Tải bản đầy đủ (.pdf) (63 trang)

Viện trợ của một số nước dân tộc chủ nghĩa cho việt nam trong kháng chiến chống mĩ cứu nước (1954 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.45 KB, 63 trang )

Lời cảm ơn
Để hồn thành khóa luận này, em gửi lời cảm ơn chân thành tới Th.s Đinh Ngọc
Ruẫn người luôn giúp đỡ, chỉ bảo, tạo mọi điều kiện cho chúng em hồn thành khóa
luận này.
Qua đây em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong khoa
Sử - Địa trường Đại Học Tây Bắc, trung tâm Thông Tin Thư Viện đã giúp đỡ chúng
em trong q trình tìm tư liệu để hồn thành khóa luận này.
Khóa luận hồn thành khơng tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự góp
ý và bổ xung của các thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, tháng 5, năm 2016
Người thực hiện
Lị Mạnh Hồn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn khóa luận ..................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...........................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................4
4. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi, nghiên cứu .................................................................4
5. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu ..................................................................5
6. Cấu trúc khóa luận .......................................................................................................5
CHƯƠNG 1: SỰ VIÊN TRỢ CỦA CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ...............6
1.1. Cơ sở sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam trong kháng chiến
chống Mĩ (1954 - 1975) ...................................................................................................6
1.2. Viện trợ của Liên Xô .............................................................................................. 17
1.3 Viện trợ của Trung Quốc .........................................................................................26
1.4. Viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa khác .........................................................34
CHƯƠNG 2 SỰ VIỆN TRỢ CỦA CÁC NƯỚC DÂN TỘC CHỦ NGHĨA ................. 41
2.1. Tình hình phong trào giải phóng dân tộc, các nước dân tộc chủ nghĩa sau chiến tranh


thế giới thứ II................................................................................................................................. 41
2.2 Sự viện trợ của các nước dân tộc chủ nghĩa ............................................................ 45
2.2.1 Sự viện trợ của Ấn Độ cho Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước
(1954 1975)....................................................................................................................45
2.2.2 Sự ủng hộ, viện trợ của các nước dân tộc chủ nghĩa khác cho nhân dân Việt Nam
trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước(1954 - 1975) ...................................................52
2.2.2.1 Sự ủng hộ, viện trợ của Cộng hòa Iraq cho nhân dân Việt Nam trong kháng
chiến chống Mỹ cứu nước(1954 - 1975) .......................................................................52
2.2.2.2 Sự ủng hộ, viện trợ của Cộng hòa Nhân dân Băng-la-đét .................................55
2.2.2.3 Sự ủng hộ, viện trợ của Cộng hòa Syria : ..........................................................56
Kết luận ........................................................................................................................58
Tài liệu tham khảo .......................................................................................................60


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn khóa luận
Kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975) hay còn được nhắc tới với tên gọi
là “Chiến tranh Việt Nam” là “một trong những cuộc chiến tranh tốn kém nhất trong lịch
sử nhân loại cho tới thời gian đó” [2; 100]. và là một trong những cuộc chiến ác liệt nhất
của thế kỉ XX . Là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập của nhân dân Việt
Nam. Theo các nhà nghiên cứu, nó cịn là bộ phận trong cuộc chiến tranh Lạnh, của sự đối
đầu Xô - Mĩ, giữa hai khối Xã Hội chủ nghĩa và Tư Bản chủ nghĩa.
Trong cuộc chiến này, các nước xã hội chủ nghĩa và các nước tiến bộ dân tộc
chủ nghĩa đã giúp đỡ viện trợ cho Việt Nam về đủ mọi mặt kinh tế, quân sự, văn hóa,
khoa học kỹ thuật, đào tạo, giáo dục... với đủ các mức độ khác nhau. Nhìn chung viện
trợ ngày càng tăng theo quy mô chiến tranh, đóng vai trị quan trọng trong xây dựng và
chiến đấu.
Kháng chiến chống Mĩ, với quan điểm của Hồ Chí Minh là “tự lực cánh sinh,
dựa vào sức mạnh là chính”; “muốn người ta giúp cho thì trước hết mình phải tự giúp
lấy mình”; “Một dân tộc khơng tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ

thì không xứng đáng được độc lập” [11; 172], cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam
là cuộc chiến của Việt Nam và Mĩ. Tuy nhiên tự lực cánh sinh không phải là cô lập, từ
chối ngoại viện, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã nhận sự giúp đỡ của các nước xã hội
chủ nghĩa và các nước bè bạn khác để chống Mĩ xâm lược. Viện trợ nước ngoài đã có
ảnh hưởng to lớn đến tình hình chiến tranh và đời sống của nhân dân Việt Nam, không
những viện trợ vật chất mà còn viện trợ nhân lực, chuyên gia...
Khác với Mĩ cịn đưa qn lính tham chiến trực tiếp để bảo vệ chính quyền
Việt Nam Cộng Hịa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hịa đã duy trì tính độc lập khi không
chấp nhận cho các nước xã hội chủ nghĩa đem quân tới Việt Nam tham chiến hoặc can
thiệp vào đường lối chiến lược của mình. Điều đó được thể hiện qua nhận định của
Liên Xô: “Khôn khéo vận dụng giữa trung Quốc và Liên Xô, Hà Nội đã giữ được vị trí
độc lập trong các mục tiêu chính trị... Các nhà lãnh đạo Mĩ không thể hiểu được tại sao
Liên Xô, một nước đã viện trợ đủ thứ về kinh tế và quân sự cho Việt Nam dân chủ
cộng hồ, lại khơng thể sử dụng sự giúp đỡ này như là một động lực thuyết phục Hà
Nội từ bỏ các kế hoạch đối với miền Nam của họ để rồi đồng ý đi tới một sự thương

1


lượng.” [1;224]. Viện trợ nước ngoài thay đổi theo từng thời kỳ và có tầm ảnh hưởng
quyết định đến chiến tranh, hình thái chiến tranh, xây dựng và phát triển nền kinh tế
của miền Bắc. Và nó đã giúp Việt Nam chiến thắng Đế quốc Mĩ và Đồng minh, thống
nhất đất nước. Các nước tiến bộ khác đã ủng hộ và tạo nên khơng khí cách mạng, dư
luận quốc tế để ủng hộ Việt Nam.
Trên cơ sở khai thác tư liệu mới, chọn lọc, phân tích cẩn trọng các nguồn tư liệu
của Việt Nam và của các bên có liên quan (Liên Xô trước đây, Mĩ, Trung Quốc) cập
nhật những quan điểm, thành tựu nghiên cứu mới nhất, khóa luận thống kê khá toàn
diện bức tranh về sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa và dân tộc chủ
nghĩa đối với Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 - 1975).
Vậy nên vấn đề nghiên cứu khoa học này có giá trị khoa học và thực tiễn. Về khoa

học khóa luận cung cấp những số liệu, dữ kiện lịch sử quan trọng trong kháng chiến
chống Mĩ là sự ủng hộ, số liệu viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam
cũng như đường lối của Việt Nam trong cuộc chiến này. Về thực tiễn là khóa luận sẽ
cung cấp những tài liệu quan trong cho những bài học của môn Lịch sử Việt Nam, lịch
sử thế giới,lịch sử chủ nghĩa xã hội... qua khóa luận có thể rút ra các phương hướng
cho vấn đề đối ngoại hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Viện trợ của một số nước dân tộc chủ nghĩa cho Việt Nam trong kháng chiến
chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975) là khóa luận có giá trị khoa học và thực tiễn. Xoay
quanh vấn đề này, các đề tài nghiên cứu và các tác phẩm sách, báo, bài viết của các
học giả, nhà nghiên cứu về lịch sử, kinh tế, xã hội.. đã đề cập tới Viện trợ của các nước
xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Có thể kể tới ở
đây một số cơng trình tiêu biểu:
Tác phẩm Các nước xã hội chủ nghĩa ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mĩ,
cứu nước (1954 - 1975), NXB Chính trị quốc gia, của TS. Nguyễn Thị Mai Hoa. Cung
cấp toàn cảnh sự giúp đỡ, viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam trong
kháng chiến chống Mĩ, cứu nước (1954 - 1975).
Bản báo cáo Các nước trong phe xã hội chủ nghĩa đã giúp chúng ta từ năm
1955 đến nay, Phòng lưu trữ Bộ Thương mại. Cung cấp một số tài liệu về viện trợ kinh
tế của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam từ 1955 đến 1975.

