HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
Viện Khoa học chính trị
TIỂU LUẬN
MÔN: CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
Quyền lực chính trị của nhân dân lao động
trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị
ở nước ta hiện nay
Nguyễn Thị Lan Anh
Cao học khóa VII
HÀ NỘI, THÁNG 3-2002
MỤC LỤC
1
Trang
I.
MỞ ĐẦU
1
Một số vấn đề chung về quyền lực, quyền lực chính trị, hệ
2
thống chính trị
1.1.
Quyền lực và quyền lực chính trị
2
1.2.
Hệ thống chính trị, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
4
II.
Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình
6
đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay
2.1.
Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá
6
độ lên chủ nghĩa xã hội là gì?
2.2.
Nội dung quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong
7
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
2.3.
Hệ thống chính trị với tư cách là cơ chế bảo đảm quyền lực
9
chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta
III.
Những giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm và tăng cường quyền
15
lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta hiện nay
3.1.
Tiếp tục đổi mới, tăng cường hệ thống chính trị
15
3.2.
Phát triển và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
21
3.3.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lực kinh tế với quyền
22
lực chính trị của nhân dân
3.4.
Giáo dục văn hóa pháp luật cho nhân dân
24
KẾT LUẬN
26
TÀI LIỆU THAM KHẢO
28
2
MỞ ĐẦU
Đề cập tới chức năng của hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ
lên CNXH ở nước ta, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH của Đảng ta năm 1991 đã khẳng định: Toàn bộ hệ thống chính
trị ở nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và hoàn thiện từng
bước nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Thực hiện quan điểm trong Cương lĩnh của Đảng, những năm qua
trong khi lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, chúng ta cũng đã từng bước
đổi mới hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của
Nhà nước, tính tích cực chủ động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức chính trị xã hội ngày càng được nâng cao, ý thức và quyền làm chủ
của nhân dân tham gia vào côg việc quản lý nhà nước ngày càng phát triển
và mở rộng. Nhờ vậy, nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh, chính trị ổn định,
đời sống của nhân dân được cải thiện từng bước.
Trong khi khẳng định những bước tiến đó, chúng ta cũng thấy rằng
so với yêu cầu thực tiễn, sự lãnh đạo của Đảng chưa được nâng cao đúng
mức; tổ chức và hoạt động của Nhà nước còn quan liêu, cồng kềnh, kém
hiệu quả; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội còn kém năng
động, đội ngũ cán bộ đoàn thể vẫn chưa khắc phục được tình trạng "công
chức hóa". Nghiêm trọng hơn là một bộ phận cán bộ trong hệ thống chính
trị thoái hóa về phẩm chất đạo đức cách mạng; một bộ phận đuối về năng
lực, trong khi cả thời cơ lẫn thách thức lớn đang đặt ra trước hệ thống chính
trị nước ta những vấn đề cấp bách cần giải quyết. Những yếu kém trên đây
đã dẫn tới tình trạng quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm
nghiêm trọng. Chỉ bằng cách tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị mới có thể
nâng cao quyền làm chủ của nhân dân, với tư cách vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của quá trình đổi mới theo định hướng XHCN.
Xuất phát từ lý do trên, tiểu luận đi sâu tìm hiểu vấn đề quyền lực
chính trị của nhân dân lao động trong tiến trình đổi mới hệ thống chính trị,
3
từ đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm bảo đảm quyền lực chính trị của
nhân dân lao động ở nước ta hiện nay.
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN LỰC, QUYỀN LỰC CHÍNH
TRỊ, HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
1.1. Quyền lực và quyền lực chính trị
1.1.1. Quyền lực
Quyền lực có trong nhiều quan hệ của tự nhiên và xã hội. Nhưng
nhận thức về nó như một vấn đề thực tế lại chỉ được đặt ra trong chính trị học.
Trong lịch sử tư tưởng chính trị của nhân loại, ngay từ thời cổ đại, ở
cả phương Đông và phương Tây, "quyền lực" đã được lưu ý đề cập. Trong
tác phẩm "Chính trị Aten", Aristốt đã nghiên cứu vấn đề quyền lực và xem
xét những đặc điểm của nó. Theo ông, quyền lực không chỉ là cái vốn có
của mọi sự vật biết cảm giác mà của cả tự nhiên và giới vô cơ.
Thời kỳ Trung cổ, các nhà thần học đưa "quyền lực thượng đế" lên
vị trí hàng đầu. Họ xem loài người chỉ là cái phát sinh từ quyền lực thượng
đế. Song bên trong cái vỏ thần thánh đó, Ô guýt xtanh khẳng định: Con
người chỉ cần một xã hội, mà xã hội thì cần một quyền uy.
Thời Phục hưng và khai sáng, các nhà không tưởng và các nhà
Bách khoa toàn thư chủ trương đánh đổ quyền lực phong kiến để xác lập
quyền tư sản, nhưng chỉ nhấn mạnh Nhà nước là "Vương quốc của lý trí".
Thời hiện đại, nhà chính trị học Mỹ K.Đan tra cho rằng: Quyền lực
là buộc người khác phải phục tùng.
Bertrand Russell trong tác phẩm "Quyền lực" nổi tiếng của mình rút
ra nhận xét: Lòng đam mê quyền lực và danh vọng là những ước muốn vô
hạn của chính con người.
Như vậy, ý thức về vai trò, chức năng quyết định của quyền lực là
điều đã được suy ngẫm và nêu lên trong suốt chiều dài tư tưởng chính trị
nhân loại. Nhưng để trả lời được câu hỏi quyền lực là gì lại là vấn đề không
giản đơn.
4
Ở Việt Nam gần đây, cùng với sự ra đời của môn chính trị học,
phạm trù quyền lực, quyền lực chính trị đã được đặt ra và có những lý giải
bước đầu.
Với ý nghĩa chung nhất, quyền lực là cái mà nhờ đó người khác
phải phục tùng. Trong ý nghĩa như vậy, quyền lực ra đời và tồn tại cùng với
sự ra đời và tồn tại của con người. Bởi vì, hoạt động phối hợp, hoạt động
chung mang tính cộng đồng là cái vốn có trong hoạt động của con người.
