỉnh; các
nguồn tài liệu khác như: Internet, tạp chí chuyên ngành, các đề tài khoa học, luận án,

luận văn liên quan đến tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Số liệu sơ cấp: Điều tra khảo sát với khoảng 151 phiếu cơ sở/hộ gia đình cá thể
sản xuất tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản (xây dựng
phương án chọn mẫu theo thứ tự ưu tiên quy mô giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp
và đến ưu tiên quy mô về số lượng các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp chế biến
nông, lâm nghiệp và thủy sản).
-

Phương pháp phân tích thống kê:
Xử lý tổng hợp thông tin số liệu điều tra sơ cấp theo nhóm, hệ thống, chọn ra
những nội dung liên quan với nhau để tính toán một số chỉ tiêu, như: Cơ cấu, tốc độ, tỷ
lệ phần trăm, số bình quân, lập bảng biểu, vẽ biểu đồ, đồ thị;
Vận dụng số liệu sơ cấp và số liệu thứ cấp để đánh giá, so sánh, phân tích thực

13


trạng về lĩnh vực tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa
bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Phương pháp thống kê mô tả.
- Phương pháp phân tổ.
- Phương pháp so sánh; các chỉ số bình quân.
- Phương pháp phân tích kinh tế: Dựa vào các quy luật kinh tế để giải thích và
đánh giá các hoạt động của các chủ thể sản xuất tiểu thủ công nghiệp chế biến nông,
lâm nghiệp và thủy sản.
- Phương pháp phân tích liên ngành; đặt ngành công nghiệp chế biến nông,
lâm nghiệp và thủy sản trong mối quan hệ tương hỗ với các ngành kinh tế khác và
phân tích liên vùng; đặt công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản Hà
Tĩnh trong mối quan hệ với công nghiệp chế biến của các địa phương trong vùng
và trong hệ thống ngành công nghiệp.

- Phương pháp dự báo, định hướng phát triển và xu triển của thế giới.
4.3. Công cụ xử lý số liệu.
Số liệu sau khi điều tra được phân tích, xử lý bằng Microsoft Excel và phần
mềm chương trình tin học chuyên ngành, SPSS;

5. Đóng góp của Luận văn
- Góp phần làm rõ các vấn đề về lý luận và thực tiễn của việc phát triển tiểu thủ
công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Phân tích, đánh giá thực trạng về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản ở tỉnh Hà Tĩnh và đưa ra một số giải pháp để
phát triển kinh tế phù hợp với trình độ và thế mạnh của địa phương.
- Ngoài ra, lâm văn còn làm tư liệu cho những người quan tâm, nghiên cứu
trong thời gian tiếp theo.

6. Kết cấu của luận văn.
Phần I: Mở đầu.
Phần II: Nội dung nghiên cứu:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công
14


nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Chương 2: Thực trạng phát triển của tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm
nghiệp và thủy sản trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
Chương 3: Phát triển tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy
sản trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đến năm 2025.
Phần III: Kết luận và kiến nghị.
Phần IV: Tài liệu tham khảo.
Phần V: Phụ lục.


15


PHẦN II
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP,
TIỂU THỦ CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ
THỦY SẢN
1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP CHẾ
BIẾN NÔNG, LÂM NGHIỆP VÀ THỦY SẢN
1.1.1. Khái quát về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm
nghiệp và thủy sản
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội cho thấy sự hình thành và phát triển
công nghiệp chế biến gắn với phân công lao động xã hội dưới tác động của sự phát
triển lực lượng sản xuất. Phân công lao động xã hội đã phân chia nền kinh tế sản xuất
xã hội thành nhiều ngành nghề khác nhau, thúc đẩy các ngành sản xuất hàng hóa phát
triển. Sản xuất hàng hoa phát triển, phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, nó
diễn ra ngay trong nội bộ từng ngành sản xuất, hình thành những ngành kinh tế độc
lập. Sự phân công lao động xã hội là cơ sở của nền kinh tế hàng hóa. Công nghiệp chế
biến bước đầu tách ra khỏi nội bộ từng ngành sản xuất, đến mức trở thành một ngành
kinh tế độc lập một cách tương đối. Công nghiệp chế biến tách ra khỏi ngành công
nghiệp khai thác và mỗi ngành công nghiệp đó lại chia nhiều loại ngành nhỏ, chúng
sản xuất ra dưới hình thức hàng hóa, những sản phẩm đặc biệt và đem trao đổi với tất
cả các ngành khác.
C. Mác chia sản phẩm do xã hội sản xuất ra thành hai loại: Tư liệu sản xuất và
tư liệu tiêu dùng. Trên cơ sở đó, nền sản xuất xã hội được chia thành hai khu vực: Khu
vực sản xuất ra tư liệu sản xuất và khu vực sản xuất ra tư liệu tiêu dùng.
Phát triển các quan điểm của C. Mác, Lênin khi phân tích khu vực của nền sản
xuất xã hội đã phân chia các ngành của nền kinh tế thành hai khu vực: Khu vực I: Các