2


Năm 1967 tác giả Lưu Quý Kì cho ra đời tác phẩm Phong trào nhân dân thế
giới chống Mỹ ủng hộ Việt Nam. Sách đã đề câp tới sự ủng hộ, giúp đỡ quý báu của
nhân loại tiến bô chống lai chủ nghĩa đế quốc Mỹ, ủng hộ cuộc chiến chính nghĩa của
nhân dân Việt Nam.
Năm 1975 nhà xuất bản Sự thật cho ra đời cuốn Việt Nam đất nước anh hùng .
Sách đề cập tới nhân dân Việt Nam anh hùng chiến đấu vì độc lâp, thống nhất. Sách

cịn đưa tới những thơng tin về sự đóng góp q báu của nhân dân các nước trên thế
giới cho Việt Nam chống Mỹ.
Năm 1995 nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản cuốn Tổng kết cuộc kháng
chiến chống Mỹ cứu nước: Thắng lội và bài học. Cuốn sách đã đưa đến các giai đoạn
của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, sự hi sinh anh dũng của nhân dân Việt
Nam, thắng lợi to lớn ấy có được cũng khơng thể không nhắc tới sư giúp đỡ của các
nước bè bạn anh em.
Năm 2010 Nguyễn Khắc Huỳnh cho ra đời cuốn sách Cuộc kháng chiến chống
Mỹ của nhân dân Việt Nam và tác động của những nhân tố quốc tế . Cuốn sách đã đề
cập tới sự giúp đỡ quý báu của mặt trận dân tộc quốc tế, phong trào giải phóng dân tộc
đối với cuộc chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
Kỉ yếu Tổng kết chiến tranh Việt Nam trong hội thảo khoa học Tổng kết chiến
tranh Việt Nam của hai tác giả Trầ n Tiế n Hoạt và Lê Quang La ̣ng đã phần nào khái
quát lên sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam trong kháng chiến
chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975).
Ngồi ra vấn đề cịn được nhắc tới trong một số sách như: cuốn Lịch sử thế giới
hiện đại, Lịch sử Việt Nam, Hồi kí của các đại xứ đã từng công tác tại Việt Nam, trong
một số báo cáo của các ngành kinh tế, giáo dục, y tế, quân sự...
Vấn đề Viện trợ của một số dân tộc chủ nghĩa cho Việt Nam trong kháng chiến
chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975) mới chỉ được giới thiệu, nghiên cứu xen kẽ trong phần
nội dung cuộc Kháng chiến chống Mĩ cứu nước, lịch sử quan hệ quốc tế, các vấn đề trong
chiến tranh lạnh... hoặc chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu một khía cạnh nào đó mang tính
cục bộ cấp ngành, cấp độ khái quát. Xét chung lại, các tài liệu đó cũng mới chỉ đề cập các
vấn đề mang tính đơn tuyến về từng mặt của sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa
hoặc có khi chỉ là nhắc lại các tiền đề một cách sơ lược để phục vụ cho việc nghiên cứu về
Kháng chiến chống Mĩ.

3



Như vậy, cho đến nay, chưa có một cơng trình khoa học nào trực tiếp nghiên
cứu cụ thể, toàn diện về vấn đề Viện trợ của một số nước xã hội chủ nghĩa và dân tộc
chủ nghĩa cho Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975) .Trên cơ
sở kế thừa những thành quả nghiên cứu của những người đi trước, tổng hợp các tư liệu
có sẵn và tiếp cận được, trong khả năng của mình, chúng tơi tập trung tìm hiểu bối
cảnh, u cầu lịch sử dẫn đến và nội dung của vấn đề Viện trợ của một số nước xã hội
chủ nghĩa và dân tộc chủ nghĩa cho Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước
(1954 - 1975).
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận đưa đến số liệu, thông tin về Viện trợ của một số nước dân tộc chủ
nghĩa cho Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975). Bên cạnh
đó cho thấy sự ủng hộ của nhân dân tiến bộ thế giới tới cuộc chiến đấu của nhân dân
Việt Nam và đường lối kháng chiến mềm dẻo của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong
cuộc chiến tranh Việt Nam. Khóa luận cung cấp tư liệu cho các vấn đề trong nghiên
cứu lịch sử Việt Nam như kháng chiến chống Mĩ cứu nước, quan hệ ngoại giao của
Việt Nam (1954 - 1975), sự phát triển một số ngành kinh tế Việt Nam (1954 - 1975),...
Cung cấp tư liệu cho các vấn đề trong nghiên cứu lịch sử thế giới như lịch sử chủ
nghĩa xã hội, phong trào giải phóng dân tộc ở á, phi, mĩ latin... Hay cho các vấn đề
trong nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế như chiến tranh Lạnh, chiến tranh Việt Nam,
quan hệ của các nước xã hội chủ nghĩa...
4. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi, nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Viện trợ của một số nước xã hội chủ nghĩa và dân tộc chủ nghĩa cho Việt Nam
trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975).
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Cung cấp số liệu viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa, dân tộc chủ nghĩa cho
Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước (1954 - 1975).
4.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: là các hoạt động giúp đỡ, viện trợ tại các nước xã hội chủ
nghĩa,các nước dân tộc chủ nghĩa và Việt Nam.

- Về thời gian : giới hạn chủ yếu từ 1954 đến 1975. Nhưng có đề cập một số vấn đề
trước 1954 và sau 1975 nhằm làm rõ các mối quan hệ và các hành động của các bên.

4


5. Cơ sở tài liệu và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở tài liệu của khóa luận là các sách, báo, bài nghiên cứu từ Việt Nam, tài liệu
nước ngoài.
- Phương pháp nghiên cứu: thực hiện khóa luận này tơi sử dụng phương pháp
tổng hợp, phân tích, hệ thống. Ngồi ra để đề tài hợp lí và khoa học chúng tơi cịn kết
hợp với phương pháp lịch sử và logic cho đề tài này.

6. Cấu trúc khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận khóa luận bao gồm
- Chương 1: Viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa.
- Chương 2: Viện trợ của các nước dân tộc chủ nghĩa.

5


CHƯƠNG 1
SỰ VIÊN TRỢ CỦA CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Cơ sở sự viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam trong kháng
chiến chống Mĩ (1954 - 1975)
Cuộc kháng chiến chống Pháp bền bỉ, anh dũng của nhân dân Việt Nam mà
đỉnh cao thắng là chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội đã buộc chính phủ Pháp phải ký
kết Hiệp định Geneva (7 - 1954), cơng nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và tồn
vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, rút hết quân viễn chinh về nước. Đây là bước ngoặt
quan trọng trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam. Thắng lợi

này mở đường cho cách mạng Việt Nam bước vào một thời kỳ phát triển mới, với
những điều kiện thuận lợi mới, nhưng cũng đầy những khó khăn, phức tạp mới. Đất
nước tạm thời chia thành hai miền với hai chế độ chính trị khác nhau. Miền Bắc được
hồn tồn giải phóng đi lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam còn dưới sự thống trị của đế
quốc Mĩ và tay sai. Cuộc đấu tranh để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước tiếp
tục bằng nhiều hình thức và phương pháp khác nhau trong điều kiện có pháp lý của
Hiệp định Geneva, và là một bộ phận nằm trong cuộc chiến tranh lạnh căng thẳng và
gay gắt.
* Đường lối vận động quốc tế của Việt Nam, ngoại giao Hồ Chí Minh
Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương ra sức tăng cường đoàn kết quốc tế,
tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của bè bạn trên thế giới, mà trước hết là các
nước XHCN, đặc biệt là Liên Xô và Trung Quốc, tạo nên sức mạnh tổng hợp, đánh bại
ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Tuy nhiên, đặt trong điều kiện tình hình thế giới diễn
biến phức tạp thời điểm bấy giờ, khi mâu thuẫn Xô - Trung nảy sinh và ngày càng trở
nên gay gắt, thì việc triển khai chiến lược đồn kết quốc tế của Đảng, Nhà nước Việt
Nam thực không hề đơn giản. Q trình đó địi hỏi ở bộ não chỉ đạo cách mạng Việt
Nam phải kiên quyết giữ vững nguyên tắc, nhưng mềm dẻo về sách lược.
Sau Chiến tranh thế giới thế giới thứ hai, hệ thống các nước XHCN ra đời và
nhanh chóng phát triển với trụ cột là Liên Xơ, Trung Quốc. Thực hiện chính sách ủng
hộ phong trào giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, Liên Xơ và Trung Quốc
đã giành được tín nhiệm ngày càng lớn đối với nhân dân thế giới. Nhưng từ giữa
những năm 50 của thế kỷ XX trở đi, trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế
cũng như trong nội bộ các nước XHCN nảy sinh bất đồng về đường lối, quan điểm và

6


lợi ích. Những bất đồng đó chẳng những khơng được khắc phục, mà ngày càng trở nên
sâu sắc, đặc biệt là giữa Liên Xô và Trung Quốc và được bộc lộ rõ kể từ sau chuyến
thăm Bắc Kinh của N. Khrushchyov (1954) - Tổng Bí thư Đảng Cộng Sản Liên Xô.

Từ năm 1960 trở đi, quan hệ Liên Xô - Trung Quốc xấu đi một cách nghiêm trọng,
mâu thuẫn trở nên cơng khai, báo chí hai nước lên tiếng tố cáo lẫn nhau. Năm 1960,
Trung Quốc công bố văn kiện “Chủ nghĩa Mác - Lênin muôn năm”, Liên Xô cắt viện
trợ cho Trung Quốc và rút chuyên gia về nước. Từ năm 1961 - 1962, mâu thuẫn đã ở
mức căng thẳng với xung đột biên giới làm cho 5.000 người Trung Quốc bị thiệt
mạng. Năm 1963, tờ nhân dân nhật báo Trung Quốc đã có 9 bài xã luận đả kích và phê
phán đường lối của Liên Xơ. Các cuộc thương lượng từ tháng 3 đến tháng 10 - 1964
giữa hai nước rốt cuộc vẫn không giải quyết được bất đồng. Sau năm 1966, quan hệ
Xô - Trung tiếp tục giảm sút nghiêm trọng. Hơn thế nữa, cả hai nước bắt đầu tập trung
một lực lượng lớn quân đội tại khu vực biên giới chung. Lãnh đạo hai nước thậm chí
chính thức kêu gọi quân và dân sẵn sàng bảo vệ biên giới nước mình. Thêm vào đó,
xảy ra những sự kiện như: Sinh viên Trung Quốc ở Moscow bbiểu tình bị ngăn chặn
(15 - 1 - 1967); Đại sứ quán Liên Xô ở Trung Quốc bị Hồng vệ binh đập phá, vây hãm
(26 - 1 - 1967 và 12 - 1 - 1967)... Trước tình hình đó, Bộ Ngoại giao hai nước liên tục
gửi công hàm tố cáo lẫn nhau. Đỉnh cao của sự bất đồng là xung đột biên giới nổ ra
nhiều lần trong năm 1969, quan hệ giữa hai nước đã mang tính chất thù địch rõ rệt.
Báo cáo chính trị Đại hội IX của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (4 - 1969) gọi Liên Xô
là “bọn xét lại” và coi Liên Xô đồng lõa với đế quốc Mỹ, tuyên bố “một thời kỳ mới
chống bọn đế quốc Mỹ và bọn xét lại Liên Xô bắt đầu”. Tuy báo cáo của Đại hội vẫn
xếp Liên Xô sau Mỹ trong hàng ngũ kẻ thù, nhưng lúc này Trung Quốc đã xem Liên
Xơ cịn nguy hiểm hơn Mỹ, vì cho rằng Liên Xơ đang thi hành chính sách bá quyền
nước lớn đối với các nước khác
Trong bối cảnh đó, Việt Nam trở thành “điểm nóng”, liên quan đến lợi ích của
các cường quốc đại diện cho quyền lực của thế giới. Chiến tranh Việt Nam trở thành
một trong những tiêu điểm thể hiện đối sách của mỗi nước. Trong tính tốn chiến lược
của mình, vấn đề Việt Nam được cả Liên Xô và Trung Quốc “cân nhắc” sao cho mỗi
bước đi đều phù hợp với lợi ích chiến lược của mỗi bên. Lá bài Việt Nam trở nên nặng
ký, mà cả Liên Xơ và Trung Quốc đều muốn có trong tay để sử dụng trong các cuộc
thương thuyết bí mật với Mỹ, phục vụ lợi ích quốc gia của mình.
Đương nhiên, Mỹ lập tức lợi dụng tình hình này, nhanh chóng nắm bắt cõ hội,

