Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Tìm hiểu về bệnh phong và các triệu chứng của bệnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (204.51 KB, 11 trang )

Bệnh phong

Tìm hiểu về bệnh phong và các triệu chứng của
bệnh
Bệnh phong (hay còn được biết đến là bệnh phong cùi, bệnh hủi) là một loại bệnh lây truyền qua tiếp xúc da
với da và kéo theo nhiều biến chứng ảnh hưởng lớn cho con người. Bệnh phong hủi trước kia là cơn ác mộng
của biết bao người vì nó đã hành hạ người bệnh trong đau đớn cho đến chết.

Bệnh phong cùi là gì?
Bệnh phong (cùi, hủi) là một căn bệnh nhiểm khuẩn bởi một loại trực khuẩn phong Hansen gây ra. Bệnh phong
phát triển rất chậm, không dễ lây truyền từ người nọ sang người kia nhưng lại kéo dài rất nhiều năm, và thường
lây truyền qua đường da hoặc hô hấp, vì thế rất khó xác định bệnh nhân bị nhiễm bệnh ở đâu và khi nào. Trẻ
em thường dễ nhiễm bệnh hơn người lớn.

Triệu chứng của bệnh phong
Tùy vào sức đề kháng của bệnh nhân mà các triệu chứng của bệnh phong phát triển nặng hay nhẹ:
– Dấu hiệu thường gặp là mất cảm giác, trước tiên ở tay và chân. Người bị bệnh hủi có khi bị bỏng mà không
biết.
– Trên da xuất hiện những nốt nhỏ nhạt màu hoặc những nốt to hình tròn, ở giữa mất cảm giác; dây thần kinh to
lên tạo thành các sợi to hoặc thành cục ở dưới da, có nơi bị loét kinh niên nhưng lại không đau và không ngứa.
– Da mặt dày cộm, nổi cục hoặc dái tai dày, ngắn và vuông. Lông mày rụng, lúc đầu là phía ngoài, sau rụng
toàn bộ.
– Trường hợp bệnh đang tiến triển, tay chân có thể bị liệt, trông giống như các vuốt. Ngón chân, ngón tay hoặc
toàn bộ tay, chân có thể dần dần bị cụt, trở thành những mỏm cụt.
– Thần kinh ngoại vi tổn thương khiến bàn tay bàn chân không cử động, cứng lại, co quắp. Họ đi lại khó khăn
và không cầm đồ vật được.
– Bàn chân thủng loét và nhiễm độc.
– Giác mạc tổn thương, mờ đục, áp nhãn tăng cao, mắt khô, không chớp mắt và có thể đưa tới khiếm thị, mù
lòa
– Bộ phận sinh dục của nam giới kém phát triển, dần dần thành vô sinh.


Điều trị bệnh phong hủi


Tuy hiện nay vẫn chưa có vắc xin đặc hiệu để phòng ngừa sự nhiễm bệnh nhưng bệnh đã có phương pháp điều
trị rất hiệu quả. Bệnh có thể chữa khỏi hoàn toàn trong 6 đến 12 tháng tùy theo mức độ bệnh và điều trị bệnh
phong là hoàn toàn miễn phí. Các loại thuốc được dùng để điều trị bệnh phong như: Dapsone, Rifampin,
Clofazimine, Ethionamide, Aspirin, prednisone, hoặc thalidomide dùng để kiểm soát tình trạng viêm

Phòng bệnh
Hiện nay, bệnh chỉ xảy ra rất ít tại một số quốc gia chứ không là dịch như cúm. Bệnh lại rất khó lây lan, cho
nên giới chức y tế khuyến cáo mọi người:
– Tránh tiếp xúc trực tiếp với dịch mũi, miệng của bệnh nhân.
– Rửa tay sạch sẽ sau khi chăm sóc, tiếp xúc với bệnh nhân.
– Hiểu biết rõ ràng về nguyên nhân, diễn tiến của bệnh và phát hiện sớm các dấu hiệu của bệnh phong để có
phương thuốc điều trị kịp thời.

