Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC LA CHÍ Ở HUYỆN XÍN MẦN, TỈNH HÀ GIANG HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (774.09 KB, 119 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

THÀO THỊ HẰNG

ĐỜI SỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC LA CHÍ
Ở HUYỆN XÍN MẦN, TỈNH HÀ GIANG HIỆN NAY
Chuyên ngành : Văn hóa học
Mã số

: 60 31 06 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS NGUYỄN THỊ HƯƠNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu, trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

TÁC GIẢ

Thào Thị Hằng


MỤC LỤC


Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU ĐỜI SỐNG VĂN HÓA
DÂN TỘC LA CHÍ HUYỆN XÍN MẦN, TỈNH HÀ GIANG

1.1. Khái niệm và cấu trúc của đời sống văn hóa

11
11

1.2. Đặc điểm, vai trò của phát triển đời sống văn hóa các dân tộc
thiểu số miền núi

19

1.3. Tác động của yếu tố địa lý, kinh tế - xã hội và lịch sử đến đời
sống văn hóa dân tộc La Chí

23

Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC LA CHÍ Ở
HUYỆN XÍN MẦN

30

2.1. Chủ thể đời sống văn hóa


30

2.2. Đời sống văn hóa trong hoạt động kinh tế và sinh hoạt

38

2.3. Đời sống văn hóa trong quan hệ xã hội

49

2.4. Đời sống văn hóa trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và nghệ
thuật dân gian

55

2.5. Đời sống văn hóa trong một số hoạt động khác

63

2.6. Đánh giá chung

71

Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO ĐỜI SỐNG
VĂN HÓA DÂN TỘC LA CHÍ TRONG THỜI GIAN TỚI

81

3.1. Sự biến đổi trong đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số và dân
tộc La Chí hiện nay


81

3.2. Phương hướng, nhiệm vụ phát triển đời sống văn hóa dân tộc La Chí

91

3.3. Một số giải pháp

98

KẾT LUẬN

108

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

110


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BCĐ

:

Ban chỉ đạo

BCH


:

Ban chấp hành

CLB

:

Câu lạc bộ

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa

Nxb

:

Nhà xuất bản

PGS, TS

:

Phó giáo sư, tiến sỹ

TDTT


:

Thể dục thể thao

TDĐKXDĐSVH :

Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa

THCS

:

Trung học cơ sở

THPT

:

Trung học phổ thông

Tr

:

Trang

UBND

:


Uỷ ban nhân dân


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa Việt Nam là thành quả của hàng nghìn năm lao động sáng tạo,
đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Những giá trị văn hóa đó góp phần hun đúc nên tâm hồn, khí phách,
bản lĩnh Việt Nam, góp phần làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc.
Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng ta khẳng định việc bảo tồn, phát
huy những giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số là một trong những nhiệm vụ
quan trọng của xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc. Xây dựng nền văn hóa mới cũng là quá trình xây dựng nền tảng tinh thần xã
hội phù hợp với thời đại mới, xu thế mới; đảm bảo để văn hóa trở thành mục
tiêu, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội; đảm bảo sự cân đối, hài hòa
giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa đáp ứng được yêu cầu phát triển đất
nước trong giai đoạn hiện nay.
Việt Nam là quốc gia đa dân tộc. Mỗi dân tộc sinh sống và phát triển
gắn với những lãnh thổ, cảnh quan xác định tạo nên các vùng sinh thái tộc
người và những truyền thống văn hóa đa dạng, làm phong phú thêm truyền
thống nền văn hóa Việt Nam. Theo số liệu thống kê năm 2000, Việt Nam có
54 dân tộc. Dân số đông nhất là dân tộc Kinh (Việt) chiếm 87%, cư trú chủ
yếu ở các vùng đồng bằng, ven biển; 53 dân tộc thiểu số còn lại chiếm 13%,
cư trú ở miền núi và vùng sâu vùng xa, vùng biên giới, hải đảo. Đây là vùng
có điều kiện tự nhiên phức tạp, giao thông đi lại khó khăn; kinh tế, văn hóa,
xã hội chậm phát triển; đời sống của các dân tộc thiểu số chưa được ổn định.
Trong những năm qua, nhằm đưa miền núi tiến kịp miền xuôi Đảng,
Nhà nước đã ban hành và tổ chức thực hiện hàng loạt các quyết sách: Chương
trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo (giai đoạn 2001 - 2005 và