tiến hành thực hiện các thủ ðoạn ngoại giao, thể hiện chính sách chia rẽ, khoét sâu mâu

7


thuẫn, để giảm thiểu sự đồng tình, ủng hộ về vật chất và tinh thần của hai nước XHCN
lớn là Liên Xô, Trung Quốc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam.
Bằng chính sách ngoại giao tay ba, Mỹ muốn thông qua Trung Quốc và Liên Xô ép
Việt Nam phải giảm bớt những nỗ lực quân sự trên chiến trường, phải chấp nhận
những điều kiện do phía Mỹ đưa ra. Một số nhà nghiên cứu Mỹ cho rằng, giới lãnh
đạo Mỹ đã tính tốn và cân nhắc kỹ phạm vi rộng lớn của những lợi ích chung Mỹ Xô ở những nơi khác nhau trên thế giới - kể cả việc kiềm chế những chính sách của
Trung Quốc, sẽ làm cho Liên Xô sẵn sàng đáp ứng những “sáng kiến” của Mỹ. Phía
Mỹ cũng thừa nhận rằng, Trung Quốc cần sự giúp đỡ của Mỹ để phá thế cơ lập của họ.
Một cách chung nhất, có thể thấy rằng, đưa ra và thực hiện những thủ đoạn ngoại giao
nhằm vào hai nước Liên Xô, Trung Quốc, Wasington tin rằng đây là biện pháp hữu
hiệu, tạo nên sức ép có lợi cho Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam.
Ngay từ những ngày đầu tiên của cuộc kháng chiến chống Mỹ - một cuộc chiến
tranh có mức độ tàn bạo, khốc liệt nhất trong lịch sử thế giới đương đại mà Mỹ tiến
hành chống lại Việt Nam, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chủ trương ra sức phát huy
những nhân tố thuận lợi, hạn chế những khó khăn, phức tạp, biến yếu tố quốc tế, yếu
tố thời đại thành sức mạnh hiện thực để tăng cường thực lực cho cuộc kháng chiến.
Trong chiến lược chung đó, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định Liên Xô, Trung
Quốc là chỗ dựa vững chắc cho công cuộc xây dựng và đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước. Do vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam đề ra một trong
những nhiệm vụ quan trọng là tranh thủ tối đa sự ủng hộ của Liên Xô và Trung Quốc
trên mọi phương diện vật chất, tinh thần, chính trị.... cho cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước. Và như vậy, những bất đồng, căng thẳng trong quan hệ Liên Xô - Trung
Quốc chắc chắn sẽ gây ra những tác động bất lợi, gây nên sức ép lớn, cản trở Việt
Nam thực hiện nhiệm vụ nói trên, ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước. Lúc này, một đường lối đối ngoại phù hợp, tinh tế và khéo léo là hết sức cần

thiết. Đường lối đó phải thỏa mãn ba yêu cầu:
Thứ nhất, tăng cường sự đoàn kết trong phe XHCN trên tinh thần quốc tế vơ
sản, có lý, có tình, góp phần tích cực hàn gắn những bất đồng, rạn nứt đang gia tăng
trong quan hệ Xô - Trung, làm thất bại mưu đồ lợi dụng của Mỹ;
Thứ hai, đảm bảo được quan hệ cân bằng giữa Việt Nam - Liên Xô và Việt
Nam - Trung Quốc, tránh liên minh chặt chẽ với bên này hay bên kia;
Thứ ba, giữ vững được đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ. Đây vừa là một đòi
hỏi khách quan, vừa là một vấn đề hết sức phức tạp, bởi vào thời điểm đó các quan hệ

8


quốc tế chồng chéo, đan xen nhau trong một tổng thể quan hệ của các siêu cường
mạnh nhất thế giới khơng dễ gì phân định tách bạch. Để thắng Mỹ, Việt Nam cần sự
ủng hộ trên mọi phương diện của người anh cả Liên Xô - trụ cột của phe XHCN, đồng
thời không thể thiếu sự giúp đỡ của nước láng giềng lớn với sự hậu thuẫn của gần một
tỷ nhân dân Trung Quốc anh em, trong khi mối quan hệ tay ba này lại thường xuyên
chịu sự chi phối bởi những tính tốn lợi dụng của Mỹ.
Trước những chuyển biến đó, Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước Việt Nam khơng
xem nhẹ tính chất khó khăn và phức tạp của tình hình, có những chủ trương, biện
pháp, thể hiện sự phân tích sắc sảo, sự nhanh nhạy trong hóa giải những nguy cơ, làm
giảm thiểu tối đa tác hại của sự tranh chấp giữa Liên Xô - Trung Quốc và tiềm năng
lợi dụng của Mỹ. Định hướng “củng cố không ngừng tình đồn kết, hữu nghị với Liên
Xơ, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác”[10;158]. được nhấn mạnh tại Hội
nghị Trung ương lần thứ 7 (3 - 1955).
Trong khoảng thời gian từ năm 1956 đến năm 1960, Hồ Chí Minh dẫn đầu các
đồn đại biểu Việt Nam lần lượt đi thăm các nước XHCN: Năm 1956, thăm chính thức
Liên Xơ, Trung Quốc và Mơng Cổ; năm 1957, thăm 9 nước, gồm tất cả các nước
XHCN ở Đông Âu, Bắc Á và một số nước dân tộc chủ nghĩa ở châu Á (trong đó có
Liên Xơ, Trung Quốc); trong hai năm 1959 - 1960, hai lần thăm Trung Quốc và Liên

Xô. Thông qua các hoạt động đối ngoại này, Hồ Chí Minh bày tỏ lịng mong muốn
tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa Việt Nam và các nước, đề cao quan hệ
đoàn kết giữa các nước trong phe XHCN do Liên Xô và Trung Quốc đứng đầu, thơng
báo tình hình Việt Nam, Đơng Dương, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của Liên Xơ,
Trung Quốc đối với sự chuyển hướng đường lối và phương pháp cách mạng ở miền
Nam theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 15 (1 - 1959).
Từ năm 1960 trở đi, khi mâu thuẫn giữa Liên Xô - Trung Quốc đạt mức độ trầm
trọng, Đảng và Nhà nước Việt Nam tăng cường đẩy mạnh các hoạt động trên mặt trận
đối ngoại, hướng trực tiếp vào mục tiêu củng cố, phát triển tình hữu nghị, hợp tác với
Liên Xô và Trung Quốc, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ cho cuộc kháng chiến đang
bước vào giai đoạn quyết liệt. Đảng và Nhà nước Việt Nam đánh giá thực chất những
bất đồng giữa Liên Xô - Trung Quốc với hai mặt hai vấn đề: 2 - Mâu thuẫn tuy gay gắt
nhưng có giới hạn, chủ yếu diễn ra dưới hình thức chiến tranh lạnh là chính; 2 - Mặc
dù sự phân liệt Xơ - Trung còn chưa bất lợi lắm, song về lâu, về dài, nếu khơng được
khắc phục, nó rất là nguy hiểm, tác động bất lợi tới cuộc kháng chiến của nhân dân
Việt Nam. Đảng, Nhà nước Việt Nam luôn coi những điểm khác biệt, những mâu