Người bệnh phong vật lộn với cuộc sống ra sao?
Ðây là những con người bất hạnh với những khuyết tật về thể xác và đau đớn tinh thần mà không phải ai cũng
hiểu được.
Một số đông người đã bị khuyết tật nặng, chân tay đã bị tàn phế, mất hết cảm giác và không còn khả năng để tự
chăm sóc và mưu kế sinh nhai. Họ không ngừng vật lộn với những khó khăn thường ngày và những mặc cảm
do xã hội gây ra.
Nỗi khổ đau của họ không phải chỉ là sự tàn khuyết của cơ thể nhưng là sự ruồng bỏ của xã hội và thiếu vắng
tình nhân loại. Họ tìm vào trong những thâm sơn cùng cốc để an phận, quằn quại đớn đau dưới sự tàn khốc của
chứng bệnh và sự lạnh cảm của xã hội.
Trong thời đại ngành y học phát triển như hiện nay, bệnh phong (cùi, hủi) không còn nguy hiểm đến tính mạng
người bệnh như trước nữa. Tuy nhiên, bệnh phong vẫn để lại nỗi đau khó chữa cho người bệnh mặc dù sau khi
được điều trị xong, vì thế người mắc bệnh phong cần được đối xử bình đẳng và quan tâm, chăm sóc như bao
người bình thường khác.


Bài giảng bệnh phong, hủi (leprosy)
Trực khuẩn hình gậy, kháng cồn, kháng toan về phương diện nhuộm,
kích thước 1,5 - 6 micron, nhuộm bắt màu đỏ tươi theo phương pháp
Ziehl - Neelsen.
Định nghĩa
Là bệnh gây nên do trực khuẩn Hansen, bệnh có tính chất kéo dài và lây, có biểu hiện toàn thân
nhưng nổi bật và thường xuyên nhất là triệu chứng da và một số dây thần kinh.
Danh từ: phong, phung, cùi, hủi, bệnh Hansen nay thống nhất gọi là bệnh phong.

Quan niệm về bệnh phong
Cũ cho là bệnhnan y, không chữa khỏi được, sợ hãi, đối xử tàn bạo với người bệnh.


Mới: cho là bệnh lây, có thể khống chế cắt được lây lan, chữa khỏi được, đối xử nhân đạo với người
bệnh.
Xu hướng thế giới hiện nay là cắt đứt lây lan bằng rifampicin,điều trị bệnh phong bằng đa hóa trị liệu,
điều trị tại gia đình, tại bệnh viện như các bệnh khác tiến tới thanh tóan bệnh phong.

Dịch tễ học
Trực khuẩn Hansen (BH) tên khoa học Mycobacterium Leprae do nhà bác học người Na Uy Armeuer
Hansen phát hiện 1873.
Trực khuẩn hình gậy, kháng cồn, kháng toan về phương diện nhuộm, kích thước 1,5 - 6 micron,
nhuộm

bắt

màu

đỏ


tươi

theo

phương

pháp

Ziehl

-

Neelsen.

Trên tiêu bản da trực khuẩn phong chủ yếu nằm ở trung bì nông và giữa, rải rác hay
thànhđám(amas), thành cụm (globi), thời gian thế hệ 14 ngày, sống ngoài cơ thể được 7 ngày (theo
Rees 1974), đun sôi giết đượcBH, tiêm truyền cho súc vật được nhưng khó, chưa nuôi cấy được
trên môi trường nhân tạo.
Là bệnh lây, (thuyết di truyền đã bị bác bỏ), là bệnh lây nhưng lây ít, tỉ lệ lây giữa vợ chồng là 3 - 6%,
lây chậm, ủ bệnh dài 2 - 3 năm, lây khó.
Đường lây : vi khuẩn xâm nhập chủ yếu qua da bị xây sát, bệnh nhân thường thải vi khuẩn chủ yếu
qua thương tổn mũi, họng ở giai đoạn muộn, chủ yếu là bệnh nhân thể phong u (thể L) và thể phong
trung gian (thể B).
Phong thể L lây nhiều hơn thể phong củ (thểT), lây gián tiếp qua nước, đất, vật dụng là phổ biến,lây
trực tiếp phải trong điều kiện sống thân thiét kéo dài.