2006 - 2010); Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó


2
khăn, vùng dân tộc thiểu số và miền núi - Chương trình 135 giai đoạn 1 (1998
- 2005) và giai đoạn 2 (2006 - 2010). Chương trình hỗ trợ đất ở, nhà ở, đất sản
xuất và nước sinh hoạt cho hộ nghèo (các Quyết định 134, 167, 74). Chương
trình giảm nghèo nhanh và bền vững cho 62 huyện nghèo nhất nước (Nghị
quyết 30a). Hệ thống các chính sách, chương trình dự án ưu đãi cho từng lĩnh
vực, ngành: trợ giá, trợ cước vận chuyển các mặt hàng, vật tư thiết yếu; cấp
không thu tiền cho 20 ấn phẩm báo, tạp chí phát hành tại vùng đặc biệt khó
khăn; phủ xanh đất trống, đồi núi trọc và dự án trồng mới 5 triệu ha rừng.
Chương trình dân số, kế hoạch hoá gia đình; chương trình y tế với các mục
tiêu phòng chống các dịch bệnh nguy hiểm, khám chữa bệnh miễn phí cho
người nghèo; chương trình phủ sóng phát thanh, truyền hình cho vùng đặc
biệt khó khăn; chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá - thông tin; chương
trình mục tiêu Quốc gia về Xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020;
cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”
(1995); phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” (2000)...
Các chương quyết sách đã làm thay đổi diện mạo đời sống nhân dân
các dân tộc thiểu số miền núi, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội của các địa phương và cả nước. Tuy
nhiên trong thời kỳ đổi mới, hội nhập sâu sắc với nền kinh tế thế giới hiện
nay, các thành tựu bước đầu đó chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Phát
triển kinh tế, văn hóa xã hội, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào
dân tộc thiểu số, đang là vấn đề cấp thiết.
Xín Mần là huyện vùng cao biên giới thuộc phía Tây của tỉnh Hà Giang
với 18 dân tộc cùng chung sống xen kẽ ở 19 xã, thị trấn; 186 thôn bản. Người
La Chí là dân tộc thiểu số đông đứng thứ 4 ở huyện Xín Mần, với số dân
4.840 người (số liệu tháng 12 năm 2013), chiếm 8% số dân của toàn huyện.

Dân tộc La Chí có truyền thống văn hóa lâu đời, độc đáo, đặc sắc. Các thế hệ


3
người La Chí luôn có ý thức gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống của
dân tộc mình.
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, đời sống
kinh tế, văn hóa, xã hội các dân tộc thiểu số nói chung, người La Chí nói
riêng được nâng lên về mọi mặt; nhu cầu vật chất và tinh thần được đáp ứng
ngày càng cao. Tuy nhiên về hạn chế, trong Báo cáo số 250, ngày 20/12/2012
của Huyện ủy Xín Mần về Tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương
5 (Khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc đã chỉ ra: “Thiết chế văn hóa, thể thao ở cấp cơ sở hầu như
chưa có và chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Các chương trình dự án cho việc
xây dựng các thiết chế văn hóa còn ít và chưa đáp ứng được nhu cầu hưởng
thụ các sản phẩm văn hóa của người dân” [35]. Bên cạnh đó việc đầu tư, bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc La Chí còn chưa thỏa đáng.
Nhiều di sản văn hóa chưa được khảo sát, đánh giá, mới chỉ chú ý đến lưu giữ
mà chưa có cơ chế khai thác, phát triển; vai trò của văn hóa đối với phát triển
kinh tế xã hội huyện Xín Mần chưa được phát huy; chưa thực sự góp phần
thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với
huyện Xín Mần nói riêng và các huyện miền núi, vùng sâu vùng xa nói chung.
Vì vậy, nghiên cứu đời sống văn hóa dân tộc La Chí ở huyện Xín Mần tỉnh
Hà Giang hiện nay là vấn đề cấp thiết. Điều đó không những có ý nghĩa đối
với với việc bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa của dân tộc La Chí, mà
còn có ý nghĩa phát huy vai trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế-xã hội,
góp phần thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia về Xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2010 - 2020 ở huyện Xín Mần hiện nay.
Từ những lí do trên tôi đã quyết định chọn vấn đề "Đời sống văn hóa
dân tộc La Chí ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang hiện nay" làm luận văn tốt

nghiệp hệ đào tạo cao học, chuyên ngành Văn hóa học tại Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.


