Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Nguồn gốc và các hình thức tôn giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.1 KB, 7 trang )

NGUỒN GỐC CỦA TÔN GIÁO VÀ CÁC HÌNH THỨC TÔN GIÁO
1. Nguồn gốc của tôn giáo
Có 3 nguồn gốc của tôn giáo nhưng chủ yếu là 2 nguồn gốc xã hội và nhận thức
1.1. Nguồn gốc xã hội
-

Tôn giáo nảy sinh trong một xã hội trình độ sản xuất thấp kém, hiểu biết hạn

hẹp, mơ hồ, nguyên thuỷ của con người trong thời kỳ đầu khi mới chuyển từ người
vượn trung gian sang người hiện đại (con người vừa thoát thai khỏi giới động vật).
Mối quan hệ của con người với tự nhiên lúc này là con người hoàn toàn phụ thuộc
vào tự nhiên. Đứng trước các hiện tượng tự nhiên diễn ra xung quanh con người,
trước những hiện tượng diễn ra trong đời sống sinh hoạt hàng ngày như ốm đau
bệnh tật, chết chóc…con người không hiểu được, lý giải và chế ngự được nên con
người sinh ra sợ hãi, bất lực. Từ đó, con người thần thánh hoá các hiện tượng tự
nhiện, gán cho các hiện tượng tự nhiên, các hiện tượng đời sống một sức mạnh siêu
nhiên, kỳ bí nào đó nên các hiện tượng tự nhiên đã biến thành các vị thần: 1 hòn đá
trên sa mạc, 1 gốc cây, 1 con suối…đều biến thành thần. Sự hiểu biết hạn hẹp của
con người là tự phát.
-

Bên cạnh những lực lượng tự nhiên, con người cũng gặp phải những lực

lượng xã hội là lực lượng xã hội diễn ra một cách tự phát và chế độ xã hội có áp
bức bóc lột.
Lực lượng tự phát của xã hội nảy sinh từ công xã thị tộc là vấn đề mâu thuẫn giữa
bộ tộc này với bộ tốc khác, bãi miễn tù trưởng, tộc trưởng, bầu tộc trưởng, sự phân
công lao động…Đứng trước lực lượng tự phát của xã hội, người ta, đặc biệt là
người nguyên thuỷ không tìm ra lối thoát dẫn đến ảo tưởng vào niềm tin tôn giáo,
họ tin như đó là sự sắp đặt từ trước rồi bởi những lực lượng thần thánh.
Sản xuất phát triển, xã hội xuât hiện của cải dư thừa dẫn đến chế đọ tư hữu rồi nảy


sinh chế độ nô lệ, rồi giai cấp và nhà nước ra đời. Sự áp bức bóc lột giai cấp nảy
sinh. Nhân dân lao động bị bóc lột về kinh tế, mất quyền sống tự nhiên về mặt tinh


thần, cuộc sống khổ cực…người ta không tìm ra lối thoát, người ta mong muốn
thoát khỏi cuộc sống khổ cức, đoạ đày của trần gian, họ tìm đến tôn giáo để hi
vọng một cuộc sống mới tốt đẹp hơn ở thế giới bên kia.
1.2.
-

Nguồn gốc nhận thức

Tôn giáo bắt nguồn từ sự hạn chế nhất định trong nhận thức của con người.

Đó chính là sự hiểu biết hạn hẹp, mơ hồ, nguyên thuỷ về nguyên nhân thực sự của
các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Việc không lý giải được những biến động này
hay biến động khác, nhất là những biến động liên quan đến cuộc sống của con
người. Đó là tiền đề quan trọng nhất dẫn đến hình thành niềm tin tôn giáo.
-