9


thuẫn trong hệ thống các nước XHCN và giữa Liên Xơ - Trung Quốc là những mâu
thuẫn có tính chất nội bộ, tạm thời, khơng mang tính chất đối kháng, nhưng cần phải
nỗ lực để dẹp bỏ, tránh để cho mâu thuẫn gia tăng, gây bất lợi cho cuộc kháng chiến
của nhân dân Việt Nam; trên cơ sở đó, Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị với cả hai nước. Đề cương cơng tác đối ngoại do
Phạm Văn Đồng trình bày trước Bộ Chính trị đầu năm 1962 nêu rõ nhiệm vụ cần kíp
của Đảng, của Nhà nước là phải góp phần tích cực giữ vững và tăng cường đồn kết
nhất trí trong phe XHCN. Chủ trương đó tiếp tục được nhấn mạnh và cụ thể hóa bằng
những giải pháp lớn, thể hiện trong hệ văn kiện Đại hội lần thứ III của Đảng Lao động
Việt Nam (9 - 1960), Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 9 (12 - 1963), lần

thứ 11 (3 - 1965) và lần thứ 12 (12 - 1965), lần thứ 13 (1 - 1967)... Trong quá trình chỉ
đạo thực hiện tư tưởng ấy, việc được coi là khó khăn nhất là xử lý mối quan hệ giữa
Việt Nam với Liên Xô, Việt Nam với Trung Quốc, giữ được thế cân bằng trong điều
kiện hai nước này đang có những bất hịa sâu sắc, đảm bảo nguyên tắc không đứng về
một bên và không đứng về bên này chống bên kia. Thực hiện nguyên tắc này thật
không đơn giản. Nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện mục tiêu, Đảng Lao động Việt
Nam chủ trương động viên nỗ lực cao nhất ở trong nước, kiên quyết kháng chiến, lấy
việc đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ làm mục tiêu tối cao, làm cơ
sở để tranh thủ sự đồng tình của các nước XHCN, đặc biệt là của Liên Xô và Trung
Quốc. Về phía hai nước anh em, mặc dù có những quan điểm khác nhau, những lợi
ích, chính sách khác nhau đối với Việt Nam và chiến tranh Việt Nam, nhưng cả Liên
Xơ, Trung Quốc đều có điểm tương đồng, mẫu số chung là quan điểm ủng hộ, giúp đỡ
nhân dân Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược, làm nghĩa vụ quốc tế đối với một
nước XHCN - nước Việt Nam DCCH, bảo đảm hịa bình thế giới. Để đảm bảo quan hệ
đoàn kết, hữu nghị với cả hai đồng minh chiến lược, Việt Nam luôn chủ động, tế nhị
trong quan hệ với hai nước, không tham gia các cuộc tranh luận công khai giữa hai
bên, tránh gây ra những hiểu lầm không cần thiết. Tháng 5 - 1963, Trung Quốc Lưu
Thiếu Kỳ sang thăm Việt Nam và vấn đề “chống chủ nghĩa xét lại”, “tách khỏi Liên
Xô” thường xuyên được nêu lên với hàm ý đổi bằng việc Trung Quốc sẵn sàng viện
trợ trọn gói cho Việt Nam. Từ năm 1960 - 1964, Ban Lãnh đạo Đảng Cộng Sản Liên
Xô liên tiếp gửi thông điệp (13 bức thư và thông báo) đề cập đến bất đồng Xô - Trung;
đề nghị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam phải thay đổi lập trường với Trung
Quốc, ngầm tỏ ý sẽ cắt viện trợ qn sự nếu Việt Nam khơng có thái độ “phù hợp”.
Trước tình hình ấy, Việt Nam vẫn nhất quán đường lối đồn kết với cả hai nước và có

10


sự ứng phó mềm dẻo. Năm 1965, Việt Nam hoan nghênh ý kiến của Liên Xô đề nghị
lập Mặt trận thống nhất và lập cầu hàng không để giúp đỡ Việt Nam chống Mỹ, nhưng

khi Trung Quốc phản đối đề nghị này, thì Việt Nam tạm thời gác vấn đề này lại. Việt
Nam cũng cơng khai cải chính những tin tức nói Trung Quốc cản trở hàng viện trợ
quân sự của Liên Xô cho Việt Nam quá cảnh qua Trung Quốc. Trong những năm cuộc
chiến tranh ở Việt Nam trở nên khốc liệt, Hồ Chí Minh đã đi thăm Trung Quốc hai lần
trong năm 1965 và 1966. Việt Nam đồng ý để Trung Quốc cử một đội quân sang làm
đường ở vùng đất Việt Nam gần biên giới với Trung Quốc; đồng thời, Việt Nam cũng
tăng cường quan hệ hợp tác với Liên Xô. Tháng 2 - 1965, Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng Liên Xô A.N. Kosygin đã được Việt Nam đón tiếp trọng thể và thân thiết. Việt
Nam cử đoàn đại biểu Đảng và Nhà nước do Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Trung ương
Đảng dẫn đầu đi thăm Liên Xô (4 - 1965), dự Đại hội lần thứ XXIII Đảng Cộng Sản
Liên Xô (3 - 1966). Đảng Lao động Việt Nam cũng không tham gia Hội nghị 75 Đảng
Cộng Sản và Công nhân quốc tế do Liên Xô triệu tập năm 1970 mà khơng có Đảng
Cộng Sản Trung Quốc tham dự. Lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam trao đổi và thông
báo với lãnh đạo Liên Xô, Trung Quốc về các vấn đề lớn qua các cuộc gặp gỡ cấp cao
khá thường xuyên. Trong 7 năm (1965 - 1972) đã có tới 51 cuộc gặp cấp cao Việt
Nam - Liên Xơ (từ cấp ủy viên Bộ Chính trị trở lên). Với Trung Quốc, số lần gặp gỡ
cũng xấp xỉ[9;51]. Ngày 8 - 10 - 1972, lúc cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ trao cho cố vấn
của Tổng thống Mỹ H.Kissinger “Dự thảo Hiệp định”, thì hai Ủy viên bộ chính trị
khác của Việt Nam cũng trao văn kiện đó cho lãnh đạo Liên Xơ và Trung Quốc.
Một nội dung lớn, quan trọng, nhất quán trong đường lối, chính sách và hoạt
động đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước là làm hết sức mình để khơi phục, củng cố, tăng cường tình đồn kết quốc tế vơ
sản giữa các Đảng anh em, giữa Liên Xô và Trung Quốc. Việt Nam luôn thể hiện
mong muốn Liên Xô, Trung Quốc dẹp bỏ bất đồng, tự kiềm chế, giải quyết từng bước
những bất đồng trên cơ sở có lý, có tình vì lợi ích chung của cách mạng thế giới.
Tháng 1 - 1963, Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam ra tuyên bố đề nghị các Đảng
anh em chấm dứt công kích lẫn nhau trên đài phát thành, trên báo chí và đề nghị họp
các Đảng Cộng Sản để dẹp sự bất hồ trong phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế.
Trong dịp kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười (1967), Hồ Chí Minh đã viết bài
báo nhan đề “Cách mạng Tháng Mười mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc”,

trong đó có đoạn: “Đảng chúng tơi luôn luôn giáo dục cho cán bộ, đảng viên và cho
quần chúng nhân dân lịng u nước chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản, luôn luôn

11


tăng cường đồn kết hữu nghị với Liên Xơ, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và
các nước anh em khác”[10;236]. Đặc biệt, khi quan hệ Liên Xô - Trung Quốc trở nên
căng thẳng từ năm 1966 đến lúc xung đột xảy ra năm 1969, Việt Nam thể hiện rõ ràng
thái độ không ủng hộ cuộc đối đầu của hai nước xã hội chủ nghĩa, tránh làm những
việc có thể đào sâu thêm hố ngăn cách giữa hai nước.
Đặt lợi ích dân tộc, lợi ích bảo đảm thắng Mỹ lên hàng đầu, Việt Nam ln tơn
trọng tiếng nói và vai trị của Liên Xơ, Trung Quốc trong các vấn đề có liên quan.
Đảng, Nhà nước Việt Nam đề ra sách lược mềm dẻo, tránh phê phán trực tiếp ý định
của Liên Xơ thúc đẩy hịa hỗn với Mỹ trong bối cảnh Mỹ leo thang và sa lầy trong
cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhưng cũng khơng phủ nhận hồn tồn lời khun của
Liên Xơ sớm tìm một giải pháp kết thúc chiến tranh thông qua thương lượng. Việt
Nam không công khai phê phán Liên Xơ có ý muốn Việt Nam tạm thời giảm chi viện
cho miền Nam, xuống thang kỹ thuật với Mỹ, một điều khơng thể có được khi đế quốc
Mỹ đang mở rộng chiến tranh và khi tương quan lực lượng ở chiến trường và trên thế
giới chưa cho phép thực hiện. Với Trung Quốc, khi cuộc “cách mạng văn hố” diễn ra,
Việt Nam coi đó là cơng việc nội bộ của Trung Quốc và bày tỏ mong muốn tình hình
Trung Quốc sớm ổn định, khơng làm ảnh hưởng đến sự ủng hộ, chi viện của Trung
Quốc đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam, không gây trở ngại cho việc
quá cảnh hàng viện trợ từ Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu cho Việt Nam. Đảng,
Chính phủ Việt Nam trước sau như một, ủng hộ lập trường của Đảng, Chính phủ, nhân
dân Trung Quốc trong vấn đề giải phóng Đài Loan và những vấn đề quốc tế khác. Việt
Nam ln coi trọng vai trị của Trung Quốc trong quan hệ quốc tế, coi trọng truyền
thống hữu nghị lâu đời giữa nhân dân hai nước và vai trò của Trung Quốc đối với sự
nghiệp chống Mỹ của nhân dân ba nước Đông Dương. Vào dịp đầu và cuối năm 1967,

khi Việt Nam tuyên bố sẽ có thương lượng trực tiếp với Mỹ, nếu phía Mỹ chấm dứt
ném bom và mọi hành động chống phá VNDCCH, phía Trung Quốc tỏ ý muốn Việt
Nam đánh mà chưa vội đàm, Việt Nam đã kiên trì trao đổi, giải thích với Trung Quốc
về bước đi sách lược nhằm kiềm chế Mỹ. Ngày 17 - 11 - 1968, khi tiếp đồn đại biểu
Chính phủ Việt Nam thăm Trung Quốc Mao Trạch Đơng đã nói rằng, Việt Nam đánh
giỏi, đàm phán cũng giỏi và khẳng định ủng hộ phương châm vừa đánh, vừa đàm của
Việt Nam[9;53]. Năm 1971, Trung Quốc sử dụng phương thức “ngoại giao bóng bàn”,
bí mật mời Kissinger - cố vấn an ninh của Tổng thống Mỹ tới Bắc Kinh, dàn xếp,
chuẩn bị cho chuyến đi của Nixon đến Bắc Kinh tháng 2 - 1972, Đảng, Nhà nước Việt
Nam đề nghị Trung Quốc không tiếp Nixon. Đề nghị ấy của Việt Nam mặc dù không

