Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở trường THCS sốp cộp huyện sốp cộp tỉnh sơn la

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.19 KB, 21 trang )

ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

ĐÁNH GIÁ TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP
Họ và tên học viên: Thiều Quang Hùng
Lớp: Trung cấp Lý luận – Hành chính khóa I huyện Sốp Cộp
Đơn vị công tác: Trường THCS Sốp Cộp
Tên tiểu luận: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quy chế
dân chủ ở trường THCS Sốp Cộp huyện Sốp Cộp tỉnh Sơn La.
1. Ưu điểm:
…………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
ơ

……………………………………………………………………………………………………………………
ơ

……………………………………………………………………………………………………………………
ơ
ơ

2. Hạn chế:
…………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
ơ

……………………………………………………………………………………………………………………
ơ

……………………………………………………………………………………………………………………


ơ

3. Kết luận:
…………………………………………………………………………………………………………….
……………………………………………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………………………………………
ơ

……………………………………………………………………………………………………………………
ơ

……………………………………………………………………………………………………………………
ơ

Giám khảo số 1

Giám khảo số 2

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

3


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

LỜI CẢM ƠN
Trong 2 năm được học tập và rèn luyện tại lớp Trung cấp lý luận – Hành
chính khóa I của Trường Chính trị tỉnh Sơn La mở tại huyện Sốp Cộp. Được sự
dạy dỗ của các thầy cô giáo bản thân tôi đã tiếp thu được những kiến thức và kinh
nghiệm quý báu phục vụ quá trình công tác.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo trong Ban giám
hiệu, các khoa, phòng, các thầy cô giáo Trường chính trị tỉnh Sơn La. Xin cảm
ơn Ban chỉ đạo lớp học, Trung tâm bồi dưỡng chính trị Huyện Sốp Cộp đã tận
tình giảng dạy, giúp đỡ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học
tập, nghiên cứu và hoàn thành tiểu luận này.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Thầy giáo Th.S – GVC
Nguyễn Khánh Toàn – Phó trưởng khoa Nhà nước – Pháp luật trường Chính trị
tỉnh Sơn La đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự cộng tác, giúp đỡ của tập thể Ban giám hiệu,
các thầy giáo, cô giáo, các em học sinh Trường THCS Sốp Cộp huyện Sốp Cộp
tỉnh Sơn La đã giúp đỡ và có những ý kiến góp ý chân thành, hữu ích.
Dù đã cố gắng rất nhiều, song do năng lực nghiên cứu khoa học còn hạn
chế nên tiểu luận sẽ không trách khỏi còn một số thiếu sót. Kính mong nhận
được sự chỉ bảo ân cần, những ý kiến đóng góp quý báu của các thầy cô giáo
để tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Trân trọng!
Tác giả

Thiều Quang Hùng

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

4


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

MỤC LỤC
STT
1

2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18

Nội dung
Nhận xét, đánh giá
Lời cảm ơn
Mục lục
Phần I: Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứ
3. Phạm vi nghiên cứu
4. Phương pháp nghiên cứu
Phần II: Nội dung
I. Cơ sở lý luận
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh về dân chủ
1.2. Quan điểm của Đảng về dân chủ.
2. Cơ sở thực tiễn
II. Đánh giá thực trạng của việc thực hiện quy chế dân chủ ở
trường THCS Sốp Cộp.
III. Phương hướng và giải pháp
1. Phương hướng
2. Giải pháp
PHẦN III: KẾT LUẬN

Trang
3
4
5
6
6
7
7
7
8
8

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

7
11
13
15
17
17

20
23

5


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

PHẦN I . MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Con người có đời sống vật chất, tinh thần và tự do ước mơ về một xã hội công
bằng, nhân đạo có kỷ cương là lẽ đương nhiên hợp quy luật của sự phát triển. Nhân
dân chính là chủ thể sử dụng quyền lực mà quyền lực chính trị là quan trọng nhất để
tổ chức và quản lý xã hội, thực hiện sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con
người. Đảng và Nhà nước luôn coi dân chủ là một nội dung quan trọng trong đường
lối cách mạng. Dân chủ gắn với kỉ cương, với pháp luật. Dân chủ trong khuôn khổ
pháp luật được thể chế bằng luật pháp nhà nước và được thực thi bằng hệ thống chính
trị gọi là chế độ dân chủ. Hiệu quả dân chủ thể hiện trực tiếp đến nhân dân là ở cấp cơ
sở. Đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước có đi vào cuộc sống hay
không được thể hiện trực tiếp ở cấp cơ sở.
Quy chế dân chủ ở cơ sở là sự pháp luật hoá phương châm "dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra". Việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở theo chỉ thị
30-CT/TW ngày 18/2/1998 của Bộ Chính trị và nghị định số 71/1998/NĐ-CP tháng
9/1998 của chính phủ. Ngày 01/3/2000, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban
hành QĐ số” 04/2000/QĐ-BGDĐT quy chế thực hiện dân chủ trong các hoạt động
của nhà trường. Trong quy chế nêu rõ trách nhiệm của hiệu trưởng, của giáo viên, cán
bộ, công chức; những việc người học được biết và tham gia ý kiến; trách nhiệm của
nhà trường; trách nhiệm của đơn vị, các đoàn thể, tổ chức trong nhà trường. Quy chế
đã đáp ứng được nguyện vọng của cán bộ, giáo viên, công nhân viên trong các nhà
trường theo phương châm: được biết, được bàn, được tham gia ý kiến, được giám sát,

kiểm tra và mở ra một cuộc vận động thực hiện dân chủ hoá trong các trường học. Từ
lãnh đạo ngành giáo dục đến các cơ sở giáo dục đều nhận thức đúng tầm quan trọng
của việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong các hoạt động giáo dục và đào
tạo. Từ đó đã phát huy quyền làm chủ của cán bộ, giáo viên, công nhân viên, góp
phần xây dựng nhà trường văn hoá, nhà giáo mẫu mực, học sinh chăm ngoan thanh
lịch. Hơn nữa, tăng cường trách nhiệm của hiệu trưởng nhà trường cũng như trách
nhiệm của mỗi cán bộ, giáo viên trong việc thực hiện công tác quản lý giáo dục, công
tác giảng dạy và phục vụ giảng dạy.
Phương châm chung cho sự phát triển đất nước là "phát huy nội lực". Một trong
những giải pháp kích thích sự phát huy nội lực là thực hiện quy chế dân chủ. Như vậy,
một khi quy chế dân chủ trong nhà trường được thực hiện tốt thì sẽ phát huy được sức
mạnh trí tuệ và tinh thần của các thành viên nhằm hoàn thành các nhiệm vụ chính trị
của nhà trường .
Đất nước ta đang tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đòi hỏi giáo dục phải
đi tắt đón đầu. Do vậy, “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” là
trọng trách cao cả đã được đặt lên vai sự nghiệp giáo dục, nơi đào tạo thế hệ chủ nhân
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

6


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

tương lai của đất nước có trình độ tri thức cao. Để sự nghiệp giáo dục phát triển thì
phải phát huy được tiềm năng trí tuệ của đội ngũ giáo viên, đó chính là nội lực của sự
nghiệp giáo dục. Muốn phát huy tiềm năng trí tuệ của đội ngũ trí thức thì phải phát
huy quyền dân chủ trong đội ngũ trí thức. Thông qua việc thực hiện dân chủ trong nhà
trường nhằm phát huy tốt nhất quyền làm chủ và huy động tiềm năng trí tuệ của cán
bộ lãnh đạo, giáo viên, cán bộ công chức học sinh và đoàn thể trong các hoạt động
giáo dục đảm bảo cho hoạt động dạy và học đạt chất lượng, hiệu quả.