Tôn giáo còn ra đời xuất phát từ đặc điểm của quá trình nhận thức.Quá trình

nhận thức là một quá trình hết sức phức tạp, không theo đường thẳng mà quanh co,
gấp khúc. Nó không đơn giản như soi gương, chụp ảnh. Các hình thức phan ánh
thế giới phong phú, đa dạng bao nhiêu thì con người có khả năng nhận thức thế
giới đầy đủ, sâu sắc bấy nhiêu. Nhưng các hình thức phản ánh, nhất là các hình
thức phản ánh mới đã làm cho khả năng tư duy của con người dần tách rời hiện
thực, đi xa hiện thức và phản ánh sai lầm hiện thực. Cho nên thế giới quan được
phản ánh thông qua lăng kính chủ quan của con người đã hình thành nên các biểu
tượng, khái niệm, suy lý, phán đoán. Song nhưng hình thức phản ánh đó một mặt

nó phản ảnh một phần bản chất, quy luật của hiện tượng khách quan, mặt khác nó
chứa đựng những yếu tố suy diễn tưởng tượng, xa rời hiện thực. Từ đó hình thành
các biểu tượng tôn giáo.
1.3.
-

Nguồn gốc tâm ly

Tâm lý tiêu cực: Tâm lý khuất phục. Đứng trước các hiện tượng tự nhiên và

xã hội, con người lo sợ, sợ hãi, bất lực mà dẫn đến khuất phục, con người không
làm chủ được mình và từ đó mà nảy sinh thần linh.
-

Tâm lý tích cực: Lòng biết ơn, sự tôn kính, ngưỡng mộ đối với người có

công trng viếc tiến công chinh phục lực lượng tự nhiên và chống cường quyền.


2. Các hình thức tôn giáo trong lịch sư
Sự ra đời của tôn giáo là một hiện tượng hợp quy luật. Tôn giáo ra đời là do
sự bất lực của con người trong cuộc đấu tranh với tự nhiên cũng như trong việc
giải quyết các mối quan hệ xã hội. Do đó sự phát triển của sản xuất, sự phức tạp
hoá của các mối quan hệ xã hội, tất yếu dẫn đến sự biến đổi của các quan niệm tôn
giáo của con người và nó làm nên những kiểu tôn giáo khác nhau hay các hình
thức tôn giáo khác nhau trong lịch sử như tôn giáo thị tộc bộ lạc (các hình thức tôn
giáo sơ khai trong thời kỳ xã hội tiền giai cấp), tôn giáo dân tộc (hay quốc gia) và
tồn giáo thế giới. Mối kiểu tôn giáo có đặc trưng và quá trình biến đổi riêng.
2.1. Các hình thức tôn giáo sơ khai trong xã hội nguyên thuy
2.1.1. Bái vật giáo (Tục thờ vật)

Là hình thức tôn giáo xuất hiện sớm nhất trong xã hội nguyên thuỷ,
thờ cúng mọ vật trong tự nhiên, người ta gắn cho nó một sức mạnh siêu
nhiên nào đó và nuôi hi vọng sức mạnh đó sẽ che chở, phù hộ cho con
người, đem lại những điều tốt đẹp cho con người. Vì vậy bái vật giáo trở
thành thành tố tất yếu của sự thờ cúng.
2.1.2. Tôtem giáo
Tôtem có nghĩa là giống loài. Con người tin vào mối quan hệ huyết thống
siêu nhiên giữa một loài động vật hoặc thực vật nào đó với nguyên thuỷ.
Về nguyên tắc thì bộ lạc thị tộc thờ con vật thì không bao giờ ăn con vật đó. Nếu
thị tộc, bộ lạc khác ăn thịt vật tổ của bộ lạc thị tộc mình thì sẽ dẫn đến xung đột.
Tuy nhiên trong hình thức thờ cúng Tôtem có một lễ hiến tế Tôtem, người ta giết
chết con vật đó để ăn thịt. Mục đích để nhằm tăng cường quan hệ huyết thống với
Tô tem, củng cố sức mạnh cộng đồng và đảm bảo cho những diều kiện cần thiết để
tái sản xuát Tôtem.
2.1.3 .Ma thuật giáo (Phép phù thuỷ)