4
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu văn hóa và bảo tồn giá trị di sản văn hóa các dân tộc thiểu
số luôn là đề tài hấp dẫn, thu hút các nhà lãnh đạo, quản lý, các nhà khoa
học… Liên quan đến vấn đề nghiên cứu của luận văn, có thể khái quát:
Thứ nhất, Một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về văn hóa và phát
triển, văn hóa tộc người, đời sống văn hóa, bảo tồn, phát huy các giá trị văn
hóa dân tộc Việt Nam:
- Hoàng Vinh. Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng văn hóa ở
nước ta hiện nay, Viện Văn hóa, Nxb Văn hóa Thông tin Hà Nội, 1999.
- Phan Hữu Dật. Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan
đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb CTQG, 2001.
- Miền núi Việt Nam thành tựu và phát triển những năm đổi mới, Ủy
ban Dân tộc, Nxb Nông nghiệp, 2002.
- Trần Văn Bính (chủ biên). Văn hóa các dân tộc Tây Bắc - Thực trạng
và những vấn đề đặt ra, Nxb, CTQG, 2004.
- Ngô Đức Thịnh. Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam,
Viện khoa học xã hội Việt Nam - Viện nghiên cứu văn hóa, Nxb Khoa học xã
hội, 2006.
- Nguyễn Thị Hương - Trần Kim Cúc: Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam, Nxb CTQG, 2011.
- Phạm Duy Đức. Phát triển văn hóa Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020
xu hướng và giải pháp, Nxb CTQG, 2010.
- Một số giá trị văn hóa truyền thống với đời sống văn hóa ở cơ sở
nông thôn hiện nay, Nxb Từ điển Bách khoa và Viện văn hóa, 2005.
- Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, Viện Văn hóa - Bộ văn hóa, Nxb

Văn hóa Hà Nội, 1994.
- Bế Viết Đẳng. Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã
hội ở miền núi, Nxb CTQG - Văn hóa dân tộc, 1996.


5
- Ngô Văn Lệ - Nguyễn Văn Tiệp - Nguyễn Văn Diệu. Văn hóa các
dân tộc thiểu số ở Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1998.
GS. Hoàng Vinh trong sách “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng
văn hóa ở nước ta”, xuất bản năm 1999 đã coi việc xây dựng đời sống văn
hóa là tiền đề nhằm xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc và đưa văn hóa thấm sâu vào đời sống của nhân dân. PGS, TS.
Nguyễn Hữu Thức trong công trình “Về văn hóa và xây dựng đời sống văn
hóa” xuất bản năm 2005 đã nêu lên quan niệm về vấn đề xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở gắn với việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiến tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc theo Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) của Đảng.
Bên cạnh đó, có một số cuốn sách và công trình khoa học đề cập đến
vấn đề văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa cơ sở như: cuốn "Xây dựng đời
sống văn hoá ở cơ sở" của Viện Văn hoá - Bộ Văn hoá, Nxb Văn hoá Hà Nội,
1984; cuốn “Một số giá trị văn hóa truyền thống với đời sống văn hóa ở cơ sở
nông thôn hiện nay” của Bộ Văn hóa thông tin, Nxb Văn hóa dân tộc 1998; cuốn
“Hỏi và đáp về phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” của
Ban chỉ đạo phong trào “TDĐKXDĐSVH” Trung ương, 2000; cuốn “Xây dựng
tư tưởng, đạo đức lối sống và đời sống văn hóa ở Thủ đô Hà Nội” của TS.
Nguyễn Viết Chức và các tác giả, Nxb Văn hóa thông tin, 2001…
Thứ hai, Một số đề tài luận văn Thạc sỹ viết về vấn đề xây dựng đời
sống văn hóa, tiêu biểu là: “Đời sống văn hóa của dân tộc Mông ở tỉnh Hà
Giang hiện nay” của tác giả Vũ Thị Hòa, Viện Văn hóa và Phát triển - Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2008; Đời sống văn hóa ở nông thôn
huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội hiện nay của tác giả Lê Thị Thanh

Nhàn, Viện Văn hóa và Phát triển - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
2011; Đời sống văn hóa ở khu dân cư trên địa bàn Thành phố Tuyên Quang
hiện nay của tác giả Nông Thị Bích Huệ, Viện Văn hóa và Phát triển - Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2011; Đảng bộ huyện Như Xuân, tỉnh