Bất kỳ hoạt động chung nào cũng cần có người tổ chức, người chỉ huy và
kẻ phục tùng - Cái vốn tạo thành nội dung sơ khai cũng như nội dung hiện
đại của phạm trù quyền lực.
1.1.2. Quyền lực chính trị
Trong xã hội, có vô vàn quyền lực khác nhau, trong đó quyền lực
chính trị chỉ ra đời khi xã hội xuất hiện giai cấp và nhà nước. Xã hội ngày
càng phát triển, quyền lực chính trị ngày càng phong phú, phức tạp và tác
động sâu sắc đến đời sống của mỗi con người và cộng đồng người.
Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hay của liên minh
giai cấp, tập đoàn xã hội (hoặc của nhân dân - trong điều kiện CNXH), nó
nói lên khả năng của một giai cấp thực hiện lợi ích của mình.
Mác - Ăngghen đã chỉ ra rằng: "Quyền lực chính trị theo nguyên
nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp giai cấp khác"(1).
Là một bộ phận quyền lực trong xã hội có giai cấp, quyền lực chính
trị bao giờ cũng mang tính giai cấp. Nó luôn mang tính thống nhất về cơ
bản trong sự biểu hiện ra bên ngoài của mình: Trong quan hệ nội bộ của
giai cấp hay liên minh giai cấp, quyền lực chính trị có thể chứa đựng những
mâu thuẫn, thậm chí cả những đối kháng. Quyền lực chính trị của giai cấp
cầm quyền được tổ chức thành nhà nước. Do vậy xét về bản chất, quyền
lực nhà nước là quyền lực của giai cấp thống trị. Nó được thực hiện bằng
(
1) Mác - Ăngghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 628.
5
cả một hệ thống chuyên chính do giai cấp đó lập ra. Cho nên quyền lực nhà
nước được thực hiện bằng nhiều công cụ khác nhau.
Là bộ phận quan trọng nhất của quyền lực chính trị, sự thay đổi căn
bản của quyền lực Nhà nước bằng việc chuyển chính quyền nhà nước từ
tay giai cấp này sang giai cấp khác sẽ trực tiếp dẫn tới thay đổi căn bản tính
chất chế độ chính trị. Bất kỳ quyền lực nhà nước nào cũng mang tính chính
trị, nhưng không phải mọi quyền lực chính trị đều mang tính nhà nước. So
với quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị rộng hơn về dung lượng, đa
dạng hơn về phương pháp và hình thức biểu hiện.
Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể ở nước ta và phù hợp với yêu
cầu cơ bản của nền dân chủ XHCN: "Mọi quyền lực thuộc về nhân dân",
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ được Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VII thông qua và Hiến pháp 1992 đã khẳng định sự thống
nhất của quyền lực nhà nước đối với sự phân công và phối hợp chặt chẽ các
cơ quan nhà nước khác nhau để thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
1.2. Hệ thống chính trị, hệ thống chính trị XHCN
Trước đây, trong các tác phẩm của mình, Mác - Ăngghen - Lênin
không dùng khái niệm hệ thống chính trị. Các ông có nhiều cách nói như:
hình thức chính trị, thiết chế chính trị, thể chế chính trị và xã hội, cơ cấu
chính trị...
Theo các tác giả đề tài KX.05-01, có thể xem khái niệm cơ cấu
chính trị mà các ông dùng tương đương với khái niệm hệ thống chính trị
mà chúng ta sử dụng ngày nay.
Ở Việt Nam, lần đầu tiên, khái niệm hệ thống chính trị được sử
dụng trong Văn kiện Hội nghị Trung ương 7, khóa VI (1990), tiếp đó là
Văn kiện Đại hội Đảng khóa VII. Đến nay khái niệm này đang được sử
6
dụng rộng rãi. Tuy nhiên hiện nay, có một số quan niệm khác nhau về "hệ
thống chính trị".
Quan niệm thứ nhất: Xem hệ thống chính trị chỉ bao gồm những tổ
chức chính trị - xã hội mang bản chất của giai cấp cầm quyền, hoặc là phục
vụ cho quyền lực chính trị của giai cấp đó. Với cách hiểu như vậy, "hệ
thống chính trị" chỉ là cách gọi khác của phạm trù "hệ thống chuyên chính
của giai cấp cầm quyền". Đó là những phạm trù đồng nhất - xét về ngoại
diên và nội hàm của chúng. Hệ thống chính trị trong CNTB chính là hệ
thống chuyên chính tư sản. Hệ thống chính trị trong CNXH là hệ thống
chuyên chính vô sản.
Quan niệm thứ hai: Xem hệ thống chính trị là một phạm trù có
ngoại diên rộng hơn so với phạm trù hệ thống chuyên chính của giai cấp
cầm quyền. Trong hệ thống chính trị, ngoài hệ thống chuyên chính của giai
cấp cầm quyền với tư cách là bộ phận cơ bản, quan trọng nhất, quy định
bản chất và chức năng cơ bản của toàn bộ hệ thống, còn có các tổ chức, các
thiết chế chính trị hợp pháp khác.
Phù hợp với quan điểm này, hệ thống chính trị được hiểu là một
phạm trù dùng để chỉ một chỉnh thể bao gồm nhà nước, các đảng phái
chính trị hợp pháp, những ưu thế cơ bản và vai trò chủ đạo thuộc về các
thiết chế của giai cấp cầm quyền để tác động vào các quá trình kinh tế - xã
hội nhằm củng cố, duy trì và phát triển chế độ xã hội đương thời. Như vậy, ta
có thể hiểu:
- Hệ thống chính trị là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã
hội, bao gồm các tổ chức, các thiết chế hợp pháp, có mục đích và chức
năng thực hiện hoặc tham gia thực hiện quyền lực chính trị.
- Hệ thống chính trị XHCN là một chỉnh thể bao gồm Nhà nước
chuyên chính vô sản, Đảng cộng sản cùng các tổ chức chính trị - xã hội hợp
7
pháp, mối quan hệ qua lại giữa các yếu tố đó nhằm bảo đảm quyền lực của
nhân dân.