12


được phía Trung Quốc chấp thuận, nhưng Việt Nam vẫn kiềm chế các phản ứng. Các
động thái trên cho thấy, Việt Nam đã tạo dựng được mối quan hệ thoả đáng với cả
Liên Xô, Trung Quốc, dựa trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, không đứng về bên
nào, khơng vì quan hệ với nước này mà làm phương hại tới quan hệ với nước kia.
Khi đặt mục tiêu giữ vững cân bằng trong quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc,
tăng cường củng cố tình đồn kết quốc tế XHCN, trong những trường hợp cần thiết,
Đảng, Nhà nước Việt Nam đã bày tỏ quan điểm, đấu tranh thẳng thắn trên tinh thần
anh, em. Nhằm mục tiêu khẳng định sự nhất trí, thu hẹp bất đồng về những vấn đề
mang tính nguyên tắc, quan hệ trực tiếp tới sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân
dân Việt Nam, từ năm 1971 trở đi, trước thực tế là Liên Xô và Trung Quốc đang điều
chỉnh chính sách đối ngoại một cách mạnh mẽ, nhằm phục vụ lợi ích chiến lược của
mỗi nước, nhất là thái độ của Trung Quốc đối với Mỹ, Việt Nam khẳng định mạnh mẽ
đường lối độc lập tự chủ của mình. Báo chí Việt Nam đăng tải các bài bình luận nhấn
mạnh rằng thời đại của các nước lớn áp đặt các nước nhỏ theo ý của mình khơng cịn
nữa. Tuy vậy, những tun bố chính thức của Việt Nam lúc đó vẫn đề cao quan hệ và
sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc. Việt Nam yêu cầu Liên Xô, Trung Quốc giữ

vững lập trường ủng hộ Việt Nam trên phương diện chính trị, ủng hộ tính chính nghĩa
của cuộc kháng chiến chống Mỹ vì độc lập dân tộc và hịa bình, thống nhất đất nước
của nhân dân Việt Nam; đề nghị các nước thể hiện lập trường đó trên các diễn đàn
quốc tế, trong hoạt động ở Liên Hiệp Quốc và nhất là trong quan hệ với Mỹ. Lập
trường trên đây của Việt Nam đã có tác động nhất định tới Liên Xơ, Trung Quốc.
Trong tuyên bố công khai sau khi tiếp H.Kissinger vào năm 1971, Trung Quốc nhấn
mạnh, vấn đề Việt Nam phải do chính người Việt Nam quyết định, cịn Liên Xơ cũng
thường xuyên khẳng định tinh thần đoàn kết, ủng hộ Việt Nam.
Trong sự nghiệp củng cố, tăng cường tình đồn kết và tranh thủ sự ủng hộ của
Liên Xô và Trung Quốc đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, khơng thể
khơng kể đến vai trị của Hồ Chí Minh - người luôn đề cao tầm quan trọng song trùng
của hai nhiệm vụ: 1 - Tăng cường đoàn kết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt
Nam với Liên Xơ, Trung Quốc; 2 - Tích cực góp phần thu hẹp những bất đồng giữa
hai nước lớn trong phe XHCN. Phát biểu tại khóa họp đặc biệt Xơ - viết tối cao Liên
Xô nhân dịp kỷ niệm lần thứ 40 Cách mạng Tháng Mười Nga (1957) Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: “Trong hoàn cảnh quốc tế hiện nay, khi bọn đế quốc đang âm mưu phá
hoại sự nhất trí của các nước xã hội chủ nghĩa, âm mưu gây một cuộc chiến tranh mới,
thì sự nhất trí của các nước trong phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu có một ý

13


nghĩa đặc biệt to lớn”[14;245]. Trước sự bất đồng giữa các nước XHCN, Hồ Chí Minh
thường xuyên nhắc nhở Đảng và Nhà nước Việt Nam cần đặc biệt quan tâm và làm hết
sức mình để khắc phục sự rạn nứt trong quan hệ giữa các nước, giữ gìn, củng cố tình
đồn kết giữa Việt Nam và Liên Xơ, Trung Quốc, có những chỉ thị cụ thể và uốn nắn
kịp thời các hoạt động ngoại giao để thực hiện có hiệu quả chính sách đối ngoại đối
với Liên Xơ, Trung Quốc.
Bằng sự hiểu biết sâu sắc hai nước bạn lớn của Việt Nam và quan hệ chân
thành, gần gũi với các nhà lãnh đạo hai nước, Hồ Chí Minh đã xử lý thành cơng nhiều

tình huống ngoại giao tế nhị và phức tạp trong quan hệ với Liên Xô, Trung Quốc. Hồ
Chí Minh ln đặt lịng tin vào các nước anh em: “Mọi âm mưu của đế quốc Mỹ hòng
chia rẽ Việt Nam với Trung Quốc, với các nước xã hội chủ nghĩa sẽ thất bại thảm
hại”[14;245].; quan niệm và coi những bất đồng nảy sinh trong hệ thống XHCN, giữa
hai nước Liên Xô, Trung Quốc không phải là chuyện lạ và căn dặn cán bộ, đảng viên:
“Mục đích của ta là vì đồn kết. Vì đồn kết mà phải tranh đấu. Tranh đấu để đi đến
đồn kết chứ khơng nói xấu ai...Phải làm sao trong Đảng và trong nhân dân giữ được
lòng yêu mến và biết ơn với các nước anh em...”[14;245]. Trong những năm cuối đời,
khi viết bản Di chúc lịch sử, Hồ Chí Minh ln trăn trở một nỗi niềm về tình đồn kết,
về sự thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trong khối các nước
XHCN: “Là một người suốt đời phục vụ cách mạng, tôi càng tự hào với sự lớn mạnh
của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bao nhiêu, thì tơi càng đau lịng bấy
nhiêu về sự bất hòa hiện nay giữa các Đảng anh em”[14;250].; đồng thời, bày tỏ một
niềm tin sắt đá: “Tin chắc rằng các đảng anh em và các nước anh em nhất định sẽ
phải đồn kết lại”[14;250]. Hồ Chí Minh đã chủ trương giải quyết những bất hịa
giữa Liên Xơ - Trung Quốc trên quan điểm độc lập, chống khuynh hướng áp đặt cho
nhau, chú trọng việc phát huy, thúc đẩy mặt tích cực trong chính sách đối ngoại của
Liên Xơ, Trung Quốc, hướng việc đồn kết song phương Liên Xơ, Trung Quốc trên
nền tảng chính nghĩa của cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam,
phát huy vai trò của mỗi nước trong việc tranh thủ những xu thế chính trị có lợi cho
cuộc kháng chiến.
Suốt những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), một trong
những nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt của Đảng, Nhà nước Việt Nam là củng cố,
tăng cường tình đoàn kết và tranh thủ sự ủng hộ, viện trợ của cả Liên Xô, Trung Quốc,
của các nước XHCN, củng cố chỗ dựa vững chắc cho cuộc kháng chiến của dân tộc.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ này, Đảng, Nhà nước Việt Nam nhất quán giữ gìn, củng

14



cố tình hữu nghị và thu hẹp bất đồng giữa hai nước XHCN lớn. Đó là chủ trương chiến
lược, một quan điểm mang tính nguyên tắc, bắt nguồn từ mục tiêu của cuộc kháng
chiến và từ nhận thức về sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô, Trung Quốc đối với sự nghiệp
thống nhất đất nước của nhân dân Việt Nam. Bằng sự nỗ lực cao độ, Việt Nam đã
tranh thủ được Liên Xơ, Trung Quốc từng bước đồng tình, đi đến ủng hộ đường lối,
mục tiêu, lập trường và quyết tâm chiến đấu của nhân dân Việt Nam, giành cho nhân
dân Việt Nam sự giúp đỡ to lớn, quý báu về mọi mặt. Việt Nam đã tận dụng vai trị
quan trọng của Liên Xơ trên trường quốc tế, đặc biệt đối với các nước Đông Âu, các tổ
chức dân chủ, hịa bình quốc tế, với phong trào giải phóng dân tộc. Việt Nam tranh thủ
vai trò to lớn của Trung Quốc là hậu phương trực tiếp của Việt Nam, bảo đảm việc đào
tạo cán bộ, xây dựng lực lượng, cung cấp hậu cần, đảm bảo vận chuyển. Việt Nam
tranh thủ các viện trợ khơng hồn lại, cho vay khơng tính lãi với nhiều chương
trình kinh tế, thương mại, lương thực, ngoại tệ... và đặc biệt là quân sự của cả Liên Xơ
và Trung Quốc. Có lẽ, trong thực tiễn lịch sử, hiếm có trường hợp hai nước đối địch
nhau lại cùng cung cấp viện trợ cho một nước thứ ba, như mối quan hệ giữa Việt Nam
với Trung Quốc và Liên Xô thời kỳ này.
Về viện trợ quân sự, Liên Xơ - nước có nền cơng nghiệp quốc phịng hùng
mạnh đã viện trợ cho Việt Nam ngoài một số vũ khí thơng thường, cịn phần lớn là
những vũ khí hiện đại như máy bay, xe tăng, xe bọc thép, tên lửa, pháo phịng khơng,
pháo binh....
Cùng với Liên Xơ và các nước XHCN khác, Trung Quốc đã giành cho nhân
dân Việt Nam sự ủng hộ, viện trợ trên các lĩnh vực chính trị, qn sự, kinh tế, văn hố.
Trong lĩnh vực quân sự, Trung Quốc viện trợ cho Việt Nam chủ yếu là vũ khí bộ binh,
quân trang, quân dụng, lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, một phần nhiên liệu,
phương tiện vận tải và một số xe quân sự, pháo và đạn pháo... Việc thực hiện thành
cơng sự đồn kết với Liên Xô, Trung Quốc và các nước XHCN đã tạo ra cho cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam một sức mạnh tổng hợp cần và đủ để hạn chế một
phần sức mạnh của đế quốc Mỹ, bảo đảm cho nhân dân Việt Nam đánh thắng cuộc
chiến tranh xâm lược quy mơ lớn.
Với mục tiêu hồn thành thắng lợi sự nghiệp thống nhất đất nước, Đảng, Nhà

nước Việt Nam đã động viên, khích lệ nhân dân làm trịn nghĩa vụ dân tộc, giữ gìn tình
đồn kết quốc tế, làm xoay chuyển thái độ của Liên Xô và Trung Quốc theo hướng có
ngày càng có lợi cho đường lối chống Mỹ, cứu nước, góp phần làm giảm bớt khó
khăn, làm thất bại những tính tốn ngoại giao của đế quốc Mỹ.