ngành sản xuất tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sản xuất và các ngành sản xuất tư

16


liệu sản xuất để sản xuất tư liệu tiêu dùng. Khu vực II: Các ngành sản xuất tư liệu tiêu
dùng. Với cách chia như thế này, công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản
thuộc nhóm ngành thứ ba: Các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng.
Trong quá trình chuyển sang phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta, để đáp
ứng yêu cầu của công tác quản lý phù hợp với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế, việc
phân loại các ngành trong nền kinh tế quốc dân trong đó có ngành công nghiệp, đã
được tiếp cận theo quan điểm mới. Tại Quyết định số 10/2007/QĐ-TTg ngày
23/01/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc Ban hành Hệ thống ngành kinh tế quốc
dân Việt Nam và Quyết định số 337/QĐ-BKH ngày 10/7/2007 của Bộ trưởng Bộ Kế
hoạch và Đầu tư về việc Ban hành quy định nội dung hệ thống ngành kinh tế của Việt
Nam bao gồm cấp I, cấp II, cấp III, cấp IV và cấp V. Các ngành kinh tế cấp I có 21
ngành, trong đó có các ngành: Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản; Khai khoáng;
Công nghiệp chế biến chế tạo; Sản xuất và phân phối điện nước, khí đốt, nước nóng,
hơi nước và điều hòa không khí; Cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải,
nước thải; Xây dựng; Bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô xe máy và xe có động cơ khác;
Vận tải kho bãi; Dịch vụ lưu trú và ăn uống … Với cách phân loại này, công nghiệp
chế biến chế tạo là một ngành kinh tế độc lập, bao gồm nhiều lĩnh vực sản xuất như:
công nghiệp thực phẩm; công nghiệp dệt và may mặc; công nghiệp đồ gỗ; công
nghiệp giấy và in; công nghiệp hóa dầu; công nghiệp luyện kim; chế biến khoảng sản
không phải là kim loại; công nghiệp chế tạo máy và công cụ kim loại …
Qua đó, chúng ta có thể hiểu ràng: Công nghiệp chế biến chế tạo là một ngành
kinh tế độc lập, bao gồm nhiều lĩnh vực sản xuất, có đặc trưng làm thay đổi về chất
của các đối tượng lao động là nguyên liệu (sản phẩm của khai thác, trồng trọt, chăn
nuôi và thủy sản) thành các sản phẩm trung gian và tiếp tục thành sản phẩm cuối cùng,
từ đó làm tăng giá trị của nguyên liệu nguyên thủy và đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng

của con người.
Từ quan niệm nói trên về công nghiệp chế biến, công nghiệp chế biến nông lâm
nghiệp và thủy sản là một bộ phận hợp thành của công nghiệp chế biến dùng nguyên
liệu là sản phẩm của ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản thực hiện các hoạt
động bảo quản, gìn giữ, cải biến và nâng cao giá trị sử dụng của nguyên liệu từ nông,

17


lâm nghiệp và thủy sản thông qua quá trình cơ nhiệt hóa nhằm đáp ứng nhu cầu của thị
trường, tăng khả năng tiêu thủ sản phẩm của ngành nông nghiệp, lâm nghiệ và thủy
sản, đem lại hiệu quả kinh tế và thu nhập cho người lao động.
Tiểu thủ công nghiệp: Là cụm từ viết tắt của tiểu công nghiệp và thủ công
nghiệp (gọi tắt là tiểu thủ công nghiệp - TTCN).