Triệu chứng lâm sàng
Thời kỳ ủ bệnh: trung bình 2 - 3 năm ( 6 tháng đến 32 năm), chưa xác định được chính xác.
Triệu chứng sớm: sốt nhẹ, buồn ngủ, cảm giác vướng màng nhện, ít có giá trị, khó phát hiện.
Thời kỳ toàn phát:

Triệu chứng ngoài da:
Vết đỏ hồng hay gặp, đôi khi vết dát trắng bạc màu hoặc ít hơn nữa là dát sẫm màu, điều kiện là tồn
tại lâu và giảm, mất cảm giác.
Dát đỏ, giới hạn rõ hoặc không rõ, không gồ cao trên mặt da.


Mảng củ: đám mảng đỏ, giới hạn rõ ,có bờ gồ cao, bờ có củ nhỏ hoặc củ to lấm tấm bằng đầu tăm,
hạt đỗ, hạt ngô để lại sẹo. Thường gặp trong thể phong củ (LT).
Mảng cộp (u phong), đám đỏ sẫm gồ cao trên mặt da, bóng, giới hạn không rõ, ấn vào cộp lên,
hay ăn vào lông mày, trán, gọi là bộ mặt như sư tử ,gặp trong thể phong u (LL).
Triệu chứng thần kinh:
Giảm, mất cảm giác đau và nóng lạnh ở trên đám tổn thương, dát đỏ, mảng củ hay mảng cộp,u
phong hoặc mất cảm giác đau ở hai cẳng bàn tay, cẳng bàn chân, phát hiện bằng châm kim thử cảm
giác



áp

ống

nước

lạnh,nước

nóng.

Cảm giác sâu nhận biết tỳ đè, áp lực thường còn.
Viêm, sưng một số dây thần kinh như dây thần kinh trụ, cổnông, hông khoeo ngoài,dây thần
kinhsưng nhẹ hoặc sưng to lổn nhổn như chuỗi hạt.

Triệu chứng cơ:
Teo cơ đầu chi, teo cơ giun, cơ liên cốt bàn tay, bàn chân, có thể cả cơ cẳng chân, cẳng tay. Liệt
thần kinh hông khoeo ngòai dẫn đến đi lết,đi cất cần. Liệt thần kinh trụ gây vuốt trụ.
Triệu chứng rối loạn dinh dưỡng:
Hỏng móng, da seo bủng.
Loét ổ gà thường ở bàn chân nơi tỳ nén do rối loạn thần kinh dinh dưỡng, do sang chấn không biết
đau, loét sâu dai dẳng, khó lành.
Rụng lông mày là triệu chứng hay gặp và quí giá.
Cụt, rụt ngón tay, ngón chân.
Loạn chứng bài tiết:
Da khô hoặc mỡ quá.It tiết mồ hôi, da mỡ do rối loạn nội tiết.
Triệu chứng phủ tạng và ngũ quan:
Tổn thương mắt (50%), viêm giác mạc (30%) có thể dẫn đến mù loà tàn phế.
Viêm mũi, viêm họng khản tiếng, hạch sưng.
Viêm tinh hoàn, viêm xương, gan, lách to, có thể có tổn thương toàn thể các cơ quan vì là bệnh toàn
thể.


Các thể lâm sàng
Phân loại các thể phong theo Madrit
Theo hội nghị chống phong quốc tế (1953) ở Madrit, bệnh phong được chia làm các thể sau đây:
Thể I: tức thể vô định, là giai đoạn sớm của bệnh.
Thể T: tức thể củ.
Thể B: tức thể trung gian.
Thể L: tức thể u (trước đây hay gọi là thể ác tính).
Bảng tóm tắt các đặc điểm riêng của từng thể như sau:

Đặc điểm

I (vô định)


T (thể củ)

B (trung gian)

L (phong u)

Lâm sàng

Dát

Mảng củ

Mảng thâm nhiễm

U, cục

Vi trùng

Âm

Âm tính

Dương tính

Dương tính mạnh

tính

hoặc


dương tính nhẹ

Phản

ứng

Âm hoặc dương

Dương

tính

Âm

tính

hoặc

Âm tính

Mitsuda

tính

mạnh

dương tính nhẹ

Mô bệnh học


Không đặc hiệu

Nang

Xâm nhiễm lan toả

Xâm nhiễm lan toả

phongđặc

gồm bán liên, mô

gồm tổ chức bào, tế

hiệu

bào

bào bọt.