Duy trì và đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ trong nhà trường vẫn là biện
pháp quan trọng và hiệu quả để kích thích mọi thành viên của nhà trường làm việc hết
mình, lao động, giảng dạy và học tập. Trong quản lý nhà trường phổ thông hiện nay,
việc thực hiện quy chế dân chủ nhiều khi chưa cải tiến kịp thời mà còn có lúc mắc sai
lầm : bệnh thành tích, quan liêu, cửa quyền, áp đặt, thiếu trung thực trong đánh giá...
Việc thực hiện dân chủ trong nhà trường vẫn còn mang nặng tính hình thức, chưa thực
sự có chiều sâu. Khắc phục những sai lầm mới chỉ là một mặt của việc thực hiện quy
chế dân chủ, tăng cường thực hiện quy chế dân chủ sao cho phù hợp với những thành
viên nhà trường của ngày hôm nay và ngày mai mới là việc rất khó. Nó đòi hỏi
những nghiên cứu về lý luận và những phương pháp hành động mới cho phù hợp.
Việc tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở một số trường học trên địa bàn
huyện Sốp Cộp tỉnh Sơn La còn chưa đầy đủ, chưa thường thường xuyên, đôi khi còn
hình thức và chưa có chiều sâu dẫn đến nội bộ nhà trường nhiều lúc, nhiều nơi thiếu
đoàn kết, chưa phát huy tốt sức mạnh tập thể, từ đó ảnh hưởng tới chất lượng giáo dục
trong nhà trường. Chính vì vậy tôi chọn tiểu luận nghiên cứu “ Thực trạng và giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở trường
THCS Sốp Cộp huyện Sốp Cộp tỉnh Sơn La” với hy vọng đóng góp một phần trí tuệ
của mình vào việc nâng cao chất lượng công tác thực hiện quy chế dân chủ ở trong
các trường học.
2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu, phân tích những quan điểm lý luận về dân chủ, thực trạng của việc tổ
chức thực hiện quy chế dân chủ ở trường THCS Sốp Cộp từ đó đề xuất các giải pháp
để việc tổ chức thực hiện quy chế dân chủ có hiệu quả cao hơn góp phần nâng cao
chất lượng giáo dục.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Nghiên cứu về nhận thức và tình hình tổ chức thực hiện quy chế dân chủ ở
trường THCS Sốp Cộp huyện Sốp Cộp tỉnh Sơn La giai đoạn 2000 – 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê nin.
Phân tích và tổng kết thực tiễn.

Hệ thống cấu trúc, thống kê so sánh.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

7


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

PHẦN II. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ DÂN CHỦ.
1. Cơ sở lý luận.
1.1. Khái niệm về dân chủ.
Dân chủ, theo nghĩa hẹp là người dân làm chủ. Hiểu theo nghĩa rộng, dân chủ
là một chế độ hoạt động mà ở đó mọi người đều có thể thể hiện được quyền làm chủ
của mình, phát huy được sức lực và tài năng để đóng góp xây dựng và bảo vệ cộng
đồng, tập thể mà mình làm chủ.
Theo từ điểm Tiếng Việt: Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị
của xã hội, trong đó thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thông qua một
hệ thống bầu cử tự do.
Trong nhà trường, dân chủ là cơ chế tổ chức hoạt động phát huy được tinh thần
làm chủ của mọi thành viên trong quá trình xây dựng, phát triển nhà trường.
Quy chế là tổng thể nói chung những điều quy định thành chế độ để mọi người
thực hiện trong những hoạt động nhất định nào đó.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lê nin kế thừa những nhân tố hợp lý, những hoạt động thực
tiễn và nhận thức của nhân loại về dân chủ. Đặc biệt tán thành quan điểm: Dân chủ là
một nhu cấu khách quan của nhân dân lao động, dân chủ là quyền lực thuộc về nhân
dân.
Khi xã hội có giai cấp và nhà nước – Tức là một chế độ dân chủ thể hiện chủ
yếu qua nhà nước thì khi đó không có dân chủ chung chung, phi gia cấp siêu giai cấp,

“dân chủ thuần túy”. Trái lại, mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản
chất giai cấp thống trị xã hội. Nên dân chủ trong xã hội có giai cấp nó mang tính giai
cấp, gắn liền với các giai cấp đã thiết lập nên nền dân chủ đó, như : Dân chủ chủ nô,
dân chủ tư sản, dân chủ vô sản (dân chủ XHCN). Do đó từ khi có chế độ dân chủ thì
dân chủ luôn luôn tồn tại với tư cách một phạm trù lịch sử, phạm trù chính trị.
Từ khi có nhà nước dân chủ thì dân chủ còn với ý nghĩa là một hình thức nhà
nước, trong đó chế độ bầu cử, bãi miễn các thành viên của nhà nước, có quản lý xã
hội theo pháp luật nhà nước và thừa nhận ở nhà nước đó “quyền lực thuộc về nhân
dân” (còn dân là ai thì do giai cấp thống trị quy định) gắn liền với một hệ thống
chuyên chính của xã hội.
Với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng đều do một giai cấp thống trị
cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của toàn xã hội, do vậy, tính giai cấp thống trị
cũng gắn liền và chi phối tính dân tộc, tính chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… ở mỗi
quốc gia, dân tộc cụ thể.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

8


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

Hồ Chí Minh là một nhà chính trị, nhà giáo dục vĩ đại, Người có một “ tầm mắt
đại bàng của tư duy”. Người dày công tìm kiếm, phát hiện và giới thiệu cho đất nước
những nét tiến bộ mới của nền giáo dục kiểu mới của nhân dân lao động. Đó là nền
giáo dục Việt Nam xã hội chủ nghĩa mang tính nhân đạo và tính dân chủ cao cả.
Trong nền giáo dục ấy, việc phát huy cao độ dân chủ trong giáo dục ở nhà
trường luôn là tiền đề cần thiết bảo đảm cho sự phát triển toàn diện những năng lực
sẵn có của con người; là nền giáo dục mà theo Người “dạy và học cần phải theo nhu
cầu của dân tộc, của Nhà nước”. Trong Thư gửi các cán bộ, cô giáo, thầy giáo, công