- Tiểu công nghiệp: Là lĩnh vực sản xuất của các cơ sở công nghiệp có quy mô
nhỏ, bao gồm các nghề thủ công. Thường các cơ sở công nghiệp nhỏ này có
nguồn gốc từ các nghề thủ công phát triển thành; cơ sở sản xuất có quy mô
nhỏ, như kinh tế hộ gia đình, hợp tác xã, doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thủ công nghiệp: Là những nghề sản xuất ra sản phẩm mà kỹ thuật sản xuất
chủ yếu là làm bằng tay. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các nghề thủ
công có thể sử dụng máy, hóa chất và các giải pháp kỹ thuật của công nghiệp trong
một số công đoạn, phần việc nhất định nhưng phần quyết định chất lượng và hình thức
đặc trưng của sản phẩm vẫn làm bằng tay. Nguyên liệu của các nghề thủ công thường
lấy trực tiếp từ thiên nhiên; công cụ sản xuất thường là công cụ cầm tay đơn giản. Là
lĩnh vực sản xuất bao gồm tất cả các nghề thủ công. Cũng có khi gọi là ngành nghề thủ
công nghiệp. Tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn thường gắn liền với thời gian nông
nhàn, nhưng nó lại có thu nhập cao hơn sản xuất nông nghiệp, vì vậy mà nhiều hộ đã
rời hẳn nông nghiệp sang sản xuất tiểu thủ công nghiệp. Cho nên tiểu thủ công nghiệp
phát triển mạnh ở nông thôn thường gắn liền với các làng nghề truyền thống.

-

Thủ công mỹ nghệ: Là các nghề thủ công làm ra các sản phẩm mỹ nghệ, hoặc các sản
phẩm tiêu dùng được tạo hình và trang trí tinh xảo giống như sản phẩm mỹ nghệ. Ở
sản phẩm mỹ nghệ, chức năng văn hóa, thẩm mỹ trở nên quan trọng hơn chức năng sử

-

dụng thông thường.
Nghề thủ công truyền thống: Là nghề thủ công đã có quá trình hình thành và phát triển
qua nhiều đời thợ (trên 100 năm), với những sản phẩm có tính cách riêng biệt được
nhiều người biết đến.
Tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản: Là hoạt động của
tiểu thủ công nghiệp, sản phẩm sản xuất ra có nguồn nguyên liệu đầu vào lấy từ sản
phẩm của ngành nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi), lâm nghiệp (rừng trồng và rừng
tự nhiên), thủy sản (nuôi trồng và đánh bắt thủy hải sản).

18


1.1.2. Nội dung, đặc điểm phát triển tiểu thủ công nghiệp chế biến nông,
lâm nghiệp và thủy sản
1.1.2.1. Nội dung của tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản
Tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản bao gồm một số
ngành sản xuất chính như:
-

Chế biết sản phẩm từ trồng trọt: Xay xát gạo, chế biến tinh bột (sắn, gạo, chất chất bột
khác); nấu rượu, chế biến cà phê; chế biến than từ vỏ trấu; chế biến tinh bột nghệ; ép
dầu lạc; làm bánh bún, bánh đa nem; kẹo cu đơ; chế biến sản phẩm từ rau, củ, quả; chế

biến sợi, thảm từ các loại có nguồn gốc trồng trọt, kể cả chế biến sợi từ sản phẩm chăn
nuôi như sợi tơ tằm v.v.

-

Chế biến từ sản phẩm chăn nuôi, như: Chế biến giò; Chả (chả quế), Giăm bông; Nem
chua gòn.

-

Chế biến từ sản phẩm lâm nghiệp, như: Sản xuất đồ mộc, bàn, ghế, tủ, giường, cánh
cửa; các sản phẩm đan, lát từ mây, song, tre, nứa, lá; các sản phẩm khai thác thu nhặt
từ tự nhiên, như chiếu lác, chiếu cói, đan, lát khác; các sản phẩm thủ công mỹ nghệ …

-

Chế biến từ các sản phẩm từ thủy sản bao gồm các sản phẩm từ nuôi trồng, đánh bắt
thủy hải sản, như: chế biến nước mắm, ruốc; các sản phẩm từ thủy, hải sản.
Phát triển về quy mô của tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và
thủy sản
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học hiện đại về các mô hình kinh tế phát
triển tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản cần phải tổ chức sản
xuất cả về chiều rộng và chiều sâu.