- Hệ thống chính trị Việt Nam được xác định bao gồm: Nhà nước
Đảng Cộng sản Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng là
Công đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân...
Hiệu quả của việc thực hiện quyền lực của nhân dân phụ thuộc vào
sự hoàn thiện của các nhân tố nêu trên, phụ thuộc vào tính đúng đắn trong
mối quan hệ qua lai giữa các nhân tố đó. Bởi vậy, trong các Văn kiện của
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX đã khẳng định sự cần thiết
phải đổi mới hệ thống chính trị như là một trong những điều kiện cần thiết
để bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
II. QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG TRONG
TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ
quá độ lên CNXH là gì?
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhân dân là cội nguồn
của quyền lực chính trị. Tuy nhiên trên thực tế, để quyền lực ấy thuộc về
nhân dân lao động, phải trải qua một quá trình lâu dài, gian khổ.
Lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh đã có quan niệm đúng đắn về nhân dân: Quần chúng nhân dân là
số đông bị trị so với thiểu số là giai cấp thống trị. Tất cả các giai cấp thống
trị trước đây đều là những nhóm thiểu số nhỏ bé so với quần chúng nhân
dân bị thống trị.
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ ra vai trò
to lớn của quần chúng nhân dân: Họ là người sản xuất ra của cải vật chất,
sáng tạo ra những giá trị tinh thần, quần chúng nhân dân là lực lượng cơ
bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
8
Xuất phát từ lý luận trên, tổng kết kinh nghiệm cách mạng nước ta,
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI chỉ rõ: "Trong toàn bộ hoạt động của
mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc". "Mọi chủ trương,
chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích, nguyện vọng và khả năng
của nhân dân lao động, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của
quần chúng"(1).
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, quyền lực chính trị của
nhân dân lao động là khả năng nhân dân lao động nhằm thực hiện lợi ích
khách quan của mình, đồng thời đem lại lợi ích cần thiết cho các giai cấp
và tầng lớp khác. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động là một dạng
quyền lực đặc biệt chỉ được xác lập trong CNXH, khẳng định vai trò quyết
định của nhân dân lao động trong quản lý xã hội, khẳng định nhân dân là
chủ thể của quyền lực nhà nước và tất cả các quyền lực khác thuộc về nhân
dân. Nhân dân là người tổ chức và trực tiếp quản lý nhà nước. Nhân dân
lao động là chủ thể của quyền lực, cũng có nghĩa nhân dân là người thực
hiện quyền lực. Nhưng trên thực tế, quyền lực chính trị của nhân dân lao
động rất rộng, nên chính bản thân họ không thể thường xuyên và trực tiếp
thực hiện quyền lực của mình. Do vậy quyền lực chính trị của nhân dân lao
động phải có hình thức thực hiện đa dạng, thích hợp, phải có những cơ
quan nhất định hoạt động thường xuyên, đại diện để nhân dân thực hiện có
hiệu quả quyền lực của mình.
2.2. Nội dung quyền lực chính trị của nhân dân lao động trong
thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
Ở nước ta hiện nay, quyền lực chính trị của nhân dân cũng phải
từng bước được xác lập trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Quyền lực
chính trị của nhân dân trên lĩnh vực chính trị trước hết là quyền có được
một nhà nước thực sự dân chủ. Nhà nước đó do nhân dân bầu ra qua phổ
thông đầu phiếu và phiếu kín.
(
1) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr. 29.
9
Nhà nước đó phải thực sự là công cụ để thực thi những quyền lực
chính đáng của nhân dân. Nhà nước đặt dưới sự kiểm soát trực tiếp và
thông qua các tổ chức đại diện của nhân dân. Nhân dân có quyền tín nhiệm
hay không tín nhiệm với một bộ phận cơ quan nhà nước.
Quyền của nhân dân trên lĩnh vực chính trị còn là việc mở rộng
phạm vi của người dân tham gia vào công việc Nhà nước. Nhân dân có
quyền được thảo luận mọi vấn đề lớn nhỏ có liên quan trực tiếp tới lợi ích
chính đáng của mình. Với ý nghĩa đó, quyền của người dân không chỉ được
thực hiện thông qua thiết chế đại diện, nó còn được thực hiện qua thiết chế
dân chủ trực tiếp, mà xu hướng chung, dân chủ trực tiếp sẽ ngày càng tăng.
Đó là mức độ biểu hiện trình độ nâng cao trong việc nhân dân thực thi
quyền lực chính trị của mình.
Quyền lực của nhân dân trên lĩnh vực chính trị còn có nghĩa trong
giới hạn của chế độ nhất nguyên về chính trị, bảo đảm giữ vững định
hướng XHCN, trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, bảo đảm cho mọi người dân quyền tự do suy
nghĩ, tự do ngôn luận, tự do tín ngưỡng trong khuôn khổ pháp luật. Đó còn
là quyền giám sát các hoạt động của Nhà nước và hệ thống chính trị.
Quyền lực chính trị của nhân dân trên lĩnh vực kinh tế đòi hỏi:
Một là, phải hoàn thiện thể chế kinh tế, đặt nền kinh tế dưới sự
kiểm soát của nhân dân, phục vụ cho nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân
dân.
Hai là, hình thành cơ chế kinh tế sao cho mọi người lao động đều
được tham gia vào sở hữu, quản lý dưới nhiều hình thức khác nhau.
Ba là, kết hợp kế hoạch nghiêm ngặt của Nhà nước với việc phát
huy sáng kiến của doanh nghiệp, của người lao động.
Bốn là, thị trường phải là nơi cạnh tranh trên nguyên tắc giá trị, trên
cơ sở chất lượng để đảm bảo lợi ích người tiêu dùng.
10
Quyền lực chính trị trên lĩnh vực xã hội: Thể hiện ở việc bảo đảm
quyền công dân, quyền con người, quyền được bảo vệ về mặt xã hội của
công dân, khắc phục dần sự khác biệt giữa các tầng lớp xã hội, giữa các
vùng đất nước; từng bước giải phóng con người khỏi những quan hệ phi
nhân tính.