Phân nhóm theo vi trùng
Để tiện lợi cho việc áp dụng đa hoá trị liệu, chia bệnh phong ra làm 2 nhóm, nhóm ít vi khuẩn (Pauci
Bacilary - PB) và nhóm nhiều vi khuẩn (MultiBacilary-MB), mỗi nhóm có một phác đồ điều trị riêng.
Nhóm ít vi khuẩn (PB), ở nhóm này vi khuẩn âm tính, thường là những bệnh nhân thể I, T.
Nhóm nhiều vi khuẩn (MB), từ 1 - 6 (+), nhóm này thường là những bệnh nhân thuộc thể B, L.

Tiến triển và biến chứng



Bệnh kéo dài có lúc như đứng yên, thoái lui, ít gây chết người nhưng tai hại là gây tàn phế.
Đau, viêm dây thần kinh, liệt ,teo cơ, mất cảm giác dễ bị bỏng, xây xát nhiễm khuẩn, loét giác mạc
gây mù loà, cơn bốc phát phản ứng phong.

Chẩn đoán
Có đám thay đổi màu sắc da kèm theo mất cảm giác đau,không phân biệt được nóng lạnh.
Sưng một số dây thần kinh (thần kinh trụ) nhánh cổ nông, hông khoeo.
Da có dát, củ, mảng cộp tồn tại lâu mất cảm giác.
Teo cơ đầu chi.
Xét nghiệm tìm trực khuẩn Hansen ở dịch mũi, ở da.
Để chẩn đoán bệnh phong người ta làm xét nghiệm tìm trực khuẩn Hansen ở da và niêm mạc mũi
gọi là kích phết rạch da (Slit skin smear) cách làm như sau: sát khuẩn vùng da tổn thương nghi ngờ,
căng da nhẹ, dùng dao sắc rạch nhẹ 1 đường dài khoảng 0,5 - 0,7 mm sâu đến chân bì, dùng lưỡi
dao gạt nhẹ lớp mỏng tổ chức phết lên phiến kính, cố định, nhuộm ziehl đọc kính hiển vi tìm trực
khuẩn Hansen, băng vết thương lại.
Phản ứng Mitxuda giúp tiên lượng thể củ,thể u.Đánh giá tiên lượng thể bệnh thường (+) tính trong
phong củ, (-) tính trong thể phong u.
Bệnh nhân đón nhận tin bị bệnh phong như một thứ choáng, tuyệt vọng, đau khổ vì vậy phải thông
báo khéo léo, từ từ trên quan điểm y học hiện đại và nghệ thuật tạo cho bệnh nhân một hy vọng ,
quyết tâm tin tưởng là có thể chữa khỏi bệnh được.

Chẩn đoán phân biệt
Phong u tổn thương là ban đỏ mảng cộp thường ở mặt mũi, trán tai có thể nhầm với dị ứng thuốc,
chẩn đoán cần nghĩ đến bệnh phong thử cảm giác đau và làm xét nghiệm tìm trực khuẩn Hansen.
Phong củ cần chẩn đoán phân biệt với bệnh nấm hắc lào vì cùng có đám mảng đỏ, có bờ viền, giới
hạn rõ nhưng trong bệnh phong củ đám mảng đỏ ở bờ là củ sẩn nhỏ, mất cảm giác đau và xét
nghiệm tìm trực khuẩn Hansen dương tính, còn trong nấm hắc lào đám mảng đỏ hình đa cung, bờ
viền rõ, bờ có mụn nước, ngứa. xét nghiệm nấm (+) tính.

Điều trị dự phòng



Đường lối chung:
Mục đích điều trị là nhằm chữa khỏi bệnh cho bệnh nhân nhưng quan trọng là tránh tàn phế, hạn
chế lây lan.
Cắt đứt lây lan bằng rifampicine. Dùng rifampicin sau 5 - 27 ngày là bệnh nhân hết lây lan cho người
khác,tuy còn phải tiếp tục điều trị bệnh.
Xu hướng thế giới là xoá bỏ khu điều trị phong.
Điều trị như các bệnh nhân khác tại bệnh viện.
Đường lối chống phong của Việt Nam là "điều trị tại gia đình", thanh toán bệnh phong từng vùng.
Đa