nhân viên, học sinh, sinh viên nhân dịp bắt đầu năm học mới, Báo Nhân dân, số 5299,
ngày 16/10/1968, Hồ Chí Minh viết: "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần
phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa".
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong giáo dục ở nhà trường luôn có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và sự
nghiệp giáo dục nói riêng của đất nước trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Với quan
niệm dân chủ là của quý báo nhất của nhân dân và thực hành dân chủ là chìa khóa để
giải quyết mọi khó khăn, trong sự nghiệp giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực cho công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" ở nước ta, hơn bao giờ hết tư tưởng Hồ
Chí Minh về việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường càng có ý nghĩa thiết
thực và mang tính thời sự sâu sắc, vì rằng chỉ có thực hiện và phát huy được dân chủ
trong nhà trường mới đảm bảo là cơ sở, nền tảng vững chắc cho việc khơi thông mọi
tiềm năng về trí tuệ vốn sẵn có trong mỗi con người Việt Nam, nhất là tầng lớp sinh
viên, học sinh để đào tạo ra những con người toàn diện, vừa "hồng" vừa "chuyên",
vừa “hiền” vừa “minh”, có tri thức khoa học kỹ thuật- tự nhiên - xã hội, có lý tưởng
xã hội chủ nghĩa, đạo đức, sức khoẻ,...
Trong mỗi giai đoạn cách mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến
cách mạng xã hội chủ nghĩa, dù ở bất cứ hoàn cảnh nào, Hồ Chí Minh đều đặc biệt
quan tâm đến giáo dục nói chung và việc phát huy dân chủ trong giáo dục ở nhà
trường nói riêng để đào tạo ra nguồn nhân lực, nhân tài phục vụ đất nước. Người là
chiến sỹ tiên phong đi vào phong trào quần chúng, thức tỉnh nhân dân, tổ chức, đoàn
kết, huấn luyện, đưa nhân dân ra đấu tranh giành tự do độc lập; giải phóng nhân dân
thoát khỏi ách áp bức bóc lột của thực dân phong kiến, thoát khỏi sự ràng buộc của hệ
tư tưởng lạc hậu, tạo mọi điều kiện cho mỗi dân tộc và mỗi người dân đứng lên làm
chủ nền văn hóa, làm chủ vận mệnh và tương lai của mình trong nền giáo dục mới mà
Người đã dày công vun đắp.
Trong nền giáo dục kiểu mới ấy, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xem “giáo dục là
sự nghiệp của quần chúng”. Một trong những mục tiêu cao nhất của nền giáo dục
mới, nền giáo dục cách mạng Việt Nam là "đào tạo các em nên những người công dân

hữu ích cho nước Việt Nam ... làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của
các em”, trang bị cho mỗi người dân có kiến thức mới để "biến một nước dốt nát, cực
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

9


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui hạnh phúc". Để làm được điều
đó, Người yêu cầu “phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa” vì theo Người,
chỉ có phát huy dân chủ đến cao độ thì mới động viên được tất cả sinh viên, học sinh
đề ra sáng kiến. Theo đó, các cấp ủy, chính quyền, các ngành các cấp, các đoàn thể
quần chúng và toàn xã hội phải thật sự quan tâm đến công tác giáo dục, tạo điều kiện
giúp đỡ các trường về mọi mặt, riêng nhà trường “phải thật sự mở rộng dân chủ trong
cơ quan”, phải phát huy cao độ dân chủ trong giáo dục, tạo nên sự đoàn kết nhất trí
giữa thầy với thầy, thầy với trò, trò với trò, tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa nhà
trường - gia đình - xã hội cùng cộng đồng trách nhiệm để phát triển giáo dục, đẩy
mạnh sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển mới. Trong Bài nói tại Hội
nghị cán bộ Đảng ngành Giáo dục (từ ngày 3 đến 8/6/1957, tại Hà Nội), Hồ Chí Minh
nói: “giáo dục trong nhà trường dù có tốt mấy nhưng thiếu Giáo dục trong gia đình và
ngoài xã hội thì kết quả cũng không thu được hoàn toàn”.
Trong khuôn khổ giáo dục ở nhà trường, việc thực hành dân chủ là một đòi hỏi
hết sức bức thiết, theo đó, Người yêu cầu những người làm công tác quản lý giáo dục
phải nhận thức đúng tầm quan trọng của dân chủ trong giáo dục, xác định giáo dục là
sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân; chủ trương của Nhà
trường phải cụ thể, thiết thực, đúng đắn; phải kết hợp chặt chẽ chủ trương, chính sách
của Nhà nước với tình hình thực tế và kinh nghiệm quý báu, phong phú của quần
chúng, của cán bộ và của địa phương.
Để việc thực hiện dân chủ trong giáo dục ở nhà trường phát huy được hiệu quả,

theo Hồ Chí Minh yếu tố cần thiết đầu tiên là phải đào tạo và xây dựng đội ngũ những
người làm công tác giáo dục, đặc biệt là các cô giáo, thầy giáo – những người vẻ vang
nhất, những anh hùng vô danh, người kỹ sư tâm hồn, vì theo Người, “không có thầy
giáo thì không có giáo dục”. Để xứng đáng với danh hiệu ấy, Người cho rằng “mỗi
người thầy giáo phải không ngừng học tập trau dồi chuyên môn nghiệp vụ và phẩm
chất đạo đức cách mạng của nhà giáo, thực sự vừa "hồng" vừa "chuyên", "phải tiến bộ
cho kịp thời đại thì mới làm được nhiện vụ, chớ tự mãn cho mình giỏi rồi thì dừng lại
mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, tự đào thải mình trước.
Mặt khác, để nâng cao trình độ nhận thức của người học, Hồ Chí Minh cho
rằng thầy cô giáo phải có quan điểm dân chủ, thẳng thắn, không nhồi sọ, áp đặt và cần
tạo môi trường, điều kiện để người dạy và người học có sự đối thoại, trao đổi trong
quá trình giảng dạy, học tập. Người chỉ rõ “chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải
được tự do. Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần
tìm ra chân lý”, “được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng
cũng vậy", và nhấn mạnh “trong trường, cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và
trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông
suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt” và "khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy
chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân lý". Một cách
cụ thể hơn, Hồ Chí Minh kêu gọi giảng viên phải biết tôn trọng ý kiến của đồng
nghiệp, của sinh viên, không nên có thành kiến đối với các ý kiến trái với ý kiến của
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

10


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

mình, phải "nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng","phải ra sức tẩy
sạch ảnh hưởng giáo dục nô dịch của thực dân còn sót lại như: thái độ thờ ơ đối với xã
hội, xa rời đời sống lao động và đấu tranh của nhân dân, học để lấy bằng cấp, dạy

theo lối nhồi sọ. Và cần xây dựng tư tưởng dạy và học để phục vụ Tổ quốc, phục vụ
nhân dân".
Trong mối tương quan giữa người dạy và người học, xét ở góc độ tác động của
người dạy đến người học, thì một giảng viên giỏi là một giảng viên biết hướng dẫn
sinh viên đi tìm chân lý vì vốn dĩ theo Hồ Chí Minh, “lý luận không phải là một cái gì
cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo”. Để làm được điều này, điều cần thiết là phải
thật sự tạo ra được một môi trường học tập thật dân chủ, trong môi trường này thầy và
trò cùng nhau thảo luận, đối thoại, ở đó không khí thoải mái, hăng hái sẽ được tạo ra,
sinh viên có nhiều cơ hội để thể hiện, phát huy năng lực của mình và đích đến của nó
là sự sáng tạo như lời Người đã nói: “dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất
quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến.
Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và
người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc, thì
những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều”. Từ đó, Người yêu cầu:
giảng viên cần phải nâng cao mở rộng dân chủ ra, khuyên gắng sinh viên, bày cho họ
suy nghĩ, cổ động họ tìm tòi, đề nghị,.... Khi họ đã có ít nhiều sáng kiến, thì giúp đỡ
cho họ phát triển, khen ngợi cho họ thêm hăng hái. Như thế, thì những tính lười, tính
“gặp chăng hay chớ” ngày càng bớt, mà sáng kiến và tính hăng hái ngày càng nhiều
thêm.
Tuy nhiên, để dân chủ trong giáo dục ở nhà trường được hoàn bị, Hồ Chí Minh
yêu cầu “dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là “cá
đối bằng đầu”, trong trao đổi, đối thoại phải trên tinh thần nghiêm túc, công khai,
khách quan, phản ánh sự vật, hiện tượng đúng với thực tiễn xảy ra, “không được nói
gàn, nói vòng quanh”,… Đó là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong đối thoại. Cụ
thể như việc đọc tài liệu, Người yêu cầu “phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách
mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề không thông suốt thì mạnh dạn đề ra và
thảo luận cho vỡ lẻ” cũng như đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi "vì sao?",
đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật đúng lý không,
tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ
chín chắn".