15


Bằng đường lối đối ngoại thích hợp với thực tiễn quan hệ quốc tế lúc đó, Đảng
và Nhà nước Việt Nam đã hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực của mâu thuẫn
Xô - Trung, của sự chia rẽ và phân liệt trong phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế, làm thất bại kế hoạch lợi dụng mâu thuẫn trong hệ thống XHCN, đặc biệt là giữa
Liên Xô - Trung Quốc để cô lập và làm suy yếu Việt Nam của Mỹ. Sau này, phía Mỹ
đã phải thừa nhận: Một trong những nguyên nhân đưa đến thất bại của Mỹ trong cuộc
chiến tranh xâm lược Việt Nam là đã quá tin vào việc thông qua thủ đoạn hịa hỗn tay
đơi với Liên Xơ và Trung Quốc, lợi dụng bất đồng, đối địch giữa Liên Xô - Trung
Quốc để thực hiện “chiến tranh bóp nghẹt” ở Việt Nam mà không lường trước được
rằng, Việt Nam đã đề ra và thực hiện đường lối kháng chiến chống Mỹ, đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ. Việc lực lượng đồng minh chiến lược của Việt Nam trong lúc
khó khăn, hay thuận lợi chủ yếu đứng về phía nhân dân Việt Nam, kiên định sự ủng
hộ, giúp đỡ quốc tế to lớn cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước là một minh chứng sinh
động về việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trên cơ sở độc lập tự
chủ, tranh thủ tối đa điều kiện quốc tế thuận lợi đi đôi với phát huy sức mạnh nội lực.
Cuôc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh thần thánh
và đã giành thắng lợi vẻ vang. Nó mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc ta, ghi sâu vào lịch sử
chống giặc ngoại xâm hàng ngàn năm của dân tộc.
Sau hiệp định Geneva, tình hình hai miền có nhiều phức tạp, do các thế lực của
Pháp, Mĩ gây ra. Miền Bắc vừa có hịa bình, cơ sở vật chất cịn yếu kém, các cơ sở
kinh tế kì thuật thiếu thốn, bị tàn phá nặng nề sau 9 năm kháng chiến gian khổ, nền sản
xuất lạc hậu và yếu kém, cần có thời gian và tiền bạc để phục hồi và phát triển. Miền

Nam còn bị thực dân đế quốc kiểm soát. Chúng thi hành các biện pháp chính trị quân
sự, để lừa bịp dư luận lập nên chính phủ bù nhìn làm tay sai cho chúng. Chúng điên
cuồng chống phá cách mạng, tàn sát nhân dân, hô hào chống cộng, giết cán bộ. Để bảo
vệ thành quả cách mạng và tiếp tục đấu tranh nhân dân ta tiếp tục cuộc trường chinh,
chống Mĩ cứu nước.
Cuộc chiến tranh Việt Nam do Mĩ gây ra là một trong những cuộc chiến tranh
ác liệt nhất của thế kỉ XX. Tốn kém, kéo dài, ác liệt nó đã tiêu tốn của Mĩ biết bao nhiêu
của cải và nhân lực làm thiệt hại lớn đến kinh tế và tinh thần Mĩ.
Chiến tranh Việt Nam là một “trang sử đen tối” với người Mĩ, khi mà hàng tỉ đô la,
hàng triệu quân tất cả, của cả Mĩ và đồng minh chỉ đổi lại được kết quả là thất bại. Thất bại
ở Việt Nam là “cái tát” vào danh dự “bách chiến bách thắng” của Mĩ. Một quân đội hiện
đại, đông đảo, với không lực và hải quân áp đảo với các loại phương tiện như máy bay, xe

16


tăng, hạm đội bị sa lầy và thất bai ở mọi chiến trường và sau 21 năm phải rút khỏi Việt Nam
không điều kiện.
Dân tộc Việt Nam bằng bản lĩnh và trí tuệ đã giành được chiến thắng. Ngồi
yếu tố chủ quan, để giành thắng lợi cuối cùng, thì dân tộc ta cũng đã nhận được nguồn
sức mạnh từ bên ngồi, đó là sức mạnh của thời đại, của lương tri và cơng lí, đến từ bè
bạn là các nước xã hội chủ nghĩa. Ngay từ kháng chiến chống Pháp các nước xã hội
chủ nghĩa đã giúp đỡ Việt Nam chiến đấu chống thực dân. Đến kháng chiến chống Mĩ,
sự chi viện tiếp tục được duy trì và mở rộng. Miền Bắc xây dựng nên chủ nghĩa xã hội,
miền Nam thắng Mĩ là nhờ công lao vô cùng to lớn từ sự viện trợ của các nước xã hội
chủ nghĩa cho Việt Nam.
Một lần nữa để đi đến thắng lợi cuối cùng, công lao to lớn từ sự giúp đỡ của
nhân dân và chính phủ các nước xã hội chủ nghĩa cần được nhìn nhận một cách đúng
đắn và cụ thể, để khắc sâu thêm tình đồn kết cũng như quan hệ sau này của Việt Nam
với các nước xã hội chủ nghĩa đã giúp đỡ trong kháng chiến chống Mĩ

1.2. Viện trợ của Liên Xô
Theo đánh giá của một số học giả, cũng như các tài liệu các tác giả Xơ Viết đã
thừa nhận, nhìn chung sự giúp đỡ của Liên Xô đối với Việt Nam trong giai đoạn kháng
chiến chống Mĩ thể hiện một số khía cạnh chủ yếu sau đây.
Thứ nhất, mặc dù giúp đỡ Việt Nam, Liên Xơ vẫn khơng muốn “hy sinh” chiến
lược hồ dịu của họ trong quan hệ với Hoa Kỳ.
Thứ hai, Liên Xô sẵn sàng đáp ứng tất cả nhu cầu cần thiết của Việt Nam nhằm
chống lại sự tấn công ngày một mở rộng và ác liệt của đế quốc Mĩ.
Thứ ba, Liên Xô mong muốn thực hiện đàm phán để chấm dứt cuộc chiến hơn
là ngày một dấn sâu vào cuộc chiến tranh đó [4;35]. .Nói một cách khác, với tư cách là
thành trì của phe xã hội chủ nghĩa và một cực đối trọng với Mĩ, Liên Xô mong muốn
thông qua cuộc chiến tranh này thực hiện những mục đích đối ngoại có tính tồn cầu,
chiến lược của mình.
Thơng qua việc khai thác một số tài liệu trong nước và nước ngoài, phần này cố
gắng phác hoạ mối quan hệ Việt Nam - Liên Xô trong giai đoạn từ năm 1954, tức là từ
sau khi Hiệp định Genevađược ký kết (1954), Việt Nam tạm thời bị chia cắt làm hai
miền, cho đến khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng vào năm 1975.
Bối cảnh quốc tế đó đã tác động khá sâu sắc tới quan hệ Việt Nam - Liên Xô,
tới sự chi viện, giúp đỡ của Liên Xô với Việt Nam, đặc biệt là chi viện, giúp đỡ về

17


quân sự. Song nhờ những nỗ lực chung của lãnh đạo hai nước, đặc biệt là phía Việt
Nam, quan hệ Việt Nam - Liên Xô từng bước được xây dựng vững chắc và phát triển
ngày càng toàn diện trên cơ sở các hiệp định, hiệp ước và nghị định song phương.
Trong khoảng 20 năm, từ tháng 7 năm 1955 đến hết năm 1975, Chính phủ Liên Xơ đã
ký với Chính phủ Việt Nam 19 Hiệp định, 1 Hiệp ước và 1 Nghị định thư. Trong đó có
trên 50% là hiệp định về việc Liên Xô viện trợ, giúp đỡ Việt Nam trên hầu hết các lĩnh
vực, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế, văn hoá và khoa học, kỹ thuật [4;46].… Các