hoá

trị

liệu

(Multidrug

therapy)

thay

thế

trị

liệu


đơn

hoá

trị

liệu

(DDS đơn thuần )để tránh nhờn thuốc, kháng thuốc.
Phòng chống tàn phế, phục hồi chức năng bằng chăm sóc hưỡng dẫn cách tập luyện chăm sóc da
đẻ tránh tàn phế, điều trị sớm bằng vật lý trị liệu, chương trình giày dép cho bệnh nhân phong.
Công tác tuyên truyền nâng cao hiểu biết trong nhân dân về bệnh phong, xoá bỏ thành kiến với bệnh
phong, công tác quản lý hồ sơ chữa bệnh.
Đa hoá trị liệu là chủ trương của tổ chức y tế thế giơí thay thế trị liệu độc vị DDS sinh ra
kháng thuốc, để đảm bảo chữa khỏi bệnh. Phác đồ của tổ chức y tế y thế giới 1982.
Nhiều vi khuẩn (MB):
Rifampicin 300 mg x 2 viên (600 mg/ tháng lần, có kiểm tra).
Clofazimin 100 mg x 3 viên (300 mg/ tháng 1 lần có kiểm tra).
Clofazimin 50 mg / ngày tự uống.
DDS 100 mg / ngày.
Thời gian 24 tháng hoặc đến khi xét nghiệm vi khuẩn âm tính BI = 0, sau đó ngừng thuốc theo dõi 5
năm.
Ít vi khuẩn (PB):
Rifampicin 300 mg x 2 viên = (600 mg/ tháng 1 lần, có kiểm tra).
DDS 100 mg / ngày tự uống.


Thời gian 6 tháng sau đó ngừng thuốc theo dõi 3 năm.
DDS Dapson (Diamino diphenyl sulfon) rẻ tiền, có tác dụng diệt khuẩn, dùng đường uống, dễ sử
dụng. Rifampicin ( Rimactan ,rifadin) diệt vi khuẩn nhanh, cắt đứt lây lan nhanh chóng.

Clofazimin (lamprene B663) có tác dụng diệt khuẩn,tác dụng phụ là làm sẫm màu da vùng có ánh
sáng chiếu vào.
Ethionamit và prothionamit.
Các phương pháp điều trị khác:
Phục hồi chức năng, chống tàn phế, điều trị chỉnh hình và ngoại khoa, nạo phẫu thuật ổ gà, chuyển
gân điều trị liệt dây thần kinh.
Chương trình giầy dép đóng loại giầy dép riêng thích hợp với từng bệnh nhân để tránh tàn phế.
Hướng dẫn bệnh nhân phòng chống tàn phế, tránh sây xát nhiễm khuẩn vùng mất cảm giác, dự
phòng biến chứng mắt.
Dự phòng:
Theo dõi phát hiện, điều trị sớm.
Chưa sản xuất thành công vác xin phòng bệnh phong.

Bệnh phong
Bệnh phong còn có tên gọi khác là bệnh Hansen. Đây là một bệnh nhiễn trùng, được ghi nhận từ rất lâu trong
lịch sử loài người, gây huỷ hoại bề ngoài, tổn thương các dây thần kinh ngoại biên, và làm suy kiệt cơ thể bệnh
nhân dần dần.

I. Nguyên nhân gây bệnh phong
Bệnh phong do vi trùng Mycobacterium Leprae. Đây là bệnh rất khó lây và có thời gian ủ bệnh kéo dài, nên rất
khó xác định bệnh nhân bị nhiễm bệnh ở đâu và khi nào. Trẻ em thường dễ nhiễm bệnh hơn người lớn.
Biến chứng của bệnh phong gây nên.
Bệnh phong có biểu hiện lâm sàng khá đa dạng, nhưng có hai dạng thường gặp là: dạng Tuberculoid – phong
củ và dạng Lepromatous – phong u, từ mỗi dạng này lại chia ra nhiều thể khác nhau nữa. Cả hai dạng trên đều
gây tổn thương da, nhưng thường thì dạng phong u gây những tổn thương nặng nề hơn, tạo thành những cục u
lớn ngoài da khiến bệnh nhân có bộ dạng méo mó, dị dạng.