-

Chiều rộng: Tổ chức sản xuất tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy
sản theo chiều rộng, bao gồm số lượng các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp chế
biến, nguồn vốn, số lượng sản phẩm, chủng loại đảm bảo thị trường tiêu thụ.


-

Chiều sâu: Được hiểu một cách khái quát, sản phẩm đạt về chất lượng, mẫu mã, thành
phần, chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu kỹ thuật tiên tiến và quốc tế, đáp ứng nhu cầu
ngày càng cao của người tiêu dùng.
Năng lực sản xuất của tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản
Là khả năng sản xuất của tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và
19


thủy sản thể hiện qua sự chế biến hết sản phẩm của các ngành sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp và thủy sản hiện có và đang còn có khả năng thu mua nguyên liệu từ bên
ngoài địa bàn. Đồng thời, tận dụng các phế phẩm, tiết kiệm, hạ giá thành, sản xuất đa
dạng hóa sản phẩm.
Năng lực còn thể hiện ở trình độ kỹ thuật, trang thiết bị máy móc, công suất, tay
nghề của người lao động, mẫu mã, chủng loại, giá cả sản phẩm.
Thay đổi giá trị, giá cả và tỷ trọng sản phẩm
Tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản làm thay đổi và
tăng thêm giá trị sử dụng và chất lượng của sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản.
Hàng hóa sản xuất ra, với chất lượng cao, thương hiệu tốt, có khả năng cạnh tranh
trong cùng một lĩnh vực. Hàng hóa có khả năng cạnh tranh không chỉ lưu thông trong
nước và ở ngoài nước. Hàng hóa được sản xuất, xuất khẩu ra thị trường nước ngoài.
Khi giá trị sản phẩm hàng hóa tăng là tăng tỷ trọng trong sản phẩm qua chế
biến cũng thay đổi theo. Ví dụ: một sản lượng hàng hóa đã qua chế biến sẽ có giá trị
cao hơn một tấn hàng hóa chưa qua chế biến.
1.1.2.2. Đặc điểm của tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản
So với công nghiệp khai thác và các ngành công nghiệp chế biến khác; tiểu thủ
công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp thủy sản có một số đặc điểm riêng, chi phối
đến việc xác định vai trò và các quan điểm phát triển, quản lý ngành, đó là:
Thứ nhất, do nguồn nguyên liệu có đặc tính sinh vật nên tiểu thủ công nghiệp

chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản thường được tiến hành thông qua hai giai đoạn:
Giai đoạn 1: Sơ chế bảo quản. Giai đoạn này được tiến hành ngay sau khi thu
hoạch, nằm ngoài khu chế biến; chủ yếu sử dụng lao động thủ công với phương tiện
vận chuyển và bảo quản chuyên dùng. Gia đoạn quyết định mức độ tổn thất sau thu
hoạch và chất lượng nguyên liệu đầu vào và chất lượng sản phẩm đầu ra. Đây là giai
đoạn quan trọng, có ý nghĩa xác định thứ hạng sản phẩm ở giai đoạn sau. Nó bao gồm
các công việc cụ thể, như: phơi, sấy, lựa chọn, lưu kho.
Giai đoạn 2, chế biến công nghiệp. Giai đoạn này diễn ra trong các xí nghiệp,
phân xưởng, tổ hợp tác, hợp tác xã, hộ gia đình, cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể; sử
dụng lao động kỹ thuật cùng với máy móc, thiết bị công nghệ cần thiết để chế biến