Quyền lực chính trị của nhân dân trên lĩnh vực tinh thần: Đòi hỏi sự
đa dạng hóa về ý kiến, về thế giới quan trong xã hội - Trên cơ sở giữ vững
định hướng XHCN, bảo đảm thế giới quan Mác - Lênin giữ vai trò chủ đạo.
Tùy theo những bước tiến đạt được trong quá trình đổi mới, nội
dung và mức độ quyền lực chính trị của nhân dân không ngừng được mở
rộng và ngày càng sâu sắc.
Quyền lực chính trị tự nó chỉ là một khả năng. Muốn có hiệu lực
trên thực tế phải qua bộ máy vận hành, hệ thống thiết chế, các mối quan hệ,
các nguyên tắc thể chế, các điều kiện... Gọi chung là cơ chế thực thi.
2.3. Hệ thống chính trị với tư cách là cơ chế bảo đảm quyền lực
chính trị của nhân dân lao động trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta
Do điều kiện lịch sử ra đời và tồn tại phát triển của mình, hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay có một số đặc điểm chi phối vai trò của hệ
thống đó. Cụ thể là:
- Hệ thống chính trị ấy lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng.
- Nhất nguyên về chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
- Được tổ chức vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính
dân tộc, tính nhân dân rộng rãi.
Với tư cách là cơ chế bảo đảm quyền lực của nhân dân nói chung,
là cơ chế thực thi quyền lực chính trị của nhân dân nói riêng, hệ thống
11
chính trị nước ta hiện nay vận hành theo nguyên tắc: "Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, Nhân dân làm chủ".
2.3.1. Đảng lãnh đạo
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo cách mạng nước ta.
Từ ngày có chính quyền, Đảng mặc nhiên là lực lượng lãnh đạo nhà nước,
lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội. Là lực lượng lãnh đạo toàn xã
hội, Đảng phải chịu trách nhiệm toàn diện và cao nhất trước nhân dân về cả
sự phát triển xã hội, quyền và đời sống của nhân dân, năng lực phẩm chất
của bộ máy nhà nước.
Như vậy, một mặt Đảng phải lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối và trực
tiếp đối với nhà nước và cả hệ thống chính trị; mặt khác Đảng bằng mọi
cách phát huy cao nhất vai trò của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Hai
mặt đó thống nhất, ràng buộc và không mâu thuẫn nhau.
Để nâng cao hiệu quả lãnh đạo của mình nhằm phát huy mạnh mẽ
quyền lực chính trị của nhân dân, Đảng ta ý thức rõ rằng trước hết phải tự
đổi mới về cả nội dung lãnh đạo, cả về công tác cán bộ, cả về tổ chức,
phương thức hoạt động, phong cách lãnh đạo.
Để giữ vững nguyên tắc: toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân,
Đảng ta ý thức rõ rằng phải giữ vững định hướng XHCN, xem đó là trọng
tâm trong công tác lãnh đạo của Đảng.
Muốn giữ định hướng XHCN, trước hết cần có đường lối đúng. Sau
khi đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước tại Đại hội VI của mình,
Đảng ta đã kịp thời sửa soạn và thông qua "Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên CNXH" và "Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội
đến năm 2000". Tiếp đó, các đại hội VII, VIII, IX đã xác định mục tiêu,
nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...
Đó là những định hướng lớn về chính trị cho việc xây dựng, hoạch định
chủ trương chính sách xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
12
Trên cơ sở những định hướng lớn Đảng đã đề ra những chủ trương
cụ thể, chỉ rõ hướng đổi mới trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội. Đảng
còn kịp thời để ra những nghị quyết, những chính sách... để giải quyết những
khâu quan trọng của từng lĩnh vực như: Các nghị quyết về phát triển nông
nghiệp, công nghiệp, đổi mới cơ chế quản lý kinh tế; các nghị quyết về văn
hóa - giáo dục, về an ninh - quốc phòng, về "chống diễn biến hòa bình".
Đặc biệt, Đảng đã ra những nghị quyết, chủ trương tăng cường đổi mới
sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị; định hướng việc xây dựng
và hoạt động của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân như: Nghị quyết 8B
(khóa VI) về đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan
hệ giữa Đảng với nhân dân; Nghị quyết Trung ương ba khóa VII về đổi
mới chỉnh đốn Đảng; Nghị quyết Trung ương tám khóa VII về tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện nhà nước; Nghị quyết Trung ương ba khóa VIII về xây
dựng bộ máy nhà nước và công tác cán bộ...
Trên cơ sở những định hướng chính trị đúng đắn, Đảng ta đã có
những chủ trương, biện pháp giải quyết khéo léo các vụ tranh chấp lãnh
thổ, lãnh hải với Trung Quốc; từng bước bình thường hóa quan hệ với Mỹ,
mở rộng quan hệ đối ngoại, giải quyết êm thấm những vụ việc phức tạp về
chính trị... tạo điều kiện thuận lợi đưa công cuộc đổi mới tiến lên vững
chắc.
Qua đó cho thấy mặc dù những năm gần đây, trong hoàn cảnh quốc
tế và trong nước rất phức tạp, Đảng ta vẫn tỏ rõ bản lĩnh chính trị vững
vàng; giữ vững bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo; kiên định mục tiêu, con
đường XHCN đã lựa chọn. Đảng đã phê phán kịp thời những luận điệu
gieo rắc hoài nghi về con đường đi lên CNXH, ngăn chặn những luận điệu
đòi đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng.