Thực tế thì cả hai dạng bệnh đều gây tổn thương các dây thần kinh ngoại biên (nhất là các chi), làm bệnh nhân
mất cảm giác ngoài da và yếu liệt các cơ từ từ. Chính việc mất cảm giác này mà bệnh nhân phong thường

xuyên bị các chấn thương vào tay và chân, dần dần mất hẳn bàn tay hoặc bàn chân của mình.
Bệnh phong có thể gặp ở rất nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là các nước thuộc vùng ôn đới, nhiệt đới và vùng
cận nhiệt. Trung bình khoảng 100 trường hợp bệnh mới được phát hiện hằng năm tại Mỹ. Hầu hết các bệnh
nhân này ở phía Nam, ở California, Hawii, và các đảo của Mỹ.
Từ khi có các thuốc điều trị hiệu quả, thì việc cách li bệnh nhân phong không còn cần thiết. Tuy nhiên, ngày
này các thuốc này lại đang thiếu dần, làm gia tăng đáng kể số lượng bệnh nhân mắc bệnh phong, và gây được
sự quan tâm trên toàn thế giới.

II. Triệu chứng của bệnh phong
Bệnh phong lây lan qua da hoặc hô hấp khi tiếp xúc trực tiếp, lâu ngày với những chất xuất tiết (nước mũi,
nước miếng...) chứa nhiều vi khuẩn gây bệnh. Có nhiều vị nữ tu, thầy thuốc, nhân viên y tế chăm sóc người
phong suốt đời mà chẳng bao giờ lây bệnh.
Vi khuẩn phong tăng sinh rất chậm trong cơ thể. Một vài loại vi khuẩn sinh sôi trong thời gian vài phút thì vi
khuẩn Hansen chỉ sinh sản một lần trong hai tuần lễ. Do đó bệnh xuất hiện rất chậm. Thời gian ủ bệnh kéo dài
vài năm, có khi cả mươi năm. Tới lúc bệnh lộ diện thì cơ thể đã đầy rẫy những vi khuẩn.
Dấu hiệu sớm nhất của bệnh là những vết biến màu trên da, không còn cảm giác nóng, lạnh và đau. Vết trên da
có thể chỉ lốm đốm dăm ba chỗ và chứa rất ít vi khuẩn. Nhưng cũng có thể xuất hiện trên khắp cơ thể và đầy
những vi khuẩn.
- Mặt người bệnh thường sần sùi từng cục nhỏ, mũi xẹp xuống khiến bệnh nhân có gương mặt của con sư tử.
- Có nhiều u cục ở dây thần kinh ngoại vi, gần khớp xương như cổ tay, khuỷu tay, đầu gối. Các cục này có thể
sờ thấy qua da và hơi đau. Do đó khi khám bệnh, thầy thuốc thường sờ nắn ở khuỷu tay người bệnh coi có sưng
đau hay không.
Không được điều trị, bệnh dẫn tới những biến chứng như:
- Vì da không còn cảm giác nên người bệnh thường hay bị phỏng hoặc thương tích nơi đầu ngón tay ngón chân
mà họ không biết. Rồi vết thương bội nhiễm với vi khuẩn khác, tế bào tiêu hao, xương hủy hoại, ngón tay ngón
chân ngắn lại. Do đó, xưa kia, có người cho rằng bị phong thì ngón tay ngón chân rụng dần.
- Thần kinh ngoại vi tổn thương khiến bàn tay bàn chân không cử động, cứng lại, co quắp. Họ đi lại khó khăn
và không cầm đồ vật được.
- Bàn chân thủng loét và nhiễm độc.
- Giác mạc tổn thương, mờ đục, áp nhãn tăng cao, mắt khô, không chớp mắt và có thể đưa tới khiếm thị, mù

lòa.
- Ngọc hành teo, không sản xuất được tinh trùng, đưa đến vô sinh nam.
- Lông mày, lông mi rụng nhưng tóc toàn vẹn.
Chính những biến chứng này là nguyên nhân đưa tới tàn tật cho bệnh nhân.
Các xét nghiệm:
Phân tích vùng da bị tổn thương có thể giúp Bác sĩ phân biệt phong u hay phong cùi. Tuy nhiên đây không phải
là xét nghiệm để chẩn đoán.