20


nguyên liệu động, thực vật ra sản phẩm. Ở giai đoạn này, trình độ công nghệ, thiết bị
của công nghân có vai trò và ý nghĩa quyết định mức độ chất lượng sản phẩm chế biến
và mức độ tăng giá trị của nông, lâm thủy hải sản qua khâu chế biến.
Thứ hai, sản phẩm của tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy
sản thường gắn liền với với nhu cầu tiêu dùng của cuộc sống hàng ngày của con người,
ngày càng được nhiều người sử dụng một cách rộng rãi. Do có nhiều yếu tố khác nhau,
như tâm lý tiêu dùng, tập quán tiêu dùng, văn hóa tiêu dùng, thu nhập, tiến bộ khoa
học công nghệ, môi trường … nên việc tiêu dùng trong nhân dân đang tác dụng mạnh
mẽ đến xu hướng và việc phát triển tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và
thủy sản, như: Xu hướng sử dụng các loại nông sản sạch; xu hướng sử dụng các loại
nông sản đã qua chế biến. Hai xu hướng này làm cho các yêu cầu vệ sinh an toàn thực
phẩm, về đảm bảo chất dinh dưỡng, đảm bảo thời hạn sử dụng … ngày càng trở nên
nghiêm ngặt hơn. Điều hành vừa có lợi cho tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm
nghiệp và thủy sản nước ta trong cạnh tranh với các sản phẩm của nước ngoài (do
chưa có điều kiện sử dụng nhiều loại hóa chất, chưa có điều kiện nuôi trồng nhân tạo
nên phần lớn sản phẩm nông nghiệp và thủy sản vẫn mang tính chất sản phẩm tự

nhiên), vừa có tạo ra những tác động bất lợi khác, đặc biệt thường do công nghệ cũ, lạc
hậu, không có khả năng giải quyết các vấn đề mới sinh.
Thứ ba, tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản phát triển
trong sự gắn bó mật thiết với nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Nguyên liệu chính
và chủ yếu của tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản thường có
nguồn gốc sản xuất trong nước. Vì vậy, quy mô, tốc độ phát triển, cơ cấu của tiểu thủ
công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp thủy sản còn phụ thuộc vào rất lớn vào quy
mô, tính chất và trình độ phát triển của sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản.
Mặt khác là ngành chế biến các sản phẩm của nông nghiệp nên công nghiệp chế biến
nông, lâm nghiệp thủy sản là ngành đảm bảo đầu ra cho ngành nông nghiệp, tạo động
lực cho ngành nông nghiệp phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, gắn với thị
trường. Vì vậy, thế mạnh của nông nghiệp nước ta là sản xuất ra nhiều loại sản phẩm
nông sản, lâm sản và thủy hải sản sẽ tạo điều kiện khai thác ngày càng tốt và có hiệu
quả thế mạnh đó. Tuy vậy, nhận thức đặc điểm này cần chú ý tới các vấn đề sau:
-

Nguyên liệu cho tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản không
21


chỉ là sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản, mà còn nhiều loại nguyên liệu do ngành
công nghiệp cung cấp, như các loại vật liệu bao bì, hóa chất. Các loại vật liệu này ngày
càng có vai trò quan trọng; như ở nước ta, chúng chưa được phát triển tương xứng;
chính điều đó làm hạn chế khả năng khai thác thế mạnh sản xuất các loại nông sản
nhiệt đới.
-

Tiến bộ khoa học công nghệ tác động mạnh đến sản xuất và tiêu dùng, tạo ra những
biến đổi lớn và từ đó đặt ra những thách thức to lớn đối vớ tiểu thủ công nghiệp chế
biến nông, lâm nghiệp và thủy sản. Nhiều loại giống mới với những đặc tính mới và

chất lượng cao đã được nghiên cứu và đưa vào sản xuất. Điều này đòi hỏi tiểu thủ
công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản phải nhanh chóng thay đổi sản
phẩm, thay đổi công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật trong sản xuất chế biến. Trong lĩnh vực
tiêu dùng, những yêu cầu về chất lượng sản phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm cũng có
điều kiện tốt hơn và yêu cầu ngày càng cao hơn, khắt khe hơn.

-

Việc phát triển các ngành tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản
và các ngành công nghiệp cần được đặc ra trong mối quan hệ hữu cơ. Phải có các
chương trình đồng bộ có mục tiêu trong việc phát triển ngành hàng, từng nhóm sản
phẩm, từ khâu sản xuất nguyên liệu đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Thứ tư, sản phẩm của tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy
sản rất phong phú, đa dạng về chủng loại, chất lượng và mức độ chế biến. Sự phong
phú, đang dạng này phụ thuộc vào các yếu tố:
- Tiềm năng của nền nông nghiệp (nông, lâm nghiệp và thủy sản);

-

Trình độ kỹ thuật và công nghê của ngành tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm
nghiệp và thủy sản.