Là một niềm tin của người nguyên thuỷ và khả năng tác động đến các
hiện tượng tự nhiên, các sự kiện liên quan đến con người thông qua các
hoạt động mang tính chất tượng trưng (phù ;hép, đọc thần chú, cầu khấn,
yểm bùa, niệm thần chú…)nhờ có các biện pháp ma thuật, người nguyên
thuỷ cố gắng tác động đến các hiện tượng tự nhiên, hiện tượng xã hội theo
hướng mình mong muốn. Các hoạt động này còn tồn tại ở các tôn giáo đang
tôn tại hiện nay như: làm phép, cầu nguyện…


Đặc điểm chung của 3 hình thức tôn giáo trên

+ Thần thánh hoá mọi khách thể của thế giới hiện thực: hòn đá, cây cối, con vật…
Theo Enghen là “quan niệm mông muội mang tc

+ Các hình thức tôn giáo này mới thể hiện ý niệm về siêu linh chứ chưa có ý niệm
về 2 thế giới: thế giới hư và thế giới thực nên cả 3 tôn giáo này được xếp trong
phạm trù khái niệm: Tiền vật linh giáo.
2.1.4. Vật linh giáo
Người ta quan niệm bất cứ một vật thể nào cũng có 2 phần: phần thực
thể là xác, phần vô hình là hồn. Trong đó, cái vô hình tác động đến các hữu
hình (thực thể) và chi phối cái hữu hình ywf đó đẻ ra quan niệm về thế giới
bên kia. Đó chính là cơ sở cho sự xuất hiện mọi niềm tin tôn giáo. Sự ra
đời của vật linh giáo đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong nhận thức
của người nguyên thuỷ về tôn giáo.
2.1.5. Thờ cúng tổ tiên
Đó là hình thức con người nguyên thuỷ cho rằng: con người chết chưa phải
là hết, người chết có thể phù hộ, che chở, bảo vệ cho người sống (nếu phần mộ của
họ được chăm sóc, linh hồn họ được thờ cúng, ngược lại người chết có thể hại
người sống nếu phần mộ của họ bị lãng quên, bỏ bê, linh hồn không được thờ
cúng). Nó là hiện tượng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới bởi cơ sở hình


thành tôn giáo này ngoài yếu tố tâm linh còn có cả yếu tố đạo lý “uống nước nhớ
nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”…
2.1.6.Sa man giáo
Đây là hình thức tôn giáo mà người ta cho rằng có những người có khả năng
đặc biệt có thể giao tiếp với thần linh, là người trung gian giữa hai thế giới: thế giới
người và siêu nhiên. Những người có khả năng đặc biết được gọi là thầy phù thuỷ,
thầy mo…(sa man). Họ là những người có thật, được thần linh, ma quỷ nhậ vào đễ
phán bảo. Thầy sa man có y phục riêng, trống phách, mùi hương, múa may… tác
động kích thích mạnh đến thần kinh, tâm lý người tham dự.
Sa man giáo thể hiện một bước tiến về mặt tổ chức của tôn giáo bởi bắt đầu
xuất hiện những người làm nghề tôn giáo chuyên nghiệp: những thầy cúng, thầy
mo, người lên đồng…Hình thức này còn tồn tại ở nhiều dân tộc miền núi. Bắt đầu

thời các vị thần dưới hình ảnh của con người: tù trưởng, thủ lĩnh…Dưới chế độ
công xã thị tộc mẫu hệ thì tượng thần phụ nữ, sang công xã thị tộc phụ hệ thì
chuyển sang thờ tượng thần nam giới do vai trò, vị trí ngày càng tăng của người
cha, người chồng trong gia đình và người đàn ông trong xã hội thị tộc.