Như vậy, mặc dù đề cao và yêu cầu phải dân chủ, phải nêu cao tác phong độc
lập suy nghĩ, tự do tư tưởng, Hồ Chí Minh cũng khẳng định không thể có dân chủ quá
trớn hay tùy tiện, dân chủ phải gắn liền với pháp luật, tự do phải gắn liền với kỷ
cương. Về mối quan hệ này, Người nói: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân,
chuyên chính là cái khóa, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không có khóa,
nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên có cửa phải có khóa, có nhà phải có
cửa. Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ” và
"không nên hiểu lầm dân chủ. Khi chưa quyết định thì tha hồ bàn cãi. Nhưng khi đã
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

11


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

quyết định rồi thì không được bàn cãi nữa, có bàn cãi cũng chỉ là để bàn cách thi hành
cho được, cho nhanh, không phải để đề nghị không thực hiện. Phải cấm chỉ những
hành động tự do quá trớn ấy".
1.4. Quan điểm của Đảng về dân chủ.
Tiếp thu các giá trị về dân chủ đã được Ðảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và toàn
dân ta khởi dựng từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên (ngày 6/1/1946), lập nên một chính
thể dân chủ rộng rãi, với bản Hiến pháp 1946 lịch sử, trong suốt quá trình lịch sử từ
năm 1946 – 1985, quan điểm về quần chúng nhân dân luôn được Đảng ta xác định là
một trong những vấn đề mấu chốt của cách mạng. Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra quan điểm “lấy dân làm gốc” với phương
châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
Ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII)
ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở đã
mở ra giai đoạn mới về thực hiện các quyền công dân trong đời sống xã hội. Văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII và lần thứ VIII thì vấn đề dân chủ được thể

hiện trên nhiều lĩnh vực, tiêu biểu là kinh tế và quyền công dân đã ngày càng được
bảo đảm. Ngày 01.03.2000 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Quy chế
thực hiện dân chủ trong trường học. Từ năm học 2008 – 2009 Bộ Giáo dục & Đào tạo
yêu cầu các đơn vị trường học thực hiện 3 công khai trong quản lý trường học.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt
Nam, vấn đề dân chủ được đưa vào với tư cách là mục tiêu phát triển “dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” nhưng vẫn quy định là đảng viên không được
làm kinh tế tư nhân. Đến Đại hội Đảng lần thứ X, quan điểm về dân chủ của Đảng
ngày càng được rộng mở, cụ thể là thực hiện “dân chủ hóa” tất cả các mặt của đời
sống xã hội, trước hết là dân chủ về kinh tế. Theo chủ trương trên, đảng viên được
làm kinh tế tư nhân, góp phần làm cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và mạnh
hơn.
Đặc biệt, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ( bổ sung, phát triển năm 2011), quan điểm về dân chủ của Đảng ta có sự
thay đổi căn bản, thể hiện ở các đặc trưng : “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo…”. Có thể thấy, sự thay đổi vị trí của từ “dân
chủ” và “công bằng” không đơn thuần chỉ là vấn đề câu chữ, thay đổi trật tự từ ngữ
mà còn thể hiện quan điểm nhất quán rõ ràng của Đảng trong việc coi vấn đề dân chủ
vừa là mục tiêu vừa là động lực trong phát triển kinh tế – xã hội, từng bước xây dựng
xã hội ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ kính yêu hằng mong
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

12



ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

ước. Điều này cũng sẽ trả lời cho một câu hỏi mà nhiều người trong đó có một bộ
phận thanh niên vẫn còn hoang mang, thắc mắc : “Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta đang xây dựng là một xã hội như thế nào?”
Và trong Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2011 – 2020 của Đảng ta cũng
khẳng định : “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là
chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Nâng cao năng lực và tạo
cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát
huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo
động lực phát triển đất nước…”.
Điều này còn được thể hiện trong bài diễn văn ra mắt sau khi được bầu làm
người đứng đầu Đảng khóa XI, tân Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã long trọng cam
kết trước toàn Đảng, toàn dân “kiên định độc lập dân tộc, phát huy dân chủ; sáng tạo,
không ngừng nỗ lực phấn đấu, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách
của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc họp báo sau
đó, không ít lần nhắc đến từ dân chủ và nhấn mạnh phải xây dựng cơ chế như thế nào
để có dân chủ thực chất chứ không phải là dân chủ hình thức, là “trình diễn cho có
dân chủ”. Điều cốt yếu là thực hành dân chủ chủ rộng rãi trong Đảng và trong nhân
dân, nói phải đi đôi với làm.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam không tự nhiên mà có và không phải
cứ tự nhận mà được. Đó là kết quả của sự hy sinh, phấn đấu không mệt mỏi của toàn
Đảng qua các thời kỳ cam go của cách mạng. Đảng đã được nhân dân Việt Nam tin
yêu, trao trọng trách dẫn đường phát triển cho dân tộc. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam, nước ta đang tiếp tục công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước, theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, mở cửa, hội
nhập nền kinh tế quốc tế, vì mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”. Vì vậy, yêu cầu về dân chủ hóa trong đời sống của đất nước ngày càng cao.
Tuy nhiên, để quan điểm của Ðảng về dân chủ đi vào cuộc sống, Văn kiện Ðại hội
Ðảng lần thứ XI đã xác định: “Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được

thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm” đồng thời với nâng cao ý thức
về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã hội của nhân
dân.
2. Cơ sở thực tiễn.
Ngày 11 tháng 5 năm 1998 Chính phủ ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP
về ban hành Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở.
Ngày 01 tháng 03 năm 2000 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành
Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của nhà trường. Quy chế gồm có 4
chương, 19 điều quy định trách nhiệm của Hiệu trưởng, cán bộ, viên chức, các đoàn
thể chính trị, nhà trường trong thực hiện quy chế dân chủ. Mối quan hệ của nhà
trường với các cấp quản lý giáo dục, chính quyền địa phương.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

13


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ tại các trường học đã đạt được
nhiều kết quả khả quan. Ban lãnh đạo trường đã nhanh chóng triển khai và thực hiện
tốt những nội dung mà trường đã đề ra trong việc thực hiện quy chế dân chủ trong
hoạt động của nhà trường. Cụ thể lãnh đạo trường và tập thể cán bộ, giảng viên, nhân
viên và sinh viên trong trường, đã thực hiện tốt các nội dung chủ yếu sau:
Lãnh đạo trường đã lắng nghe và tiếp thu những ý kiến của cá nhân, tổ chức,
đoàn thể trong trường, có các biện pháp giải quyết đúng theo chế độ, chính sách hiện
hành của Nhà nước và phù hợp với thẩm quyền được giao.
Thực hiện chế độ hội họp theo đúng định kỳ, gồm họp giao ban, họp các hội
đồng tư vấn (Hội đồng đào tạo, khoa học, thi đua khen thưởng – kỷ luật, tuyển dụng,
lương...), đồng thời phối hợp với Công đoàn trường tổ chức hội nghị đại biểu cán bộ,
viên chức hàng năm.