-

Nhu cầu, thị hiếu, sức mua của người tiêu dùng. Trong các yếu tố trên, công nghiệp
chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản ở nước ta có nhiều thuận lợi về tiềm năng nông
nghiệp nhiệt đới, nhưng lại đang có nhiều khó khăn do trình độ kỹ thuật và công nghệ
thấp. Bên cạnh đó, thị trường vừa có những thuận lợi vừa có những khó khăn nhất
định.
Thứ năm, tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản là ngành

22


có nhiều ưu thế hơn các ngành công nghiệp khác, như: Vốn đầu tư thấp hơn; thời gian
thu hồi vốn nhanh hơn; các công trình đầu tư có thể nhanh chóng đưa vào sử dụng;
sớm phát huy hiệu quả, do đó khả năng thu hút vốn đầu tư cao hơn.
Các đặc điểm trên quan hệ mật thiết với nhau, phản ánh mối quan hệ giữa lực
lượng sản xuất với các quan hệ kinh tế trong quá trình tái sản xuất, phản ánh mối quan
hệ giữa trình độ khoa học-công nghệ với thị trường. Cần nhận thức đúng các đặc điểm
trên và mối quan hệ giữa chúng để tác động có hiệu quả đến sự phát triển tiểu thủ công
nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản.

1.1.3. Vai trò của tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản
Tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản có vai trò to lớn
đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là đối với lĩnh vực nông nghiệp,
nông thôn, nông dân thể hiện trên các mặt sau:
Thứ nhất, tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản thúc đẩy
nông nghiệp, nông thôn phát triển sản xuất hàng hóa theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Tiểu thủ công nghiệp phát triển, trước hết sẽ mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm nông nghiệp, vừa phục vụ nhu cầu tiêu dùng cho dân cư hoạt động trong ngành
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, vừa chế biến nâng cao giá trị của sản phẩm nông
nghiệp, qua đó nâng cao khả năng tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp không chỉ ở thị
trường trong nước mà còn mở rộng tiêu thụ ở thị trường nước ngoài. Mặt khác, tiểu
thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản cung cấp các yếu tố đầu vào
cần thiết để nâng cao trình độ công nghệ sản xuất nông nghiệp, nhờ đó nâng cao năng
suất lao động, hạ giá thành và nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp, tăng năng
lực cạnh tranh của các sản phẩm nông nghiệp.
Thứ hai, phát triển tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản
góp phần quan trọng vào vấn đề giải quyết việc làm, tăng thu nhập, thực hiện xóa đói,
giảm nghèo. Sự phát triển của tiểu thủ công nghiệp chế biến là điều kiện để thu hút lao

động dư thừa, nông nhàn trong nông nghiệp vào các ngành công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, dịch vụ và gián tiếp tạo thêm việc làm mới ở các ngành có liên quan, thực hiện
tổ chức và phân công lại lao động ở khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay đang có những vấn đề bức thiết cần
23


giải quyết, đó là: Đất đai canh tác hạn chế và manh mún, thiếu vốn, thiếu khoa học kỹ
thuật, năng suất cây trồng vật nuôi có giới hạn, giá cả nông sản thấp, lao động nông
thôn thiếu việc làm, thu nhập thấp, từ đó tư duy của người nông dân mang tính sản
xuất nhỏ, sản xuất lạc hậu... Để phát triển nông nghiệp, nông thôn cần có một chương
trình và giải pháp đồng bộ; vừa phải duy trì tăng trưởng nông nghiệp trong điều kiện
giới hạn về đất đai, tài nguyên; đồng thời phải giảm bớt lao động trong khu vực nông
nghiệp để tạo điều kiện để tăng năng suất lao động nông nghiệp. Đề giải quyết vấn đề
này, phát triển công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy
sản là giải pháp chủ đạo.
Thứ ba, phát triển tiểu thủ công nghiệp hợp lý trên mọi lãnh thổ, mỗi địa
phương sẽ tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nguồn lực, lợi thế của mỗi vùng
lãnh thổ, đảm bảo sự phát triển công bằng, hợp lý giữa các vùng chiến lược phát triển
vùng kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của dân
cư, làm giảm sự phát triển sự chênh lệch giữa các vùng, miền, qua đó hạn chế sự di
dân đến các đô thị lớn gây nên trình trạng quá tải về dân số, về kết cấu hạ tầng, tắc
nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường, phát sinh các tệ nạn xã hội.
Thứ tư, tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản phát triển
sẽ thúc đẩy mở rộng quy mô thị trường, đa dạng hóa mặt hàng xuất nhập khẩu, mở
rộng hợp tác và liên kết quốc tế. Cùng với quá trình phát triển tiểu thủ công nghiệp,
đời sống kinh tế xã hội ngày càng tăng, nhu cầu tiêu dùng trong sinh hoạt và sản xuất
ngày càng phong phú, đa dạng. Để đáp ứng nhu cầu của xã hội, ngoài việc tăng cường
phát triển sản xuất trong nước, cần đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Việc gia tăng
xuất khẩu và nâng cao hiệu quả xuất khẩu đòi hỏi đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu,