Để việc lãnh đạo của Đảng có tác động tích cực tới việc phát huy
quyền lực chính trị của nhân dân, trong những năm đổi mới vừa qua, Đảng
ta đã coi trọng việc kiện toàn đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Đảng
13
cũng đã đề ra các biện pháp để cán bộ của hệ thống chính trị thực sự là chỗ
dựa tin cậy của Đảng; là người đưa đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng vào quần chúng; là người trực tiếp uốn nắn những lệch lạc của quần
chúng, của các cơ quan nhà nước, đoàn thể; định hướng mọi hoạt động của
quần chúng theo đường lối, quan điểm của Đảng. Qua thực tiễn, Đảng đã
có biện pháp khắc phục từng bước sự lẫn lộn chức năng nhiệm vụ giữa
người đứng đầu tổ chức Đảng và người đứng đầu cơ quan nhà nước, đoàn
thể chính trị - xã hội của nhân dân.
Những nỗ lực toàn diện đó đã góp phần hình thành đội ngũ cán bộ
của hệ thống chính trị có:
"- Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, con đường mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân lựa chọn; năng động sáng tạo, hăng hái thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước.
- Trình độ kiến thức và năng lực quản lý kinh tế, quản lý xã hội
ngày càng được nâng cao.
- Số đông cán bộ giữ được đạo đức, phẩm chất cách mạng, lối sống
lành mạnh, giản dị, gắn bó với nhân dân"(1).
Để nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của nhân dân,
Đảng tăng cường công tác giáo dục, thuyết phục và chú ý phát huy vai trò
gương mẫu của Đảng viên trong việc thực hiện quyền lực đó của nhân dân.
Trên cơ sở nhận thức rằng năng lực thực hiện quyền lực chính trị của nhân
dân ngay trong chủ thể của quyền lực đó không tự nhiên mà có (về cơ bản,
nó được hình thành qua công tác giáo dục chính trị tư tưởng dưới sự lãnh
đạo của Đảng), thời gian qua, thông qua các đợt sinh hoạt chính trị, những
cuộc trao đổi thảo luận tập thể, dân chủ, thẳng thắn, những cuộc tiếp xúc
giữa đảng viên với quần chúng... mà nhận thức của quần chúng về vấn đề
này ngày càng được sáng tỏ. Nhờ vậy, quần chúng đã đóng góp cho Đảng
(
1) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1996, tr. 67.
14
và Nhà nước nhiều ý kiến quý báu góp phần làm cho chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ngày càng hoàn thiện.
Đối với một số người có ý kiến trái với quan điểm của Đảng, có xu
hướng đi ngược lại quyền lực chính trị của nhân dân, các tổ chức Đảng đã
phát hiện kịp thời, bình tĩnh, kiên trì thuyết phục và cảm hóa họ. Đối với
những người có luận điệu xuyên tạc, bôi đen chế độ, truyền bá quan điểm
sai trái, các tổ chức Đảng đấu tranh kiên quyết và khi cần, xử lý kỷ luật
thích đáng. Chính bằng cách đó, quyền lực chính trị của nhân dân mới được
giữ vững và củng cố.
Để phát huy quyền lực chính trị của nhân dân trong việc tham gia
xây dựng nhà nước, Đảng còn có chủ trương thu hút nhân dân tham gia vào
công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động của các cơ quan nhà nước. Hội nghị
Trung ương ba khóa VIII đã chỉ ra: phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền
làm chủ của nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực
tiếp để nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ nhà nước, nhất là việc giám
sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt động của cơ quan và các bộ công
chức nhà nước.
2.3.2. Nhà nước quản lý
Trong điều kiện đổi mới toàn diện hiện nay, chức năng quản lý của
nhà nước có thể khái quát như sau:
- Thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành pháp luật,
chính sách cụ thể.
- Xây dựng chiến lược kinh tế - xã hội và cụ thể hóa chiến lược đó
thành những kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực quản
lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội, xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất
lượng.
15
- Xây dựng và phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm và tạo điều kiện
thuận lợi cho công dân tham gia quản lý công việc của Nhà nước và xã hội,
bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân theo luật định; nghiêm trị
những hành vi tham nhũng, vi phạm quyền làm chủ của công dân.
Như vậy thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động thông
qua nhà nước là khâu hết sức quan trọng. Xét đến cùng, quyền lực chính trị
của nhân dân lao động nước ta được hợp pháp hóa bằng nhà nước, và nhà
nước là công cụ hữu hiệu để thực hiện quyền lực của nhân dân. Với đặc
điểm về cơ cấu tổ chức, nhà nước có tác động rất lớn trên mọi phạm vi của
đời sống xã hội và các chủ thể quản lý. Nhà nước có sức mạnh tổ chức vật
chất, sức mạnh cưỡng chế, có đầy đủ phương tiện vật chất cần thiết để bảo
đảm thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân. Do đó, phát huy đến mức
cao nhất tác dụng của cơ chế tổ chức và phương pháp, biện pháp tác động
riêng của Nhà nước, chủ yếu thông qua cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội
đồng nhân dân) do dân bầu ra là vấn đề cơ bản bảo đảm thực hiện quyền
lực chính trị của nhân dân.
Nhà nước ta là trụ cột của hệ thống chính trị, là công cụ thực hiện
quyền lực của nhân dân. Trong nhà nước đó, nhân dân là chủ thể của mọi
quyền lực. Các quyền mà nhà nước có được đều do dân ủy quyền.
Song do "bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh, tình
trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng" (1), nên trong một
số trường hợp đã diễn ra tình trạng dân ủy quyền rồi mất quyền. Từ chỗ bộ
máy nhà nước là công cụ của dân, viên chức là "công bộc", là "đầy tớ" của
dân, thì ở nơi này hay nơi khác đã biến thành gánh nặng của dân, cán bộ
nhà nước trở thành "ông quan" cách mạng nhũng nhiễu quần chúng.
Quyền lực chính trị của nhân dân lao động được thực hiện thông
qua nhà nước, bằng nhà nước. Nhưng cũng chính nhà nước lại có những
yếu tố có thể hạn chế quyền lực của nhân dân. Vì vậy, để quản lý nhà nước
(
1) Văn kiện Hội nghị TW - khoá VIII. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1997 tr 38.