hiệp định, hiệp ước và nghị định này là cơ sở pháp lý để Chính phủ Liên Xơ xúc tiến
các hoạt động chi viện, giúp đỡ Việt Nam thực hiện các kế hoạch khôi phục kinh tế,
phát triển văn hố, tăng cường tiềm lực quốc phịng, đẩy mạnh cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước đi đến thắng lợi.
Quan hệ Việt Nam - Liên Xô được xây dựng và phát triển trên nền tảng quan hệ
về chính trị giữa Đảng Cộng Sản Việt và Đảng Cộng Sản Liên Xô. Từ sau khi có quan
hệ ngoại giao giữa hai nhà nước, Chính phủ Liên Xơ đã triển khai hoạt động nhiều
mặt, nhằm hỗ trợ nhân dân Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống lại sự xâm
lược của các nước đế quốc phương Tây, bảo vệ các quyền dân tộc cơ bản của mình. Sự
giúp đỡ của Liên Xơ với Việt Nam trong lịch sử là vấn đề được giới nghiên cứu trong
và ngoài nước quan tâm. Trên cơ sở nguồn tư liệu tập hợp được chủ yếu từ phía Việt
Nam, cơng trình này tập trung làm rõ một số mặt trong sự giúp đỡ của Liên Xô với
Việt Nam trên hai lĩnh vực chính, viện trợ kinh tế, kỹ thuật và viện trợ quân sự những
năm từ 1954 đến năm 1975.
* Viện trợ về kinh tế và kỹ thuật
Tháng 7 năm 1955, nhân chuyến thăm chính thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Chính phủ Liên Xơ đã ký với Việt Nam một số hiệp định cho vay và viện trợ khơng
hồn lại, nhằm giúp Việt Nam khơi phục kinh tế sau kháng chiến chống thực dân
Pháp. Ngày 18 tháng 7 năm 1955, theo thoả thuận giữa hai chính phủ, Liên Xô đã viện
trợ cho Việt Nam 400 triệu rúp để thực hiện kế hoạch 3 năm (1955 - 1957). Trong đó
có 171 triệu rúp để nhập các thiết bị tồn bộ phục vụ ngành cơng nghiệp, trước hết là
xây dựng các nhà máy điện và hệ thống đường dây điện, trạm biến thế, đài khí
tượng…; 229 triệu rúp để nhập các máy móc lẻ và hàng hố phục vụ nông nghiệp và
cải thiện đời sống [24].

18


Những năm từ 1958 - 1960, khi Việt Nam thực hiện kế hoạch 3 năm cải tạo
kinh tế, phát triển văn hố, Liên Xơ tiếp tục cho Việt Nam vay tín dụng dài hạn “450

triệu rúp, trong đó có 100 triệu rúp (hiệp định ký tháng 3 năm 1959) để thực hiện kế
hoạch 3 năm (1958 - 1960) và 350 triệu rúp (hiệp định ký ngày 14 tháng 6 năm 1960)
để mua trang thiết bị, máy móc xây dựng 46 nơng trường quốc doanh, trong đó có 19
nơng trường mới và củng cố 27 nông trường khác. Hầu hết các nông trường này đều
trồng các loại cây nhiệt đới lâu năm, như: chè, cà phê, cao su và các loại cây ăn quả
như: cam, chuối, dứa… phục vụ xuất khẩu. Cũng thời gian này, Liên Xơ cịn giúp Việt
Nam xây dựng 21 đài khí tượng thuỷ văn, 156 trạm thuỷ văn các cấp, chủ yếu phục vụ
ngành nông nghiệp” [14;281].
Khi Việt Nam thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 - 1965), Liên Xô đã
ký với Việt Nam nhiều hiệp định trợ giúp về kinh tế và kỹ thuật, như: Hiệp định về
việc Liên Xô giúp Việt Nam thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân những năm
từ 1961 - 1965 (ký ngày 23 tháng 12 năm 1960); Hiệp định về việc Liên Xô giúp đỡ về
kinh tế và kỹ thuật, cung cấp thiết bị và vật liệu cho Việt Nam trong việc xây dựng và
mở rộng một số xí nghiệp và cơng trình cơng nghiệp (ký ngày 15 tháng 9 năm 1962)...
Theo tinh thần các hiệp định này, Liên Xô giúp Việt Nam 460 triệu rúp, bao gồm các
khoản cho vay tín dụng dài hạn và viện trợ khơng hồn lại; hỗ trợ Việt Nam các thiết
bị kỹ thuật, vật liệu để xây dựng các nhà máy và nhiều cơng trình dân dụng khác.
Cho đến cuối năm 1964, Liên Xô đã giúp Việt Nam cải tạo và xây dựng “90 xí
nghiệp và cơng trình dân dụng, bao gồm 43 cơng trình cơng nghiệp, 46 nơng trường
quốc doanh và một số trường đại học, bệnh viện. Trong số các cơng trình cơng nghiệp
được Liên Xơ hỗ trợ 100% vốn và vật tư, kỹ thuật, đáng chú ý nhất là 7 nhà máy điện
(Vinh, Thanh Hoá, Lào Cai, Phú Thọ, Phả Lại, Tà Sa, Nà Ngần) với tổng cơng suất là
71.300 ki - lơ - ốt và 8 đường dây tải điện dài 130 kilômét. Nhiều công trình khai
khống và xí nghiệp chế biến thực phẩm khác, như: mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng, mỏ
apatít Lào Cai, nhà máy cá hộp Hải Phòng” [24].… cũng được Liên Xô hỗ trợ, đầu tư
xây dựng trong thời kỳ này.
Từ năm 1965, khi đế quốc Mĩ leo thang đánh phá miền Bắc và tiến hành cuộc
chiến tranh cục bộ ở miền Nam, Chính phủ Liên Xơ lên án mạnh mẽ hành động leo
thang chiến tranh của Mĩ và công khai viện trợ nhiều mặt cho Việt Nam. “Từ năm
1965 đến năm 1975, Liên Xô đã ký với Việt Nam 12 Hiệp định, trong đó có tới 7 Hiệp


19


định về việc Liên Xô cam kết giúp đỡ thêm, viện trợ thêm khơng hồn lại cho Việt
Nam, như: Hiệp định về việc Chính phủ Liên bang cộng hồ xã hội chủ nghĩa Xơ Viết
viện trợ thêm khơng hồn lại về kinh tế cho Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà (ký ngày 10 tháng 7 năm 1965); Hiệp định giữa Chính phủ nước Việt Nam dân
chủ Cộng hồ và Chính phủ Liên bang cộng hồ xã hội chủ nghĩa Xô Viết về việc giúp
đỡ thêm về kỹ thuật cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (ký ngày 21 tháng 12 năm
1965); Hiệp định về việc Chính phủ Liên bang cộng hồ xã hội chủ nghĩa Xơ Viết viện
trợ khơng hồn lại về kinh tế cho Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà trong
năm 1966 (ký ngày 21 tháng 12 năm 1965); Hiệp định về việc Chính phủ Liên bang
cộng hồ xã hội chủ nghĩa Xơ Viết viện trợ khơng hồn lại cho Chính phủ nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà (ký ngày 25 tháng 11 năm 1968)” [4;11].…
Đầu tháng 7 năm 1973, để giúp nhân dân Việt Nam nhanh chóng khơi phục nền
kinh tế sau chiến tranh phá hoại lần 2 của Mĩ, Uỷ ban trung ương Đảng Cộng Sản Liên
Xô và Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã thông qua quyết định: coi tất cả các khoản tín
dụng cho Việt Nam vay trong những năm trước đó nhằm phát triển kinh tế là viện trợ
khơng hồn lại. Theo tinh thần đó, ngày 12 tháng 7 năm 1973, Chính phủ Liên Xơ đã
ký với Chính phủ Việt Nam Hiệp định miễn cho Việt Nam trả các khoản nợ đã vay
[10;309]. Trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, đây là quyết định rất quan trọng, thể hiện tình
hữu nghị, sự cảm thơng, chia sẻ và quan tâm to lớn của Đảng Cộng Sản Liên Xơ và
Chính phủ Liên Xơ với nhân dân Việt Nam. Các khoản tín dụng khơng phải hồn lại
đó đã góp phần cổ vũ và trợ giúp nhân dân Việt Nam trong việc khôi phục nền kinh tế
miền Bắc sau chiến tranh phá hoại và đẩy nhanh các chiến lược quân sự, tiến tới giải
phóng hồn tồn miền Nam vào đầu năm 1975.
“Trong khoảng 20 năm (1955 - 1974), tổng giá trị các vật tư kỹ thuật và thiết bị
tồn bộ mà Liên Xơ đưa vào Việt Nam để xây dựng và phát triển kinh tế, chủ yếu bằng
con đường viện trợ và cho vay là 2.176.051.000 rúp. Với số vật tư kỹ thuật và thiết bị

tồn bộ này, Liên Xơ đã xây dựng 135 xí nghiệp cơng nghiệp và cơng trình dân dụng ở
Việt Nam, bao gồm 46 cơng trình cho ngành điện lực; 5 cơng trình cho ngành khai
thác khống sản; 19 cơng trình cho ngành cơ khí, luyện kim; 41 cơng trình cho ngành
giao thơng vận tải; 1 cơng trình cho ngành hố chất; 3 cơng trình cho ngành vật liệu
xây dựng và 20 cơng trình cho ngành nơng nghiệp” [17; 483]. Các cơng trình cơng
nghiệp do Liên Xơ giúp đỡ xây dựng, như: các nhà máy thuỷ điện, nhiệt điện, mỏ than