Thực hiện chế độ công khai tài chính theo qui định của Nhà nước; công khai
các quyền lợi, chế độ, chính sách và việc đánh giá định kỳ đối với cán bộ, giáo viên,
nhân viên và học sinh.
Công khai những quy định về sử dụng tài sản, xây dựng cơ sở vật chất, các dự
án đất đai, công tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, nâng bậc lương, thuyên
chuyển, điều động, khen thưởng kỷ luật, đề bạt và các chế độ chính sách khác.
Công khai các khoản thu học phí, việc sử dụng kinh phí và chấp hành chế độ
thu, chi, quyết toán theo quy định hiện hành. Hàng năm trường thành lập Ban Kiểm
tra tài chính kế toán nội bộ để kiểm toán hoạt động tài chính của các đơn vị trực
thuộc, sau đó tổng hợp và báo cáo trước hội nghị đại biểu cán bộ, công chức.
Thực hiện việc lấy ý kiến đóng góp xây dựng của các cá nhân và các tổ chức,
đoàn thể trong trường về các vấn đề: kế hoạch phát triển, quy mô đào tạo, công tác
tuyển sinh, giảng dạy, nghiên cứu khoa học; quy trình quản lý đào tạo; kế hoạch xây
dựng cơ sở vật chất; các hoạt động sản xuất, dịch vụ; việc xây dựng nội quy, quy chế
nội bộ trong trường v.v...
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý trường. Phối
hợp chặt chẽ với các tổ chức, đoàn thể, các cá nhân trong trường, phát huy dân chủ
trong tổ chức hoạt động của nhà trường.
Tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường đã tích cực tham gia đóng
góp ý kiến cho toàn bộ các hoạt động của trường. Kiên quyết đấu tranh chống những
hiện tượng bè phái, mất đoàn kết và những hoạt động khác vi phạm dân chủ, kỷ
cương trong trường. Đồng thời, thực hiện đúng những qui định của Pháp lệnh cán bộ
công chức, Pháp lệnh chống tham nhũng, Pháp lệnh thực hành tiết kiệm; giữ gìn phẩm
chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, cán bộ, công chức; tôn trọng đồng nghiệp và sinh
viên; bảo vệ uy tín của nhà trường.

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

14



ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

II. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VIỆC TỔ CHỨC THỰC HIỆN DÂN
CHỦ TRONG TRƯỜNG HỌC TẠI TRƯỜNG THCS SỐP CỘP.
1. Đặc điểm tình hình.
1.1. Khái quát về nhà trường.
Trường THCS Sốp Cộp là trường học nằm ở trung tâm hành chính huyện Sốp
Cộp, nhà trường luôn nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Huyện ủy –
HĐND – UBND, Phòng GD&ĐT Sốp Cộp; sự quan tâm ủng hộ, giúp đỡ của cấp ủy,
chính quyền và nhân dân các dân tộc xã Sốp Cộp.
Là trường đầu tiên của huyện đạt chuẩn Quốc gia về phổ cập giáo dục THCS
( tháng 10 năm 2004). Trong những năm qua, chi bộ, nhà trường, các đoàn thể quần
chúng và nhiều cán bộ giáo viên đã nhận được nhiều Bằng khen, giấy khen của các
Bộ, UBND tỉnh, Liên đoàn lao động tỉnh, UBND Huyện …
Năm học 2010 – 2011 nhà trường có 26 cán bộ, giáo viên, nhân viên. Đội ngũ
cán bộ, giáo viên đều đạt trình độ chuyên môn chuẩn và trên chuẩn; đa phần trẻ, khỏe,
nhiệt tình công tác.
Nhà trường có 1 chi bộ Đảng với 11 đảng viên ( 10 đảng viên chính thức) đủ
khả năng lãnh đạo cán bộ, giáo viên, nhân viên thực hiện nhiệm vụ.
1.2. Vị trí địa lý điều kiện tự nhiên xã Sốp Cộp.
Xã Sốp Cộp là xã vùng cao biên giới nằm ở trung tâm hành chính Huyện Sốp
Cộp với tổng diện tích tự nhiên là. Xã tiếp giáp với các xã Mường Và, Nậm Lạnh,
Dồm Cang của huyện Sốp Cộp và xã Huổi Một của huyện Sông Mã.
Là xã có địa hình đồi núi cao ( độ cao trung bình 700m so với mực nước biển),
độ dốc lớn và bị cắt xẻ mạnh. Khí hậu á nhiệt đới chịu ảnh hưởng của gió phơn Tây
Nam. Một năm có 2 mùa: mùa mưa và mùa khô; mùa mưa thường kéo dài từ tháng 4
đến tháng 9.
Sốp Cộp là nơi gặp nhau của 3 con suối, nguồn nước khá rồi rào.
1.3. Điều kiện về kinh tế văn hóa, xã hội.

Xã Sốp Cộp là xã thuần nông, không có nghề phụ, cùng với quá trình phát triển
của đất nước tình hình kinh tế xã hội của xã Sốp Cộp đã và đang có những chuyển
biến mạnh mẽ theo hướng hiện đại. Quá trình đô thị hóa nông thông, phát triển khá
nhanh công nghiệp – xây dựng và các ngành nghề dịch vụ.
Với tiềm năng sẵn có và lợi thế của trung tâm hành chính huyện, xã Sốp Cộp
đang trong quá trình xây dựng nông thôn mới với mục tiên đến năm 2015 trở thành đô
thị loại V.
Tổng số dân toàn xã là 4.614 người gồm 5 dân tộc anh em ( Thái, Mông, Khơ
mú, Lào và Kinh trong đó người Thái chiếm trên 70% dân số).
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

15


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

Hiện nay Sốp Cộp vẫn đang là một xã nghèo với 33% hộ gia đình thuộc diện hộ
nghèo, đời sống nhân dân đa phần khó khăn, đặc biệt là các bản vùng cao ( Tà Cọ,
Huổi Ái, Co Hịch và Co Pồng)
2. Ưu điểm và nguyên nhân
2.1. Ưu điểm.
Việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ tại Trường THCS Sốp Cộp đã đạt
được nhiều kết quả khả quan. Ban lãnh đạo trường đã nhanh chóng triển khai và thực
hiện tốt những nội dung mà trường đã đề ra trong việc thực hiện quy chế dân chủ
trong hoạt động của nhà trường. Cụ thể lãnh đạo trường và tập thể cán bộ, giáo viên,
nhân viên và học sinh trong trường, đã thực hiện tốt các nội dung chủ yếu sau:
Lãnh đạo trường đã lắng nghe và tiếp thu những ý kiến của cá nhân, tổ chức,
đoàn thể trong trường, có các biện pháp giải quyết đúng theo chế độ, chính sách hiện
hành của Nhà nước và phù hợp với thẩm quyền được giao.
Thực hiện chế độ hội họp theo đúng định kỳ, gồm họp giao ban, họp các hội