đặc biệt là các sản phẩm công nghiệp chế biến, phát triển các ngành có lợi thế cạnh
tranh theo hướng chuyển dần từ các ngành có giá trị thấp sang các ngành có giá trị gia
tăng cao.
Thứ năm, tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản đóng góp
quan trọng và bền vững vào tích lũy của nền kinh tế trên tất cả các mặt: Vốn, khoa học
công nghệ, nguồn nhân lực và những nhân tố cơ bản khác. Tiểu thủ công nghiệp là
ngành có năng suất lao động và giá trị gia tăng cao cho nên tiểu thủ công nghiệp phát
24


triển thúc đẩy công nghiệp phát triển sẽ góp phần tăng nguồn thu cho ngân sách nhà
nước, tăng tích lũy cho doanh nghiệp, tăng thu nhập cho người lao động, tạo điều kiện
tăng đầu tư, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế và xã hội.
Thứ sáu, tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản phát triển
trên các vùng, gắn liền với quá trình phân bổ lực lượng sản xuất, tăng cường tích tụ, tập
trung sản xuất theo lãnh thổ, làm cơ sở cho quá trình hình thành các đô thị nhỏ và giảm
sự khác biệt về trình độ phát triển, sự phân hóa xã hội và các tác động tiêu cực khác.
Thứ bảy, vai trò của tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy
sản góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nghị quyết của Đảng, Nhà nước và các
chương trình mục tiêu quốc gia; trong đó còn tồn tại hai chương trình lớn là: Chương
trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020 theo Quyết định
số 800 QĐ-TTg ngày 04/6 /2010 của Thủ tướng Chính phủ và Chương trình mục tiêu
quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2012-2015 theo Quyết định 1489/QĐ-TTg
ngày 08/10/2012 của Thủ tướng Chính phủ. Thực chất của hai chương trình này cũng
đều là một mục tiêu nâng cao đời sống tinh thần vật chất cho nhân dân.
Phát triển tiểu thủ công nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp và thủy sản nhằm sản
xuất chuỗi hàng hóa và chuỗi giá trị, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời
sống thu nhập, văn hóa cho nhân, nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XII và Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Hà Tĩnh lần thứ XVIII.


1.1.4. Những nội dung cơ bản về kinh tế công nghiệp và tiểu thủ công
nghiệp chế biến nông, lâm nghiệp, thủy sản
- Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP- Index Industry Products) là chỉ tiêu đánh giá
tốc độ phát triển sản xuất ngành công nghiệp hàng tháng, quí, năm. Chỉ số này thường
được tính dựa trên khối lượng sản phẩm sản xuất, nên còn được gọi là “chỉ số khối
lượng sản phẩm công nghiệp”; là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh khái quát tình hình
phát triển toàn ngành công nghiệp nói chung và tốc độ phát triển của từng sản phẩm,
nhóm ngành sản phẩm nói riêng; đáp ứng nhu cầu thông tin của cơ quan quản lý Nhà
nước, các nhà đầu tư và các đối tượng dùng tin khác. Là tỷ lệ phần trăm giữa khối lượng
sản xuất công nghiệp tạo ra trong kỳ hiện tại với khối lượng sản xuất công nghiệp kỳ
gốc. Chỉ số sản xuất công nghiệp có thể tính với nhiều kỳ gốc khác nhau tuỳ thuộc mục
25


×