6
Thanh Hóa lãnh đạo thực hiện cuộc vận động TDĐKXDĐSVH ở khu dân cư
(2000-2010) của tác giả Trương Thị Kim Dung, Học viện Báo chí và tuyên
truyền, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2011...
Thứ ba, một số nghiên cứu khái quát những thành tựu phát triển kinh tế
và văn hoá trong những năm đổi mới của miền núi và tỉnh Hà Giang:
Công trình “Miền núi Việt Nam thành tựu và phát triển những năm đổi
mới” của Uỷ ban Dân tộc, xuất bản năm 2002 đã trình bày những thành tựu phát
triển về kinh tế, văn hóa - xã hội của đồng bào các dân tộc thiểu số ở Việt Nam;
công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào dân
tộc thiểu số trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Đồng thời, công
trình cũng đã đề cập đến các quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước đối với phát triển miền núi đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số. Các tác
giả Hùng Đình Quý - Nguyễn Khắc Sử - Phạm Văn Quang - Lò Giàng Páo Nguyễn Khắc Đãi - Cao Xuân Thái với “Văn hóa truyền thống các dân tộc Hà
Giang”, xuất bản năm 1994; các tác giả Lê Duy Đại - Triệu Đức Thanh với
“Các dân tộc ở Hà Giang”, xuất bản năm 2004 đã phản ánh khá toàn diện về
điều kiện cư trú, lịch sử hình thành và phát triển, phong tục tín ngưỡng... các
dân tộc ở Hà Giang trong đó có người La Chí. Các tác giả khái quát truyền
thống đấu tranh chống ngoại xâm và những thành tích trong xây dựng cuộc
sống mới; vấn đề về bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa của các dân tộc
thiểu số ở Hà Giang trong giai đoạn hiện nay.
Thứ tư, một số công trình nghiên cứu văn hoá truyền thống của dân tộc
La Chí, tiêu biểu: “Các dân tộc ít người ở Việt Nam (Các tỉnh phía Bắc)” của
Viện Dân tộc học xuất bản năm 1978. “Văn hóa truyền thống của người La

Chí” của tác giả Nguyễn Văn Huy, Nxb Văn hóa dân tộc, 1989. “Văn hoá
truyền thống các dân tộc Hà Giang” của Hùng Đình Quý (chủ biên) xuất bản
năm 1994. “Nghề đan lát truyền thống của người La chí” của Vi Văn An,
1986; Gần đây nhất là cuốn sách “Người La Chí ở Hà Giang” do Vũ Tú


7
Quyên (chủ biên). Luận văn của Lộc Văn Huy: “Vai trò của người thầy cúng
trong đời sống xã hội người La Chí ở xã Bản Díu, huyện Xín Mần, tỉnh Hà
Giang”, Đại học Văn hóa Hà Nội, 2011…đã phản ánh những nét khái quát về
giá trị truyền thống văn hóa của dân tộc La Chí và sự vận động của những giá
trị văn hóa đó trong thời kỳ đổi mới hiện nay. Qua đó, các tác giả nhấn mạnh
vai trò quan trọng của việc giữ gìn phát huy giá trị văn hóa dân tộc La Chí nói
riêng và giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số nói chung.
Có thể khái quát tình hình nghiên cứu trên đây ở các phương diện:
1/ Nghiên cứu quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước
đối với phát triển văn hóa và xây dựng đời sống văn hóa, thể hiện trong Nghị
quyết Trung ương 5 khóa VIII và Nghị quyết của các Đại hội từ Đại hội VI
đến XI của Đảng cộng sản Việt Nam. Văn hóa có vai trò quan trọng trong đời
sống xã hội, vì vậy xây dựng đời sống văn hóa Việt Nam nói chung, văn hóa
dân tộc La Chí nói riêng đã được quan tâm.
2/ Các công trình nghiên cứu đã góp phần làm rõ quan niệm về văn
hóa, đời sống văn hóa, văn hóa tộc người; bảo tồn phát huy giá trị văn hóa các
dân tộc thiểu số Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn.
3/ Tình hình nghiên cứu về văn hóa tộc người, quá trình hình thành và
những đặc điểm chính trong đời sống văn hóa dân tộc La Chí; nghiên cứu các
giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể; nghiên cứu việc bảo tồn và phát huy vai
trò của văn hóa dân tộc La Chí trong quá trình phát triển.
4/ Từ những vấn đề trên cho thấy sự vận động của đời sống văn hóa
bao giờ cũng gắn liền với thực tiễn xã hội. Hiện nay, đất nước ta đang trong

thời kỳ đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế, xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra
trên mọi lĩnh vực đã tác động trực tiếp đến đời sống văn hóa các dân tộc thiểu
số ở Việt Nam. Vì thế nghiên cứu đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số hiện
nay không chỉ dừng lại ở phương diện văn hóa, mà phải nghiên cứu xem xét
nó gắn với tình hình, nhiệm vụ xây dựng đất nước trong thời kỳ mới; gắn với