đồng tư vấn (Hội đồng giáo dục, khoa học, thi đua khen thưởng, kỷ luật ...), đồng thời
phối hợp với Công đoàn trường tổ chức hội nghị viên chức hàng năm.
Thực hiện chế độ công khai tài chính theo qui định của Nhà nước; công khai
các quyền lợi, chế độ, chính sách và việc đánh giá định kỳ đối với cán bộ, giáo viên,
nhân viên và học sinh.
Công khai những quy định về sử dụng tài sản, xây dựng cơ sở vật chất, các dự
án đất đai, nâng bậc lương, khen thưởng kỷ luật, đề bạt và các chế độ chính sách khác.
Công khai các khoản thu, khoán ngân sách, việc sử dụng kinh phí và chấp hành
chế độ thu, chi, quyết toán theo quy định hiện hành. Hàng năm trường thành lập Ban
Kiểm tra nội bộ để kiểm tra hoạt động của nhà trường, các đoàn thể và giáo viên sau
đó tổng hợp và báo cáo trước hội nghị viên chức.
Thực hiện việc lấy ý kiến đóng góp xây dựng của các cá nhân và các tổ chức,
đoàn thể quần chúng trong trường về các vấn đề: kế hoạch phát triển giáo dục, mạng
lưới trường lớp, công tác tuyển sinh, giảng dạy, nghiên cứu khoa học; kế hoạch xây
dựng cơ sở vật chất; việc xây dựng nội quy, quy chế nội bộ trong trường v.v...
Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lý trường. Phối
hợp chặt chẽ với các tổ chức, đoàn thể quần chúng, các cá nhân trong trường, phát
huy dân chủ trong tổ chức hoạt động của nhà trường.
Tập thể cán bộ, giáo viên, nhân viên trong trường đã tích cực tham gia đóng
góp ý kiến cho toàn bộ các hoạt động của trường. Kiên quyết đấu tranh chống những
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

16


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

hiện tượng bè phái, mất đoàn kết và những hoạt động khác vi phạm dân chủ, kỷ
cương trong trường. Đồng thời, thực hiện đúng những qui định của Pháp lệnh cán bộ
công chức, Pháp lệnh chống tham nhũng, Pháp lệnh thực hành tiết kiệm; giữ gìn phẩm

chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, cán bộ, công chức; tôn trọng đồng nghiệp và học
sinh; bảo vệ uy tín của nhà trường.
Nhờ thực hiện tốt quy chế dân chủ mà trong 10 năm qua chất lượng dạy và học
của nhà trường không ngừng tăng lên, tỷ lệ giáo viên giỏi, học sinh giỏi năm sau cao
hơn năm trước. Đến nay, tỷ lệ giáo viên giỏi các cấp đạt 40%, học sinh khá giỏi đạt
34%, tỷ lệ học sinh lớp 9 tốt nghiệp THCS hàng năm đạt 98 – 100%, học sinh lưu ban
không quá 1%.
2.2. Nguyên nhân.
Chi bộ, Ban giám hiệu quát triệt đầy đủ các chỉ thị, nghị quyết Đảng các cấp.
văn bản chỉ đạo của ngành Giáo dục và Đào tạo về tăng cường thực hiện quy chế dân
chủ trong trường học.
Hiệu trưởng đã xây dựng và ban hành quy định thực hiện quy chế dân chủ
trong nhà trường, quy định rõ những việc hiệu trưởng phải xin ý kiến cán bộ giáo viên
trước khi quyết định. Thực hiện tốt quy định “ 3 công khai” của Bộ giáo dục và Đào
tạo từ năm học 2008 – 2009.
Ban chấp hành công đoàn, đặc biệt là Ban thanh tra nhân dân nhà trường luôn
năng động hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Sự đồng lòng nhất trí của cán bộ, giáo viên, nhân viên nhà trường trong thực
hiện nhiệm vụ.
3. Hạn chế và nguyên nhân.
3.1. Hạn chế.
Việc xây dựng các văn bản quy định và thực hiện các nội dung trong quy chế
dân chủ của nhà trường còn chậm.
Công tác thanh tra nội bộ của nhà trường thực hiện chưa thường xuyên và đạt
hiệu quả chưa cao.
Một số cán bộ, giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc thực hiện quy chế dân
chủ, không tham gia xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ.
3.2. Nguyên nhân.
Việc hướng dẫn, kiểm tra việc chấp hành quy chế dân chủ của các cấp quản lý
giáo dục chưa sát sao.

Sự vào cuộc của Công đoàn còn bị động và nhiều khâu vẫn lúng túng.

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

17


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

Tình thần trách nhiệm với tập thể của một số cán bộ, giáo viên, nhân viên chưa
cao.
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP.
1. Phương hướng, nhiệm vụ.
1.1. Phương hướng.
Thực hiện tốt các nội dung quy định trong Chỉ thị 30-CT/TW và Nghị định số
71/2008/NĐ-CP.
Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là
mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, của công cuộc
đổi mới.
Đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng thể
của hệ thống chính trị "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Coi
trọng cả ba mặt nói trên, không vì nhấn một mặt mà coi nhẹ, hạ thấp các mặt khác.
Vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt
động của Quốc hội, Chính phủ, hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân các cấp, vừa
thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định
trực tiếp những công việc quan trọng thiết thực, gắn liền với lợi ích của mình.
- Phát huy dân chủ phải gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao dân trí, tạo
điều kiện mở rộng dân chủ có chất lượng và hiệu quả.
Nội dung các quy chế phát huy dân chủ ở cơ sở phải phù hợp với Hiến pháp,
pháp luật, rõ tinh thần dân chủ đi đôi với kỷ cương, trật tự; quyền hạn gắn với trách

nhiệm, lợi ích đi đôi với nghĩa vụ; chống quan liêu, mệnh lệnh, đồng thời chống tình
trạng vô chính phủ, lợi dụng dân chủ vi phạm pháp luật.
Gắn quá trình xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ với công tác cải cách
hành chính, sửa đổi những cơ chế, chính sách về thủ tục hành chính không phù hợp.
Quy định quyền của mọi người dân ở cơ sở được thông tin về pháp luật, các
chủ trương, chính sách của Nhà nước, nhất là những vấn đề liên quan trực tiếp đến
đời sống và lợi ích hàng ngày của nhân dân tại cơ sở; có chế độ và hình thức báo cáo
công khai trước dân công việc của chính quyền, cơ quan, đơn vị về sản xuất và phân
phối, về việc sử dụng công quỹ, tài sản công, về thu, chi tài chính, các khoản đóng
góp của dân, quyết toán các công trình xây dựng cơ bản, chế độ thu và sử dụng học
phí, viện phí...
Có quy chế và các hình thức để nhân dân, cán bộ, công chức ở cơ sở được bàn
bạc và tham gia ý kiến vào các chủ trương, chính sách, nhiệm vụ công tác chuyên
môn, công tác cán bộ... của chính quyền, cơ quan, đơn vị; kết quả ý kiến đóng góp
phải được xem xét, cân nhắc khi chính quyền hoặc thủ trưởng ra quyết định.