Đặc điểm của tôn giáo trong xã hội nguyên thuỷ

-

Tính đa thần trong sự thờ cúng, thể hiện tính chất phân tán của chế độ thị

tộc, bộ lạc.
-

Chưa có yếu tố tổ chức như các tổ chức trong các tôn giáo hiện đại. Vì vậy

chưa xuất hiện một tầng lớp người hành nghề tôn giáo chuyên nghiệp.
2.2.Tôn giáo trong thời kỳ xã hội có giai cấp và nhà nước
2.2.1. Tôn giáo dân tộc (hay quốc gia)
-

Là kiểu tôn giáo thứ 2 trong lịch sử xã hội loài người. Sự ra đời của

nó gắn liền với sự xuất hiện xã hội phân chia thành giai cấp, nhà nước
được thiết lập. Đó là xã hội có giai cấp đầu tiên ở phương Đông hoặc là xã
hội chiếm hữu nô lệ ở phương Tây.


-


Ở phương Tây, tôn giáo dân tộc hình thành điển hình nhất ở Hy Lạp –

Rô Ma Khi nhà nước Hy Lạp – Rô ma ra đời, người ta thờ rất nhiều thần.
Mỗi vị thần đại diện cho một hiện tượng tự nhiên, một hiện tượng xã hội,
một hiện tượng tâm lý. Điển hình là hệ thống thần thánh của người Hy Lạp.
Đứng đầu là thần Dớt, dưới là hệ thống các thần: Thần ánh sáng và nghệ
thuật, Thần trí tuệ, thần chiến tranh,…mỗi vị thần bảo trị một lĩnh vực nào
đấy. Đặc điểm của các thần Hy Lạp là rất gần gũi với con người, cũng có
những trật tự như bậc thang xã hội của con người.
-

Ở phương Đông, điển hình nhất là Ai Cập, Babilon, Ba Tư. Thần tối cao của

các quốc gia cổ đại phương Đông là các vị quốc vương. Vua đồng nghĩa với thần,
thay thế thần cai trị nhân dân. Chính điều này đã hình thành cơ sở cho sự ra đời của
các tôn giáo độc thần. Quan niệm về thiên đường, địa ngục cũng bắt đầu xuất hiện,
hình thành phản ánh cơ cấu giai cấp trong xã hội con người.
-

Đặc trưng của tôn giáo dân tộc - quốc gia chính là tính quốc gia, dân tộc của

tôn giáo tức là quyền lực của các vị thần quốc gia – dân tộc không thể vượt qua
biên giới quốc gia – dân tộc đó, chỉ giới hạn trong quốc gia – dân tộc ấy mà thôi.
2.2.2. Tôn giáo thế giới
-

Là một loại hình tôn giáo phát triển ra ngoài phạm vi quốc gia, khu vực

mang tính chất thế giới.

-

Cơ sở để xuất hiên tôn giáo thế giới: Tôn giáo thế giới ra đời gắn liền

với sự giao lưu văn hoá, với sự xung đột giữa các quốc gia, sự bành trướng
của các đế chế.
-

Tôn giáo quốc gia phát triển mạnh mẽ, rộng rãi trong chế độ xã hội phong

kiến, chủ nghĩa tư bản – những xã hội có áp bức bóc lột cao.
-

Tiêu chí của tôn giáo thế giới:


+ Sự ra đời, biến chuyển của tôn giáo nào đó phải gắn liền với những bước ngoặt
quan trọng của lịch sử (hoặc gắn liền với những chuyển biến xã hội vĩ đại) và đặc
biệt là nó đụng chạm đến số phận của đại đa số người.
+ Khả năng truyền bá rộng rãi, không bó hẹp trong một cộng đồng, dân tộc, một
khu vực. Với tư cách là một tôn giáo nhất thống, tôn giáo thế giới phải có khả năng
gạt bỏ những tính cách, nghi lễ đặc thù của một dân tộc, tạo ra một ngôn ngữ
chung, một hệ thống giáo lý có tính chất phổ biến và những sinh hoạt tôn giáo dù
xa lạ lúc đầu nhưng vẫn có khả năng lôi cuốn, hấp dẫn nhiều dân tộc, nhiều chủng
tộc, nhiều lục địa khác nhau.



×