20


Vàng Danh, mỏ thiếc Tĩnh Túc, Nhà máy cơ khí Hà Nội, Nhà máy Super phốt phát
Lâm Thao, nhà máy chè Phú Thọ, nhà máy cá hộp Hải Phòng… đã góp phần xây dựng
mới một số ngành cơng nghiệp ở Việt Nam. Đến cuối những năm 60, các nhà máy, xí
nghiệp do Liên Xơ xây dựng ở miền Bắc Việt Nam đã sản xuất được 46% năng lượng
điện, 90% than đá, trên 80% máy cắt kim loại và 100% sản lượng khai thác các loại
quặng apatít, thiếc và super phốt phát.
Cùng với việc hỗ trợ các máy móc, thiết bị tồn bộ, các khoản tín dụng dài hạn
và viện trợ khơng hồn lại để xây dựng, phát triển kinh tế, Chính phủ Liên Xơ cịn
giúp Việt Nam phát triển ngành giáo dục, đào tạo và trực tiếp đào tạo cán bộ cho Việt
Nam. Từ năm 1955 và nhiều năm sau đó, các hiệp định về hợp tác, trao đổi trên các
lĩnh vực khoa học kỹ thuật và đào tạo giữa Việt Nam và Liên Xô đã được ký kết và
thường xuyên được bổ sung. Liên Xô đã giúp đào tạo hàng ngàn cán bộ các ngành
nghề, để phục vụ xây dựng đất nước và phục vụ kháng chiến :“Theo hướng đó, Liên
Xơ đã giúp Việt Nam xây dựng mới một số trường đại học, như: trường Đại học Bách
khoa Hà Nội, trường Đại học Nông nghiệp I, đồng thời hỗ trợ tu sửa, nâng cấp, xây
dựng mới một số trường dạy nghề khác. Đến đầu những năm 70 đã có trên 7.000 nam,
nữ thanh niên Việt Nam được đưa sang học tập và công tác tại Liên Xô. Trong số đó
có 4.500 người được đào tạo trong các trường đại học tại 35 thành phố của Liên Xô
lúc bấy giờ. Đây là nguồn nhân lực rất quan trọng cho sự nghiệp cơng nghiệp hố xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhiều người trong số đó sau này đã trở thành những nhà

lãnh đạo cấp cao của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Nhà nước, những nhà khoa học đầu
ngành, những chuyên gia, nhà quản lư trên rất nhiều lĩnh vực ở Việt Nam. Cũng thời
gian đó, nhiều chuyên gia kinh tế và kỹ thuật giàu kinh nghiệm của Liên Xô cũng
được Chính phủ Xơ Viết đưa sang cơng tác tại Việt Nam. Chỉ trong 5 năm, từ 1955
đến 1960, Liên Xô đã cử sang Việt Nam 1.547 chuyên gia trên hầu hết các lĩnh vực
giúp nhân dân Việt Nam xây dựng và phát triển kinh tế, giúp Việt Nam đào tạo tại chỗ
7.000 công nhân cho các ngành nghề khác nhau” [15; 16].
* Viện trợ về quân sự
Trong những năm 1950 và đầu những năm 1960, Mát - cơ - va đã đứng ngồi
cuộc xung đột ở khu vực Đơng Nam Á. Thủ tướng Liên Xô Nikita Khrushchev muốn
tránh thêm một bế tắc hạt nhân như đã xảy ra trong năm 1962 tại Cuba. Nhưng người
kế nhiệm ông là Alexey Kosygin và Leonid Brezhnev đã đẩy mạnh viện trợ quân sự.

21


Vào mùa xuân năm 1967, một dòng chảy viện trợ đã từ Liên Xô vào miền Bắc
Việt Nam.
Đến cuối những năm 1960, hơn 3/4 trang thiết bị quân sự của miền Bắc Việt
Nam là đến từ Liên Xô. Mát - cơ - va đã đóng góp vũ khí cần thiết cho khả năng quốc
phòng của miền Bắc Việt Nam chống lại cuộc chiến tranh bằng không quân của Mĩ,
bao gồm các hệ thống radar, pháo cao xạ, tên lửa đất đối không (SAM).
Đi đôi với viện trợ về kinh tế và kỹ thuật, Chính phủ Liên Xơ cịn viên trợ Việt
Nam các mặt hàng chiến lược về quân sự, giúp Việt Nam tăng cường tiềm lực của nền
quốc phịng tồn dân, bảo vệ tổ quốc. Theo một nguồn tài liệu của Việt Nam, tổng
trọng lượng các mặt hàng quân sự, bao gồm cả hậu cần quân sự và kỹ thuật qn sự
mà Chính phủ Liên Xơ viện trợ Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước là
513.582 tấn. Các mặt hàng qn sự này được Chính phủ Liên Xơ thực hiện qua nhiều
giai đoạn với số lượng khác nhau, cao nhất là giai đoạn 1965 - 1968: 226.969 tấn; tiếp
đến là giai đoạn 1969 - 1972: 143.793 tấn; giai đoạn 1973 - 1975: 65.601 tấn; giai

đoạn 1961 - 1964: 47.223 tấn và cuối cùng, thấp nhất là giai đoạn 1955 - 1960: 29.996
tấn [11;2]...
Riêng về các mặt hàng kỹ thuật, chủng loại các vũ khí, khí tài Liên Xơ viện trợ
Việt Nam trong kháng chiến chống Mĩ khá phong phú. Đem so với viện trợ chung về
quân sự của các nước xã hội chủ nghĩa:
Về súng: Liên Xô đã viện trợ Việt Nam 439.198 khẩu súng bộ binh, chiếm
12,17%; 5.630 khẩu súng chống tăng, chiếm 8,6% và 1.076 khẩu súng cối các loại,
chiếm 3,8% viện trợ cùng loại của các nước xã hội chủ nghĩa [11;3]..
Về pháo và đạn pháo: Liên Xô đã viện trợ Việt Nam 1.877 khẩu pháo hoả tiễn,
chiếm 86,6%; 789 khẩu pháo mặt đất, chiếm 32,5% và 480 quả đạn tên lửa K681,
chiếm 50% viện trợ cùng loại của các nước xã hội chủ nghĩa.
Về máy bay và tàu chiến: Liên Xô đã viện trợ Việt Nam 316 chiếc máy bay
(bao gồm máy bay chiến đấu và máy bay vận tải quân sự), chiếm 69%; 52 chiếc tàu
chiến hải quân, chiếm 63,4% và 21 chiếc tàu vận tải hải quân, chiếm 14,1% viện trợ
cùng loại của các nước xã hội chủ nghĩa.
Về các loại xe và các thiết bị kỹ thuật quân sự phục vụ thông tin liên lạc, phục
vụ công tác hậu cần, giao thông vận tải, Liên Xô đã viện trợ Việt Nam 687 chiếc xe
tăng các loại, chiếm 55%; 601 chiếc xe vỏ thép, chiếm 62,5%; 1.332 chiếc xe xích kéo

22


pháo, chiếm 55,2%; 498 chiếc xe chuyên dùng (xe đặc chủng), chiếm 5,2%; 100 chiếc
xe máy cơng trình, chiếm 2,4%; 12 bộ phao cầu, chiếm 30%; 56 bộ ống dẫn dầu,
chiếm 50%; 4.500 km đường ống dẫn dầu dã chiến, chiếm 90% và 37 bộ thiết bị toàn
bộ về kỹ thuật quân sự chiếm 58,7% viện trợ cùng loại của các nước xã hội chủ nghĩa.
Là quốc gia có nền cơng nghiệp quốc phịng hùng mạnh, Liên Xơ cịn là nước
duy nhất đã viện trợ Việt Nam 647 bộ điều khiển; 1.357 bệ phóng tên lửa; 10.169 quả
đạn tên lửa; 23 quả tên lửa SA - 75M; 8.686 quả đạn tên lửa VT 50v và 2 trung đoàn
tên lửa S125” [11;2].

Việc Liên Xơ cung cấp vũ khí và thiết bị quân sự cho miền Bắc Việt Nam đã
góp phần thay đổi hoàn toàn cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Các loại vũ khí này, dù
khơng phải là loại mới nhất trong kho vũ khí của Mát - cơ - va, nhưng tiên tiến hơn so
với vũ khí sử dụng tại Việt Nam, dẫn đến nhiều chiến thắng trước quân Mĩ. Máy bay
Mĩ bỏ chạy khỏi bầu trời Bắc Việt Nam khi những vệt lửa của tên lửa SAM xuất hiện.
Nhiều máy bay Mĩ đã bị hạ do tên lửa của miền Bắc Việt Nam. Vào tháng
8.1965, các tên lửa SAM đầu tiên đã bắn vào 4 chiếc F - 4 Phantom của Mĩ và hạ
được 3 chiếc, đánh dấu lần đầu tiên máy bay Mĩ bị tấn công bằng tên lửa SAM.
Các máy bay ném bom chiến lược của Mĩ cũng giảm sự xuất hiện trên vùng trời
Bắc Việt Nam sau khi bị trúng tên lửa SAM do Nga cung cấp (các tên lửa này là tiền
thân của các hệ thống phịng khơng hiện đại S - 300 và S - 400 ngày nay). Các chuyên
gia quân sự tình nguyện Nga đã bắn tên lửa SAM, hạ một trong những chiếc B - 52
đầu tiên trên bầu trời Hà Nội. Một chuyên viên tên lửa Nga đã nói với Đài phát thanh
Nước Nga: "Sau khi chúng tôi đến Việt Nam, các phi cơng Mĩ liền từ chối bay".
Thêm vào đó, sau sự kiện Vịnh Bắc Bộ tháng 8 năm 1964 và khi bất đồng Xô Trung đã bộc lộ công khai, nguyên tắc “giúp đỡ chung” [9;2]. giữa Liên Xô và Trung
Quốc với Việt Nam khơng cịn hiệu lực, việc q cảnh hàng hóa viện trợ của Liên Xơ
qua Trung Quốc gặp khó khăn, hầu hết các trang thiết bị kỹ thuật, khí tài quân sự và
các loại vật tư, hàng hố khác mà Liên Xơ viện trợ Việt Nam đều được các hải đồn
Xơ Viết trực tiếp vận chuyển tới Việt Nam bằng đường biển, bất chấp mọi nguy hiểm
bởi sự phong toả gắt gao và đánh phá rất ác liệt của lực lượng không quân Mĩ trên
vùng biển miền Bắc Việt Nam. Một số tàu của Liên Xô như tàu Polock, tàu
Turkestan… đã bị máy bay Mĩ bắn phá khi đang làm nhiệm vụ quốc tế trên các cảng
biển miền Bắc Việt Nam.

23


×