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

18


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

Có quy định về việc để nhân dân bàn và quyết định dân chủ đối với những loại
việc liên quan trực tiếp đến đời sống của nhân dân trên địa bàn (như chủ trương huy
động sức dân để xây dựng kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi, các khoản đóng
góp và lập các loại quỹ trong khuôn khổ pháp luật...); chính quyền, thủ trưởng cơ
quan, đơn vị tổ chức thực hiện theo ý kiến của đa số nhân dân, có sự giám sát, kiểm
tra của nhân dân.
Hoàn thiện cơ chế để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức ở cơ sở trực tiếp

và thông qua Mặt trận, các đoàn thể, ban thanh tra nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt
động của chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị; kết quả thanh tra, kiểm tra, giám
sát của nhân dân phải được tiếp thu nghiêm túc.
Mở rộng các hình thức tổ chức tự quản để nhân dân, công nhân, cán bộ, công
chức tự bàn bạc và thực hiện trong khuôn khổ pháp luật những công việc mang tính
xã hội hoá, có sự hỗ trợ của chính quyền, cơ quan, đơn vị (như việc xây dựng hương
ước, quy ước làng văn hoá, xây dựng tổ hoà giải, tổ an ninh, phong trào vệ sinh - môi
trường, đền ơn đáp nghĩa, giúp đỡ người nghèo, v.v...).
Xác định rõ trách nhiệm và tổ chức tốt việc tiếp dân, giải quyết khiếu nại tố cáo
và trả lời thắc mắc của nhân dân, công nhân, công chức ở cơ sở, chính quyền, cơ
quan, đơn vị mình, nghiêm cấm mọi hành vi trù dập người khiếu nại, tố cáo.
Xác định trách nhiệm của tổ chức chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị cơ
sở định kỳ (ba tháng, sáu tháng, một năm) báo cáo công việc trước dân, phải tự phê
bình và tổ chức để nhân dân, công nhân, cán bộ, công chức ở cơ sở góp ý kiến, đánh
giá, phê bình; nghiêm túc tiếp thu những ý kiến đóng góp đó.
Tổ chức Đảng và đảng viên phải gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở. Tổ chức Đảng phải làm cho đảng viên thông suốt nhận thức, tư
tưởng; đảng viên, nhất là các đảng viên có chức vụ trong chính quyền phải gương
mẫu tự phê bình và phê bình nghiêm túc trong đảng bộ và trong nhân dân.
Phải làm từng bước vững chắc, không làm lướt, ồ ạt. Cấp uỷ cấp trên trực tiếp
chỉ đạo điểm, rút kinh nghiệm, bồi dưỡng cán bộ rồi mới triển khai mở rộng.
Qua tự phê bình trong nội bộ và qua phê bình nhận xét của nhân dân, biểu
dương những cán bộ, đảng viên tốt, gương mẫu và xử trí những cán bộ, đảng viên có
sai phạm. Việc xử trí cán bộ, đảng viên sai phạm phải nghiêm minh, có lý có tình, lấy
giáo dục làm chính. Những người đã sai phạm nếu thành khẩn kiểm điểm và tích cực
sửa chữa thì được xem xét giảm nhẹ hình thức kỷ luật; nếu ngoan cố hoặc tái phạm thì
phải xử trí nghiêm khắc hơn.
1.2. Nhiệm vụ.
Một là, tiếp tục quán triệt quyết định số 04/2000/QĐ-BGDĐT ngày 01 tháng 03
năm 2000 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định thực hiện quy

chế dân chủ trong trường học tại hội nghị viên chức nhà trường hàng năm.
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

19


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

Hai là, tiếp tục xây dựng, bổ sung và hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả quy
chế dân chủ của nhà trường, thực hiện tốt quy định “ 3 công khai” của Bộ GD&ĐT.
Ba là, phát huy tinh thần trách nhiệm của thủ trưởng đơn vị, nâng cao hiệu quả
công tác phối hợp giữa Hiệu trưởng với Ban chấp hành Công đoàn, Đoàn Thanh niên
nhà trường.
Bốn là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa con người với con người, con người với
công việc, dung hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể. Giải quyết tốt các mâu thuẫn
phát sinh không để xảy ra tình trạng khiếu kiện gây mất đoàn kết nội bộ.
Năm là, nâng cao vai trò trách nhiệm của Ban thanh tra nhân dân nhà trường,
thường xuyên kiểm tra, giám sát công tác quản lý của Hiệu trưởng tránh để xảy ra tình
trạng độc đoán, gia trưởng; mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức trong nhà trường.
Sáu là, khen thưởng những tập thể, cá nhân thực hiện tốt quy chế dân chủ, xử lý
kỷ luật những cá nhân không thực hiện quy chế dân chủ.
2. Giải pháp.
2.1. Công khai các văn bản, các thông tin.
Việc phổ biến, công khai các văn bản, các thông tin. Thủ trưởng luôn coi trọng
việc phổ biến công khai thông tin tức là đã thực hiện giải pháp cơ bản nhất trong lãnh
đạo, quản lý. Nếu còn ai đó còn coi thường công việc này, có ý bưng bít thông tin thì
biểu hiện mất dân chủ đã khá rõ ràng. Nhà trường có bao nhiều loại tài sản công, tài
chính công, bao nhiêu biên chế…được giao cho đơn vị quản lý? Các chính sách, các
quy định cho tập thể, cho cá nhân như thế nào?
Sau khi nhận được các văn bản, hiệu trưởng nghiên cứu sau đó thông tin công

khai đến cán bộ, giáo viên phù hợp với các quy định về bảo mật của nhà nước.
Các văn bản của nhà trường cần công khai thông báo trên Website của nhà
trường để các cấp quản lý giáo dục, phụ huynh học sinh, giáo viên được biết, giám sát
và kiểm tra.
2.2. Thực hiện việc lấy ý kiến tập thể cho các công việc tập thể.
Hiệu trưởng tổ chức họp bàn, lấy ý kiến nghiêm túc, cầu thị cho mỗi công việc
của tập thể. Chúng ta thường nghe đây đó có chuyện thủ trưởng vẫn họp bàn lấy ý
kiến nhưng…đã quyết rồi. Nhiều trường họp bộ tứ ( Chi bộ, Ban giám hiệu, Công
đoàn và Đoàn thanh niên ) nhưng Hiệu trưởng lại tự quyết như thế bộ tứ thành “ tự
bố”. Như vậy thì nó đồng nghĩa với bệnh độc đoán, chuyên quyền. Mặt khác, nó sẽ
không được mang trong mình “trí tuệ tập thể” của mỗi công việc chung. Không một
thủ trưởng nào có thể hiểu hết các công việc đã làm, đang làm và sẽ làm bằng những
con người trực tiếp hàng ngày phải nai lưng ra thực hiện. Và nó thể hiện sự tôn trọng
của cấp trên với cấp dưới. Cụ thể những việc Hiệu trưởng phải lấy ý kiến tham gia
đóng góp xây dựng của các cá nhân hoặc các tổ chức, đoàn thể trong nhà trường trước
khi quyết định, đó là:
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