Lấy vùng da tổn thương nhuộm kháng acid để cố định vi khuẩn, sau đó soi dưới kính hiển vi tìm vi khuẩn
phong.

III. Các biến chứng của bệnh phong
Đối với bệnh phong thì khó phân biệt các biến chứng với tiến triển tự nhiên của bệnh. Bản thân vi khuẩn phong
không gây độc cho tổ chức và cũng không tạo ra được độc tố nào, tuy nhiên trong bệnh phong thể u nặng thì có
nhiều biên chứng do sự lan toả của vi khuẩn phong trong các tổ chức. Các biến chứng này bao gồm:
1. Biến chứng do sự xâm nhập, lan toả của vi khuẩn phong vào các tổ chức
Các biến chứng này chỉ gặp ở bệnh nhân phong thể nhiều vi khuẩn bao gồm viêm mũi, viêm họng, viêm củng
mạc, viêm mống mắt, viêm tuyến lệ, viêm đốt ngón, teo tinh hoàn, sưng hạch và bệnh lý cơ. Sự hiện diện của vi
khuẩn phong trong các tổ chức bị bệnh gắn liền với tình trạng viêm cấp của các đợt phản ứng phong loại
2. Biến chứng do phản ứng phong
Phản ứng phong là sự xuất hiện các triệu chứng và dấu chứng của tình trạng viêm cấp ở các tổn thương của
bệnh nhân phong. Đối với tổn thương da là đỏ, sưng và đôi khi nhạy cảm. Đối với thần kinh là sưng, đau, nhạy
cảm, mất chức năng thường đi kèm. Thương tổn mới có thể xuất hiện. Nhiều triệu chứng xảy ra trong bệnh
phong là do phản ứng phong, bao gồm tất cả những triệu chứng cấp tính, mà triệu chứng này đã thúc ép bệnh
nhân đến khám. Mặc dù tổn thương có thể nặng và không hồi phục, nhất là tổn thương mắt và thần kinh, thì vấn
đề quan trọng là phát hiện phản ứng sớm và điều trị cẩn thận. Phản ứng biểu hiện các đợt quá mẫn cấp tính với
kháng nguyên vi khuẩn phong thông qua rối loạn cân bằng miễn dịch vốn có. Có hai loại phản ứng phong: loại
1 liên quan với quá mẫn qua trung gian tế bào, loại 2 liên quan với phức hợp miễn dịch. Ngoài ra còn có hiện
tượng Lucio mà bệnh sinh của nó ít được hiểu rõ, liên quan đến hoại tử các tiểu động mạch do vi khuẩn phong

xâm nhập vào nội mô các mạch máu này.
3. Biến chứng do suy giảm miễn dịch
Các biến chứng do sự nhân lên của vi khuẩn và do phản ứng phong là do suy giảm miễn dịch thì vẫn đang còn
tranh cãi. Tuy nhiên có hai biến chứng là nhiễm khuẩn thì phát và thoái hoá bột (amyloidosis). Viêm thận ở
bệnh nhân phong thường gặp là do lắng đọng phức hợp miễn dịch hơn là do nhiễm liên cầu hay các nhiễm
khuẩn khác. Thoái hoá bột cũng xảy ra trong phong u, đặt biệt là hậu quả của phản ứng loại 2. Thoái hoá bột
cũng là biến chứng thường gặp của viêm mô tế bào thứ phát và viêm xương tuỷ xương, mà các tình trạng viêm
này xảy ra sau loét gan chân không được dùng kháng sinh sớm.
4. Biến chứng của tổn thương thần kinh
Ba chức năng sinh lý của thần kinh là cảm giác, vận động và tự động (thực vật), mà chúng có thể bị tác động
ngang nhau sau khi bị tổn thương thần kinh. Nhưng thần kinh cảm giác thường bị tổn thương sớm nhất và nặng
nhất. Sự tổn thương thần kinh thực vật không tương quan với tổn thương thần kinh khác mặc dù mất cảm giác
nặng hầu như luôn luôn có mất tia mồ hôi và rối loạn vận mạch. Thường có mất cảm giác nặng và lan rộng
nhưng ít hoặc không có yếu vận động. Hiếm hơn là có tổn thương vận động mà không có mất cảm giác. Tuy
nhiên thường gặp nhất là tổn thương phối hợp của các loại thần kinh ở các mức độ khác nhau.
5. Biến chứng thứ phát xảy ra sau mất cảm giác, liệt và rối loạn chức năng thực vật
Các biến chứng này là quan trọng nhất trong các biến chứng muộn của bệnh phong mà các thầy thuốc rất khó
khăn để ngăn ngừa. Chúng gồm hoại tử tổ chức, loét gan chân, viêm mô tế bào thứ phát do vi khuẩn và viêm
xương tuỷ xương, mất các ngón bàn tay- bàn chân tiến triển.
6. Biến chứng do kháng thuốc
Hầu hết kháng thuốc Dapsone là thứ phát, chiếm 15% bệnh nhân nhiều vi khuẩn điều trị đơn hoá Dapsone sau
5 – 20 năm. Trên lâm sàng kháng thuốc biểu hiện theo một trong hai cách sau: Hoặc là bệnh của bệnh nhân bắt
đầu tiến triển theo kiểu phong u điển hình mặc dù đơn trị liệu được giám sát liên tục, hoặc là thường gặp hơn là