8
chương trình mục tiêu Quốc gia về Xây dựng nông thôn mới trong giai đoạn
hiện nay.
Luận văn sẽ tiếp thu những kết quả trên đây, vận dụng vào nghiên cứu
thực tiễn đời sống văn hóa dân tộc La Chí ở huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang
hiện nay, giải quyết những vấn đề của thực tiễn đang đặt ra - vấn đề chưa có
đề tài nào nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận về đời sống văn hóa,
luận văn khảo sát đánh giá thực trạng đời sống văn hóa đồng bào dân tộc La
Chí ở Xín Mần tỉnh Hà Giang từ năm 2000 đến 2013; từ đó đề xuất một số
giải pháp tiếp tục xây dựng, phát triển văn hóa dân tộc La Chí trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội, thực hiện chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng
nông thôn mới.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về đời sống văn hóa, đặc điểm
của đời sống văn hóa đồng bào thiểu số miền núi.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng đời sống văn hóa dân tộc La Chí ở
huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang từ năm 2000 đến 2013, chỉ ra những thành tựu,
hạn chế, nguyên nhân.
- Dự báo và đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát triển sâu
rộng và nâng cao chất lượng đời sống văn hóa vùng dân tộc La Chí ở Xín
Mần trong quá trình xây dựng nông thôn mới.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng: Luận văn khảo sát, đánh giá thực trạng đời sống văn hóa
dân tộc La Chí ở huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang ở các phương diện: Chủ thể
văn hóa; đời sống văn hóa thể hiện trong hoạt động kinh tế và sinh hoạt; quan
hệ xã hội; hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và nghệ thuật dân gian; và trong
một số hoạt động khác (hoạt động thông tin tuyên truyền, hoạt động xây dựng
đời sống văn hóa cơ sở...).


9
Về phạm vi: Thời gian khảo sát, phân tích thực trạng đời sống văn hóa
dân tộc La Chí ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang từ năm 2000 đến 2013.
Không gian nghiên cứu: Địa bàn có người La Chí sinh sống tại huyện Xín
Mần (chủ yếu ở xã Bản Díu huyện Xín Mần).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận biện chứng của
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách phát
triển của Đảng, Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp chủ yếu được sử dụng là: Văn hóa học; dân tộc học;
phân tích, tổng hợp; lịch sử lôgic; thống kê, so sánh; khảo sát, điều tra xã hội
học; điền dã; các phương pháp của dân tộc học...cùng với các phương pháp
liên ngành khác.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Qua kết quả khảo sát, đánh giá thực tế về thực trạng đời sống văn
hóa dân tộc La Chí ở huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang từ năm 2000 đến 2013;
luận văn đưa ra cái nhìn tổng quan về diện mạo đời sống văn hóa dân tộc
La Chí. Từ đó, đưa ra những dự báo và các giải pháp về xây dựng và phát
triển đời sống văn hóa dân tộc La Chí ở huyện Xín Mần trong thời gian tới,

có thể phục vụ cho công tác lãnh đạo và quản lý văn hóa vùng đồng bào
dân tộc thiểu số.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Thông qua tìm hiểu đời sống văn hóa dân tộc La Chí ở huyện Xín
Mần, tỉnh Hà Giang hiện nay; luận văn đã bổ sung và làm rõ thêm một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam.
Luận văn có thể trở thành tài liệu tham khảo giúp cho các cơ quan
chức năng và cán bộ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa tham mưu, đề xuất các


10
chính sách nhằm bảo tồn, phát huy và phát triển các giá trị văn hóa tốt đẹp của
dân tộc La Chí nói riêng và văn hóa các dân tộc thiểu số nói chung gắn với
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Xín Mần.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương 12 tiết.