20


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

Kế hoạch phát triển, tuyển sinh, dạy học, nghiên cứu khoa học và các hoạt động
khác của nhà trường trong năm học.
Quy trình quản lý đào tạo, những vấn đề về chức năng, nhiệm vụ của các tổ
chức bộ máy trong nhà trường.
Kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của
nhà giáo, cán bộ, công chức.
Kế hoạch xây dựng cơ sở vật chất của nhà trường, các hoạt động dịch vụ, sản

xuất của nhà trường.
Các biện pháp tổ chức phong trào thi đua, khen thưởng hàng năm, lề lối làm
việc, xây dựng nội quy, quy chế trong nhà trường.
Các báo cáo sơ kết, tổng kết theo định kỳ trong năm học.
2. 3. Hiệu trưởng cần có sự quan tâm, gần gũi cán bộ, giáo viên.
Dân chủ còn là sự gần gũi, chia sẻ khó khăn của cấp trên với cấp dưới. Ai mà
chẳng có những khó khăn trong đời sống gia đình, trong mỗi công việc. Hiệu trưởng
gần dân, gần cấp dưới cũng tạo được sự tự tin hơn để mỗi cá nhân trong tập thể góp
sức mình cố gắng hoàn thành nhiệm vụ chung.
Ngoài việc họp Ban giám hiệu, giao ban với các đoàn thể, tổ chuyên môn; hàng
tuần Hiệu trưởng cần họp với giáo viên chủ nhiệm các lớp; họp toàn thể hội đồng để
kịp thời nắm bắt tâm tư nguyện vọng của cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh để kịp
thời cảm thông chia sẻ và tháo gỡ khó khăn không chỉ trong công tác mà cả trong
cuộc sống.
2.4. Nâng cao vai trò của Ban thanh tra nhân dân, tăng cường thanh kiểm tra
nội bộ.
Ban thanh tra nhân dân nhà trường hàng năm cần xây dựng và thực hiện tốt
việc thanh tra nội bộ. Kiểm tra công tác quản lý của Hiệu trưởng để ngăn ngừa và việc
thiếu dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Tất nhiên thanh tra nội bộ là để giúp nhau cùng
thực hiện tốt nhiệm vụ chứ không phải là soi mói, bới lá tìm sâu.
Ban kiểm tra nội bộ trường học cần được phát huy thực sự. Các tổ chức này
chính là cầu nối của giữa cấp trên với cấp dưới, với nhân dân và nó sẽ góp phần rất
lớn trong việc truyền tải thông tin mà không cần thủ trưởng ra mặt làm thay. Các tổ
chức này được lập ra không phải để trở thành công cụ phục vụ Hiệu trưởng, nếu soi
cái nhìn chỉ riêng về một phía, chỉ riêng về cấp dưới thì tác dụng sẽ ngược lại. Vì thế
Ban thanh tra nhân dân phải thực sự là tai, mắt, tiếng nói của quần chúng nhân dân.
2.5. Thực hiện đúng “3 công khai” của đơn vị.
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Tài chính đã có quy định rõ ràng về thực hiện công
khai trong giáo dục (Thông tư 09/2009/TT-BGDĐT và Thông tư 21/2009/TTBTC).
Theo đó hàng năm nhà trường phải lập bảng niêm yết, lập hồ sơ công khai ( công khai

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

21


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

về cơ sở vật chất; công khai chất lượng, số lượng đội ngũ; công khai tài chính). Thực
hiện đúng “3 công khai” không khó khăn nhưng liệu mỗi một hiệu trưởng có quan
tâm nó thì chỉ nhìn qua không gian nhà trường sẽ biết ngay. Tổ chức Hội nghị viên
chức hằng năm của nhà trường ngoài việc thông qua dự thảo kết hoạch năm học, quy
chế dân chủ cần có mục công khai tài chính ( có bảng kê rõ ràng các khoản thu, chi;
tách biệt thu chi từ nguồn ngân sách nhà nước với thu chi từ nguồn xã hội hóa giáo
dục có kèm theo biên bản kiểm tra của thanh tra nhân dân.
2.6. Đánh giá rút kinh nghiệm thường xuyên vấn đề dân chủ trong nhà trường.
Định kỳ hàng năm tập thể phải nhìn thẳng vào quá trình và kết quả, đánh giá
mặt được, chưa được một cách kịp thời. Việc tự đánh giá, tự phê bình của Hiệu
trưởng cũng rất cần thiết trong vấn đề dân chủ, nó mở đường cho việc loại bỏ cái thói
quen “xấu che, tốt khoe”…cho bằng được, bởi ngay cả bản thân công việc này cũng
thể hiện tính chất dân chủ rồi.
3. Kiến nghị
3.1. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo.
Phòng Giáo dục và Đào tạo cần có văn bản yêu cầu các đơn vị trường học xây
dựng và thực hiện quy chế dân chủ. Thường xuyên có các hình thức và biện pháp
kiểm tra có hiệu quả.
3.2. Đối với Trường THCS Sốp Cộp.
Tiếp tục phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm. Tăng cường công tác tự
kiểm tra, nâng cao hiệu của hoạt động giám sát của các đoàn thể quần chúng.
Đổi mới công tác thanh kiểm tra nội bộ, tiếp tục thực hiện tốt quy định 3 công
khai của Bộ Giáo dục và đào tạo./.


THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

22


ThiÒu Quang Hïng – TiÓu luËn tèt nghiÖp líp Trung cÊp Lý luËn – Hµnh chÝnh

PHẦN III. KẾT LUẬN
Việc ban hành và thực hiện quy chế dân chủ trong cơ quan hành chính nói
chung và trong hoạt động của trường học nói riêng đã tạo một bước chuyển biến quan
trọng trong nhận thức và hành động của nhà trường. Thực hiện quy chế dân chủ đã
khắc phục tình trạng mất dân chủ, lãnh đạo theo lối duy ý chí, cục bộ, bè phái trong
nhà trường.
Việc thực hiện quy chế dân chủ ở trường học theo quyết định số 04/2000/QĐBGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chứng tỏ chủ chương của Đảng nhà nước
ta là đúng đắn, sáng tạo, được đông đảo cán bộ, giáo viên và học sinh tin tưởng, phấn
khởi hưởng ứng và thực hiện tốt.
Quyền làm chủ và không khí dân chủ trong nhà trường tiếp tục được mở rộng
và phát huy nâng cao thực chất hơn; Càng khẳng định dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của sự nghiệp đổi mới là giải pháp có tính chiến lược để phát triển nhà
trường.
Thực hiện quy chế dân chủ đã thúc đẩy việc nâng cao dân trí, ý thức pháp luật,
thực hành dân chủ, công khai góp phần xây dựng môi trường văn hoá, xã hội lành
mạnh, tạo sự đoàn kết thống nhất trong Chi bộ Đảng, Ban giám hiệu, sự đồng thuận
trong cán bộ, giáo viên, nhân viên thành sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi
mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước cũng như của
địa phương đề ra.
Thực hiện quy chế dân chủ trong trường học là cụ thể phương châm của Đảng:
Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giải quyết những công việc thiết thực ở
trường học, nâng cao trách nhiệm của cán bộ, giáo viên, học sinh trong việc tham gia

giám sát quản lý kinh tế xã hội, tháo gỡ những vướng mắc, mâu thuẫn trong dân cư,
góp phần ổn định chính trị ở cơ sở, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, tập trung
phát triển kinh tế xã hội, giữ vững an ninh quốc phòng, góp phần xây dựng chỉnh đốn
Đảng trong sạch vững mạnh.
Thực hiện quy chế dân chủ đã đề cao được trách nhiệm của cấp uỷ cũng như
của cán bộ Đảng viên nhất là người đứng đầu tổ chức Đảng và các cơ quan đơn vị,
phong cách, ý thức chất lượng công tác của cán bộ, công chức có nhiều chuyển biến
tích cực hơn trước, kỷ cương, kỷ luật trong lãnh đạo và quản lý Nhà nước được tăng
cường, góp phần chống suy thoái về đạo đức, lối sống tham nhũng rèn luyện cho cán
bộ đảng viên tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Những nghiên cứu trên đây đã cho thấy rõ hơn về nhận thức và thực hiện quy
chế dân chủ ở trường THCS Sốp Cộp huyện Sốp Cộp tỉnh Sơn La.

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở TRƯỜNG THCS SỐP CỘP

23



×