16
một cách có hiệu quả, trước hết phải có hình thức tô chức thích hợp với bản
chất nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
2.3.3. Nhân dân làm chủ
Nhân dân làm chủ có nghĩa là nhân dân có điều kiện đảm bảo được
tham gia vào các công việc quản lý nhà nước. Cụ thể là nhân dân làm chủ
trên hai phương diện:
Thứ nhất: Nhân dân có điều kiện tham gia vào lĩnh vực chính trị mà
chủ yếu là tham gia vào các hoạt động của hệ thống chính trị.
Thứ hai: Hệ thống chính trị phải thể hiện là tổ chức của dân do dân,
vì dân. Bên cạnh đó, nhân dân còn làm chủ thông qua các tổ chức xã hội do
mình lập ra. Thông qua các tổ chức chính trị xã hội, lợi ích chung của toàn
xã hội, công đồng, cá nhân và tập thể được kết hợp hài hòa, làm tiền đề cho
việc mở rộng khối đoàn kết dân tộc, củng cố mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng với quần chúng thu hút ngày càng đông đảo nhân dân tham gia vào
việc quản lý xã hội, quản lý nhà nước.
Có thể coi việc các tổ chức chính trị - xã hội tham gia quản lý nhà
nước và xã hội đã làm đa dạng thêm các biện pháp thực hiện quyền lực của
nhân dân, tạo điều kiện cho họ làm quen với những sinh hoạt dân chủ nhằm
phát huy cao độ sức sáng tạo, sức đoàn kết của cộng đồng.
Nhìn chung, qua 15 năm đổi mới, bộ máy tổ chức và cán bộ của Mặt
trận tổ quốc và các đoàn thể đã có nhiều đổi mới theo hướng gọn nhẹ, giảm
bớt tầng nấc trung gian, giảm nhẹ biên chế, mở rộng đội ngũ kiêm chức và
cộng tác viên, gắn với đoàn viên, hội viên, hướng về cơ sở. Do vậy, các tổ
chức đó đã ngày càng có nhiều đóng góp quý giá vào việc phát huy quyền
lực chính trị của nhân dân ở mọi ngành, mọi cấp. Tuy nhiên cũng cần thấy
rằng Mặt rận, các đoàn thể chính trị - xã hội của nhân dân còn không ít
khuyết điểm. Tổ chức bộ máy của Mặt trận, của các đoàn thể vẫn còn cồng
kềnh, một bộ phận vẫn nằm trong tình trạng "nhà nước hóa", "hành chính
17
hóa" nên hiệu quả hoạt động chưa thật cao. Chính vì vậy, để đảm bảo cho
"nhân dân làm chủ" nhất thiết phải tăng cường và đổi mới hệ thống chính trị.
III. NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM BẢO ĐẢM VÀ TĂNG CƯỜNG
QUYỀN LỰC CHÍNH TRỊ CỦA NHÂN DÂN LAO ĐỘNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. Tiếp tục đổi mới, tăng cường hệ thống chính trị
3.1.1. Một số nguyên tắc cơ bản trong đổi mới hệ thống chính trị
Đổi mới hệ thống chính trị là giải pháp có tác động trực tiếp tới việc
nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở
nước ta hiện nay. Đó là quá trình phát huy kết quả, khắc phục nhược điểm,
từng bước xác lập một tổng thể các quan hệ hợp lý giữa các yếu tố cấu
thành hệ thóng chính trị nhằm thực hiện tốt hơn chức năng là cơ chế thực
thi quyền làm chủ của nhân dân (trong đó có làm chủ về chính trị)
Khi đổi mới hệ thống chính trị, cần quán triệt những nguyên tắc sau:
- Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị - nguyên
tắc quan trọng hàng đầu:
Là kết quả hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh
đạo của giai cấp công nhân, quyền lực chính trị của nhân dân chỉ có được
với điều kiện tiên quyết là bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng Mác
xít Lê nin nít. Bởi vì, nhờ nắm vững hệ tư tưởng cách mạng và khoa học
của Chủ nghĩa Mác Lênin và đưa nó vào quần chúng, đảng đó mang lại cho
phong trào quần chúng tính tự giác cao trong quá trình xây dựng nền dân
chủ XHCN; thông qua công tác tuyên truyền, giáo dục của mình mà đảng
góp phần quyết định nhất trong việc nâng cao trình độ giác ngộ chính trị,
trình độ văn hóa dân chủ, văn hóa pháp luật của nhân dân để họ có khả
năng thực thi hữu hiệu những yêu cầu dân chủ, phản ánh đúng quy luật
phát triển của xã hội. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân mới đấu
tranh có hiệu quả chống lại mọi mưu đồ lợi dụng dân chủ để đi ngược lại
lợi ích của nhân dân.
18
Với ý nghĩa như vậy, dân chủ XHCN và nhất nguyên về chính trị,
bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng không bài trừ nhau. Trái lại,
chính trị sẽ tạo điều kiện cho dân chủ XHCN ra đời, quyền lực chính trị của
nhân dân được củng cố và phát triển.
- Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, cần giữ vững ổn định
chính trị để tăng trưởng kinh tế và bảo đảm định hướng XHCN của sự phát
triển xã hội nói chung.
Nghĩa là:
+ Không diễn ra những xáo trộn lớn trong đời sống chính trị
+ Hệ tư tưởng chính trị, định hướng chính trị trong sự phát triển của
đất nước được đại đa số công nhân chấp nhận một cách tự nguyện và biến
thành định hướng cơ bản trong việc thực hiện quyền lực chính trị của mọi
cá nhân, tổ chức mà họ là thành viên.
+ Mọi cá nhân công dân và các tổ chức mà họ là thành viên có tính
tích cực, chủ động trong việc thực hiện những định hướng chính trị chung
của đất nước; sẵn sàng bảo vệ những định hướng đó trước sự vi phạm từ
phía những thế lực khác.
+ Quan hệ qua lại giữa quyền lực chính trị của các gia cấp, các tầng
lớp dân cư, giữa các vùng khác nhau của đất nước, giữa các dân tộc, tôn
giáo có sự hài hòa trong tính đa dạng của nhu cầu và lợi ích theo một quan
niệm nhất định được xã hội thừa nhận.