11
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU ĐỜI SỐNG VĂN HÓA DÂN TỘC
LA CHÍ HUYỆN XÍN MẦN, TỈNH HÀ GIANG
1.1. KHÁI NIỆM VÀ CẤU TRÚC CỦA ĐỜI SỐNG VĂN HÓA

1.1.1. Khái niệm đời sống văn hóa
Đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội. Đời sống xã hội được
cấu thành bởi hai mặt: vật chất và tinh thần. Nếu kinh tế là nền tảng vật chất
của đời sống xã hội thì văn hóa là nền tảng tinh thần của đời sống xã hội. Đời
sống văn hoá chính là sự phản ánh biểu hiện tập trung nhất các mặt của văn

hoá, từ hoạt động sáng tạo, hưởng thụ đến quan niệm về giá trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo…
Đời sống văn hóa là gì? Từ năm 1947, trong tác phẩm “Đời sống mới”
được viết tại chiến khu Việt Bắc, Hồ Chí Minh đã bàn đến những nội dung
của đời sống mới, thực chất là những vấn đề về đời sống văn hoá. Theo Người,
đời sống mới là sửa đổi cách ăn, mặc, ở, đi lại, làm việc; xây dựng tư tưởng yêu
nước; đạo đức, tác phong cách mạng; nếp sống văn hoá cho mỗi người và cộng
đồng. Như vậy có thể coi “Đời sống mới” là công trình đầu tiên đặt cơ sở lý luận
cho việc xây dựng đời sống văn hoá ở cơ sở ra đời sau cách mạng tháng Tám
năm 1945.
Cũng giống như nhiều khái niệm khoa học khác, có rất nhiều cách hiểu
khác nhau về “đời sống văn hoá”. Thuật ngữ “đời sống văn hóa” hiện nay
được sử dụng khá phổ biến trên sách, báo, Văn kiện của Đảng và các phương
tiện truyền thông của nước ta. Tuy nhiên, cho đến nay trong từ điển Việt Nam
và nước ngoài vẫn chưa có một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh về thuật ngữ
này. Thường thì khi cần khảo sát đời sống văn hóa gắn với một không gian,
chủ thể cộng đồng văn hóa, vẫn cần phải dựa trên quan niệm và giới hạn nhất
định về khái niệm này.


12
Sau đây là một số quan niệm về đời sống văn hóa.
Tác giả Hoàng Vinh trong công trình nghiên cứu "Mấy vấn đề lý luận
và thực tiễn xây dựng văn hoá ở nước ta" cho rằng:
Đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm các yếu
tố văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn hóa vật thể, các thiết chế văn
hóa) cũng như các yếu tố văn hóa động thái (con người và các dạng
hoạt động văn hóa của nó). Xét về một phương diện khác, đời sống
văn hóa bao gồm các hình thức văn hóa hiện thực và cả các hình
thức sinh hoạt văn hóa tâm linh [79, tr.268].

Có thể thấy định nghĩa này về cơ bản đã phản ánh được cấu trúc của
đời sống văn hóa, song trong đó vẫn chưa đề cập đến những giá trị văn hóa.
Đồng thời, cách diễn đạt như thế chưa làm rõ được bản chất của đời sống văn
hóa vì chỉ nêu các yếu tố cấu thành ở thể biệt lập.
Tác giả Nguyễn Hữu Thức trong công trình "Một số kinh nghiệm quản
lý và hoạt động tư tưởng - văn hóa" quan niệm:
Đời sống văn hóa được hiểu một cách khái quát là hiện thực sinh
động các hoạt động của con người trong môi trường sống để duy trì,
đồng thời tái tạo sản phẩm văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần theo
những giá trị và chuẩn mực xã hội nhất định nhằm không ngừng tác
động, biến đổi tự nhiên, xã hội và đáp ứng nhu cầu đổi mới, nâng
cao chất lượng sống của chính con người [59, tr.20].
Đây là một bước cụ thể nhận thức về đời sống văn hóa, tuy nhiên,
quan niệm này đề cập tới phạm vi quá rộng, sẽ khó xác định cho việc triển
khai về xây dựng đời sống văn hóa gắn với không gian, lĩnh vực cụ thể...
Giáo trình “Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng” (Khoa
Văn hóa và phát triển - Học viện Chính trị Khu vực I) đưa ra quan niệm:
Đời sống văn hóa là một bộ phận của đời sống xã hội, bao gồm tổng
thể những yếu tố hoạt động văn hóa vật chất và tinh thần, những tác