các u phong mới xuất hiện rải rác trên bối cảnh bệnh đã hồi phục. Đôi khi tổn thương tái phát ở mắt hay thần
kinh, giảm thị lực hay các triệu chứng của viêm mống mắt hoặc viêm thần kinh xuất hiện, hoặc có phản ứng
phong. Hiếm hơn tổn thương tái phát là phong thể BT.

IV. Cách điều trị bệnh phong

Dưới đây là các loại thuốc được dùng để điều trị phong


Dapsone



Rifampin



Clofazimine



Ethionamide



Aspirin, prednisone, hoặc thalidomide dùng để kiểm soát tình trạng viêm (ví dụ viêm phong hồng ban
dạng nút).

Tiên lượng:
Phát hiện sớm được bệnh rất quan trọng, bởi vì việc chữa trị sớm có thể hạn chế rất nhiều tổn thương cho cơ
thể, trả lại cho bệnh nhân một cơ thể không có nhiễm trùng và một cuộc sống bình thường.
Lời khuyên của nhân viên y tế:
Hãy tham khảo ý kiến của bác sĩ khi bạn thấy mình có những triệu chứng kể trên, nhất là sau khi bạn nghi ngờ
mình đã tiếp xúc với vi trùng gây bệnh Phong. Hiện nay mỗi quận, huyện đều có chương trình chống phong của
Quốc gia. Nếu nghi mình bị phong bạn hãy đến khám bác sĩ hay đến những trung tâm chuyên khoa như bệnh
viện da liễu.

Phòng bệnh:
Về phòng ngừa bệnh thì vaccin BCG và thuốc viên dapsone đã có một thời kỳ được dùng, nhưng công hiệu rất
giới hạn nên hiện nay ít được áp dụng.
Hiện nay, bệnh chỉ xảy ra rất ít tại một số quốc gia chứ không là dịch như cúm. Bệnh lại rất khó lây lan, cho
nên giới chức y tế khuyến cáo mọi người:
- Tránh tiếp xúc trực tiếp với dịch mũi, miệng của bệnh nhân.
- Rửa tay sạch sẽ sau khi chăm sóc, tiếp xúc với bệnh nhân.
- Hiểu biết rõ ràng về nguyên nhân, diễn tiến của bệnh.
Bệnh phong không còn nguy hiểm nữa. Bệnh phong có thể chữa khỏi nếu được phát hiện sớm và bệnh nhân
uống thuốc đúng theo hướng dẫn. Tuy nhiên sau khi điều trị, phong hết lây lan, nhưng thường để lại một vài di
chứng cả về thể chất lẫn tâm thần cho nạn nhân. Họ còn cần được sự chăm sóc, giúp đỡ của xã hội, của mọi
người trong việc phục hồi chức năng, phẫu thuật chỉnh hình, phục hồi kinh tế xã hội và thay đổi hình ảnh người
mắc bệnh phong trong cộng đồng. Họ xứng đáng được đối xử bình đẳng như những con người bình thường
khác.



×