Tổng hợp các yếu tố vừa nêu đó là một xã hội ổn định và trật tự. Bảo
đảm ổn định về chính trị là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội.
- Đảm bảo nguyên tắc nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua
dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp.
Chế độ XHCN là chế độ nhân dân lao động làm chủ nhà nước và xã
hội, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Bảo đảm thực hiện
quyền làm chủ của nhân dân đã trở thành nguyên tắc tổ chức, hoạt động
19
của hệ thống chính trị. Trong điều kiện đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta
hiện nay, nhân dân có quyền làm chủ nhà nước và xã hội thông qua dân chủ
đại diện và dân chủ trực tiếp. Những hình thức dân chủ ấy được thể chế
bằng luật pháp nhà nước và được thực thi bằng hệ thống chính trị, gọi là
chế độ dân chủ.
3.1.2. Nội dung phương hướng đổi mới hệ thống chính trị nhằm
mở rộng và phát huy quyền lực chính trị của nhân dân
Để mở rộng và tăng cường khả năng thực thi quyền lực chính trị của
nhân dân, việc đổi mới hệ thống chính trị được thực hiện đồng thời trên cả
hai phương diện: đổi mới các yếu tố cấu thành; đổi mới các mối quan hệ
qua lại giữa các yếu tố đo.
* Trước hết là đổi mới các yếu tố cấu thành hệ thống chính trị
- Việc giữ vững và tăng cường quyền lực chính trị đòi hỏi phải giữ
vững sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị nói riêng, đối với
toàn xã hội nói chung.
Trong điều kiện nước ta hiện nay, cần "tăng cường vai trò lãnh đạo
và tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng"(1).
Từ kinh nghiệm lịch sử cho thấy quyền lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị và đối với toàn xã hội không tự nhiên mà có. Phải bằng sự
tiên phong gương mẫu của Đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng trong sự
nghiệp phấn đấu vì lợi ích của nhân dân mà Đảng được nhân dân tín nhiệm,
giao phó quyền lãnh đạo.
Muốn giữ vững được vai trò lãnh đạo chính trị, khâu then chốt là
tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, củng cố mối liên hệ mật
thiết giữa Đảng với nhân dân, chăm lo đời sống của người dân, thực sự
phát huy quyền làm chủ của họ.
Bên cạnh đó cần phải tiếp tục xây dựng chỉnh đốn Đảng theo tinh
thần Nghị quyết trung ương VI (lần II) khóa VII về việc xây dựng chỉnh
(
1) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần IX. Nxb Chính trị quốc gia - Hà Nội 2001, Tr. 44.
20
đốn Đảng, nâng cao phẩm chất năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong các cơ quan, tổ chức Đảng.
Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân; tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây
dựng củng cố các tổ chức cơ sở Đảng.
- Việc tăng cường quyền lực chính trị của nhân dân cũng đòi hỏi nhà
nước của chúng ta phải được xây dựng theo nguyên tắc nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Muốn hoàn thành nhiệm vụ là công cụ chủ yếu để nhân dân thực
hiện quyền lực (trong đó có quyền lực chính trị) của mình, Đảng ta cho
rằng: nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam phải được xây dựng theo
nguyên tắc của nhà nước pháp quyền theo quan điểm chỉ đạo là:
+ Nhà nước pháp quyền XHCN là nhà nước của dân, do dân, vì dân;
lấy liên minh công nông trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội,
chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích Tổ quốc và nhân dân.
+ Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phối hợp và phân công
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp.
+ Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật; coi trọng tính tối cao của
pháp luật, đồng thời coi trọng việc giáo dục đạo đức trong quản lý xã hội.
Thể hiện và thực hiện đầy đủ những nội dung trên đây, nhà nước
XHCN của dân, do dân, vì dân sẽ thực sự là thiết chế chính trị có vai trò
tích cực trong quá trình thực thi quyền lực chính trị của nhân dân.
Yêu cầu nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước và mở rộng quyền
lực chính trị của nhân dân trong giai đoạn hiện nay đòi hỏi phải xem cải
cách một bước nền hành chính quốc gia là một nhiệm vụ trọng điểm.
21
Trong cải cách nền hành chính nhà nước, phải tiến hành đồng bộ - từ
cải cách thể chế hành chính đến cải cách tổ chức bộ máy và công tác cán
bộ, công chức hành chính.
Đề cập tới vấn đề này, Hội nghị lần thứ 3 BCH TW khóa VIII đã chỉ
rõ: Một là, Chính phủ và bộ máy hành chính nhà nước thống nhất quản lý
việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, an ninh quốc
phòng; hai là, phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính
quyền; ba là, Tăng cường tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra; bốn là,
Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất và năng lực.
- Để phát huy vai trò của hệ thống chính trị trong việc bảo đảm
quyền lực chính trị của nhân dân ở giai đoạn hiện nay, cùng với việc đổi
mới Đảng và nhà nước như đã nêu trên, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội khác của nhân dân cũng được đổi mới theo phương
hướng.
+ Đoàn kết tất cả mọi người thuộc các giai cấp các tầng lớp, các dân
tộc, tôn giáo, người Việt ở trong nước và nước ngoài tán thành mục tiêu
"Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
+ Có chủ trương chính sách pháp luật đúng đắn trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội nhằm đáp ứng nguyện vọng và lợi ích chính đáng
của các giai tầng xã hội.
+ Mặt trận vận động, tổ chức nhân dân xây dựng, củng cố, bảo vệ
chính quyền, thực hiện tốt chính sách đại đoàn kết dân tộc ngay trong tổ
chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Để Mặt trận có tác dụng tích cực nhằm thực hiện tốt việc bảo đảm
quyền lực chính trị của nhân dân, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
củng cố khối liên minh công - nông, trí thức, làm cho nó thực sự là nền
tảng của Mặt trận.
* Đổi mới quan hệ qua lại giữa các yếu tố cấu thành hệ thống
chính trị
22
Bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước nói riêng và
toàn bộ hệ thống chính trị nói chung là vấn đề có tính nguyên tắc để giữ
vững bản chất XHCN của hệ thống đó. Song lãnh đạo không có nghĩa là
làm thay. Cho nên trong khi giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của
mình, tổ chức đảng các cấp đồng thời phát huy vai trò của nhà nước và các
tổ chức chính trị xã hội theo chức năng của từng tổ chức đó.