13
động qua lại lẫn nhau trong đời sống xã hội để tạo ra những quan hệ
có văn hóa trong cộng đồng, trực tiếp hình thành nhân cách và lối
sống của con người. Đời sống văn hóa bao gồm những nội dung
không tách rời các lĩnh vực của đời sống xã hội và các yếu tố cơ
bản tạo nên văn hóa [29, tr.269-270].
Như vậy, có rất nhiều quan niệm khác nhau về đời sống văn hóa. Để đi
đến một quan niệm hoàn chỉnh hơn về đời sống văn hoá, chúng ta phải tiếp
cận thêm đời sống văn hoá trong toàn bộ đời sống xã hội và phải khu biệt,

giới hạn lĩnh vực sáng tạo văn hoá trên cơ sở xuất phát từ quan niệm văn hoá
theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp.
Trước hết, nói đến đời sống văn hóa là nói đến một bộ phận trong đời
sống của con người. Khái niệm "Đời sống" được đưa ra trong Đại từ điển
tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên là “hoạt động của con người về một
lĩnh vực nào đó nói chung” [80, tr.670]. Còn theo Từ điển bách khoa mở, thì
ngoài nghĩa nói trên, "đời sống" còn được hiểu là phương tiện để sống, lối
sống của cá nhân hay tập thể (đời sống xa hoa, đời sống cần kiệm…).
Đời sống của con người bao gồm rất nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng
có liên quan mật thiết với nhau, chẳng hạn như: đời sống kinh tế, đời sống
chính trị, đời sống xã hội, đời sống văn hóa… Như vậy, đời sống văn hóa là
lĩnh vực quan trọng của đời sống xã hội. Khẳng định vị trí của văn hóa trong
đời sống xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: trong công cuộc kiến thiết nước
nhà, bốn vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đều phải coi trọng ngang
nhau. Người còn chỉ rõ kinh tế là thuộc về cơ sở hạ tầng, là nền tảng của việc
xây dựng văn hóa, xây dựng kiến trúc thượng tầng. Từ đó, Người nêu ra luận
điểm phải xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng để có điều kiện xây dựng
và phát triển văn hóa. Người lý giải:
Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế và văn
hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có


14
câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước. Nhưng
phát triển để làm gì? Phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời
sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta [44, tr.59].
Từ những cách hiểu trên đây về đời sống văn hóa và các lĩnh vực văn
hóa, trong phạm vi đề tài nghiên cứu, trên cơ sở quan niệm của tác giả Hoàng
Vinh, luận văn bổ sung và đưa ra quan niệm như sau:
Đời sống văn hóa là bộ phận của đời sống xã hội, là phức thể những

hoạt động của con người trong sáng tạo, lưu giữ và hưởng thụ những giá trị
vật chất và tinh thần nhằm nâng cao chất lượng sống của con người và xã
hội. Đời sống văn hóa bao gồm các yếu tố văn hóa tĩnh tại (các sản phẩm văn
hóa vật thể, các thiết chế văn hóa) cũng như các yếu tố văn hóa động thái
(con người và các dạng hoạt động văn hóa của nó).
Văn hoá theo quan điểm biện chứng là kết quả của quá trình biến đổi bản
thân con người, với tư cách là sự hình thành lịch sử hiện thực của con người.
Văn hoá theo đó xuất hiện từ lao động, hiện ra như một nhiệm vụ thực tiễn biến
đổi các quan hệ qua lại giữa con người và thế giới. Văn hoá là một quá trình cải
biến con người thành chủ thể của sự vận động lịch sử, thành một cá nhân toàn
vẹn. Nguồn gốc của mọi hiện tượng, mọi quan hệ văn hoá đều gắn với các
hoạt động sống của con người.
Như thế, tiếp cận nghiên cứu văn hoá và đời sống văn hóa phải gắn văn
hoá với phương thức sản xuất xã hội, cá nhân với cộng đồng, truyền thống với
hiện đại, dân tộc với quốc tế, đặc biệt là coi trọng vai trò của lao động nhất là
lao động của lực lượng đông đảo nhất trong xã hội là nhân dân lao động. Trên
ý tưởng ấy văn hoá là một hiện tượng xã hội gắn liền với các hoạt động nhiều
mặt của con người. Văn hoá được biểu thị như phương thức hoạt động người
bao chứa toàn bộ các sản phẩm vật chất và tinh thần của con người cũng như
năng lực phát triển của chính bản thân con người. Người ta thường gọi đó là
thế giới của con người, do con người và vì con người.