Để phát huy quyền lực chính trị của nhân dân, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Song bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng không có nghĩa là đẩy các
tổ chức này vào thế bị động. Trái lại, việc phát huy quyền lực chính trị của
nhân dân thông qua tổ chức đại diện này cũng đòi hỏi thấy rõ tác động tích
cực trở lại của tổ chức đó đối với việc củng cố tăng cường vai trò lãnh đạo
của Đảng.
Trong việc đổi mới mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và Mặt trận,
các tổ chức chính trị - xã hội, điều quan trọng hiện nay là thể chế hóa đầy
đủ hơn nữa chức năng của các tổ chức đó và các cơ quan nhà nước có trách
nhiệm để những điều đã thể chế hóa được thực thi có hiệu quả. Mặt khác,
nhanh chóng khắc phục tình trạng hành chính hóa, nhà nước hóa tổ chức và
phương thức hoạt động của Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội.
Về lâu dài, cần ban hành luật về tổ chức và hoạt động của các tổ
chức chính trị - xã hội cũng như mối quan hệ giữa các tổ chức đối với Đảng
và quần chúng ở các cấp. Đó là cơ sở pháp lý về quyền và nhiệm vụ của
các tổ chức chính trị xã hội trong việc sử dụng sức mạnh của nhà nước
nhằm bảo vệ lợi ích khách quan của mình và của hội viên. Từ đó, các tổ
chức này trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị
của nhân dân, phát triển nền dân chủ XHCN.
Tóm lại: Để phát triển, hoàn thiện nền dân chủ XHCN, các bộ phận
hợp thành hệ thống chính trị phải vừa xác định đúng vị trí, chức năng
nhiệm vụ của mình, vừa thường xuyên đổi mới mối quan hệ qua lại giữa
23
các tổ chức cấu thành hệ thống chính trị, gắn liền với đổi mới kinh tế, xã
hội. Chỉ trên cơ sở đó, hệ thống chính trị mới vận hành thông suốt, có hiệu
lực, nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực chính trị của nhân dân.
3.2. Hoàn thiện và phát huy dân chủ XHCN
Dân chủ có nghĩa là: Dân là chủ, dân làm chủ mọi quyền lực xã hội
Dân chủ được thực hiện dưới hai hình thức cơ bản là: dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện.
Dân chủ trực tiếp là hình thức dân mà nhân dân trực tiếp bày tỏ
chính kiến của mình, trực tiếp tham gia quyết định những vấn đề chung của
cộng đồng xã hội.
Dân chủ đại diện là nhân dân thông qua các đại biểu của mình để bày
tỏ chính kiến, để tham gia quyết định những vấn đề chung của cộng đồng
xã hội.
Ở nước ta, trong 15 năm đổi mới, quá trình dân chủ hóa mọi mặt đời
sống xã hội đã đạt nhiều kết quả quan trọng. Bầu không khí dân chủ đã
bước đầu được khởi sắc. Tuy nhiên xét về nhiều mặt, nền dân chủ XHCN ở
nước ta vẫn còn trong quá trình tìm tòi, thử nghiệm. Trong thực tế quyền làm
chủ của nhân dân vẫn bị vi phạm, thậm chí bị vi phạm nghiêm trọng, kéo dài
và chậm được khắc phục; các hiện tượng mất dân chủ, vi phạm pháp luật
diễn ra trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Vì vậy, xây dựng và hoàn
thiện nền dân chủ XHCN là một trong những giải pháp thiết thực nhằm
đảm bảo và tăng cường quyền lực của nhân dân lao động ở nước ta hiện
nay.
Phương hướng để hoàn thiện dân chủ đại diện, mở rộng dân chủ trực
tiếp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quyền lực của nhân dân là: Đổi mới
tổ chức và hoạt động của cơ quan đại diện trên các mặt chủ yếu.
- Xây dựng cơ chế tuyển chọn và bãi miễn đại biểu.
24
- Đổi mới phương pháp hoạt động của cơ quan đại diện qua các
phương pháp: Công khai chất vấn; đối thoại; kịp thời giải quyết đơn thư
khiếu nại của công dân.
Như vậy: trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, để phát triển và
hoàn thiện dân chủ XHCN không thể không gắn với việc đổi mới tổ chức
và hoạt động của hệ thống chính trị.
3.3. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền lực kinh tế với quyền
lực chính trị của nhân dân
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, chính trị là biểu hiện
tập trung của kinh tế, do kinh tế quy định. Điều này có nghĩa xác lập quyền
lực của nhân dân trên lĩnh vực kinh tế (quyền lực kinh tế) là cốt vật chất để
phát huy quyền lực của nhân dân trên lĩnh vực chính trị (quyền lực chính
trị). Trong điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay, vấn đề này được thực hiện
thông qua việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi
mới chính trị.
Trong thời gian trước mắt, để giải quyết mối quan hệ này, cần phải
sửa đổi và bổ sung các văn bản pháp luật điều chỉnh các mảng quan hệ xã
hội sau:
- Về quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất.
Sở hữu đố với tư liệu sản xuất là tiền đề của quyền lực kinh tế, làm
cho quyền lực kinh tế đóng vai trò là cơ sở vật chất của quyền lực chính trị
của nhân dân.
Từ cách hiểu như vậy, trong hệ thống các văn bản pháp luật về sở
hữu cần quán triệt nguyên tắc: mọi hình thức sở hữu cần được bảo vệ,
không cho phép các cơ quan quản lý nhà nước dùng biện pháp hành chính
làm cản trở quyền sở hữu. Trong trường hợp đặc biệt cần sự can thiệp của
nhà nước thì điều đó phải được quy định rõ trong luật; quy định rõ hệ thống
chế tài bảo vệ quyền sở hữu; đối xử bình đẳng với các hình thức sở hữu...
25