15
Xét cho cùng, sáng tạo văn hóa là sáng tạo các giá trị tinh thần, dù các
sản phẩm văn hóa tồn tại cả dạng vật thể (vật thể chính là kết quả thăng hoa
cái tinh thần); khái niệm văn hóa cũng có thể hiểu theo nghĩa rộng và hẹp.
Chính vì thế quan niệm về văn hóa và đời sống văn hóa phải xuất phát từ mục
đích nghiên cứu và góc độ tiếp cận cụ thể.
Ví dụ, nội dung khảo sát đời sống văn hóa và xây dựng đời sống văn

hóa của khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, vùng chưa phát triển, sẽ khác với
khu vực, dân cư đô thị. Tức là phải giới hạn phạm vi khảo sát trên cơ sở một
quan niệm về văn hóa và đời sống văn hóa nhất định. Cấu trúc của đời sống
văn hóa là cơ sở quan trọng để xác định các phương diện đời sống văn hóa.
1.1.2. Cấu trúc của đời sống văn hóa
Quan niệm về cấu trúc của đời sống văn hóa có sự khác nhau, tùy theo
cách tiếp cận nhận thức về đời sống văn hóa
Theo tác giả Hoàng Vinh: “muốn cho các sản phẩm văn hóa nảy sinh
và được vận hành trong đời sống xã hội, thì phải có ba yếu tố: sản phẩm văn
hóa, thể chế văn hóa, các dạng hoạt động văn hóa và những con người văn
hóa. Ba yếu tố đó tạo thành cấu trúc của đời sống văn hóa” [79, tr.266].
Trong Giáo trình “Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng”, hệ
cử nhân chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, cấu
trúc của đời sống văn hóa được bao gồm: con người văn hóa, hoạt động văn
hóa và sản phẩm văn hóa [77, tr.374].
Giáo trình “Lý luận văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng”, tập thể
cán bộ khoa Văn hóa và phát triển Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I
quan niệm đời sống văn hóa bao gồm 4 yếu tố cấu thành: Những yếu tố văn
hóa vật thể và phi vật thể tồn tại ở mỗi cộng đồng như: các thiết chế văn hóa,
các tác phẩm, sản phẩm văn hóa, các phương tiện thông tin đại chúng và
truyền bá văn hóa, lễ hội, văn hóa - văn nghệ dân gian, các trường học, các
nhóm văn hóa…. Những yếu tố cảnh quan văn hóa (tự nhiên hoặc do con


16
người tạo ra) hiện diện ở mỗi cộng đồng như: di tích lịch sử văn hóa, danh
lam thắng cảnh, công viên, tượng đài…. Những yếu tố văn hóa cá nhân ở mỗi
cộng đồng như: trình độ học vấn, nhu cầu sở thích và thị hiếu văn hóa, định
hướng giá trị, phong cách sinh hoạt, cách sử dụng thời gian rỗi, văn hóa ứng
xử, giao tiếp, nếp sống văn hóa….Những yếu tố văn hóa của các “tế bào”

trong mỗi cộng đồng như: gia đình, nhà trường, cơ quan, công sở, tổ nhóm
lao động, học tập...[29, tr.268-269].
Dựa trên cơ sở khái niệm về đời sống văn hóa đã trình bày ở trên, cấu
trúc của đời sống văn hóa được giới hạn trong luận văn này, bao gồm 4 thành
tố cơ bản sau:
- Chủ thể hoạt động văn hóa;
- Hệ thống các giá trị văn hóa, biểu hiện ở các sản phẩm văn hóa vật thể
và phi vật thể;
- Các thiết chế và cảnh quan, môi trường văn hóa;
- Các hoạt động văn hóa.
Chủ thể hoạt động văn hóa
Chủ thể hoạt động văn hóa chính là con người (hay còn gọi là con
người văn hóa, xã hội). Con người chính là nhân tố quan trọng và quyết định
nhất cấu thành đời sống văn hóa. Văn hóa là sự thích ứng của con người với
môi trường tự nhiên và xã hội trong từng giai đoạn lịch sử.
Chủ thể của văn hóa tộc người không phải là một cá nhân đơn lẻ, mà là
một cộng đồng người nhất định có chung những đặc điểm: Nguồn gốc, phong
tục, tín ngưỡng, mối quan tâm...Đề cập đến chủ thể hoạt động văn hóa tộc
người, cần chú ý đến các đặc điểm của cộng đồng đó như: Phong tục, tập
quán, tín ngưỡng, quan niệm sống, hành vi ứng xử...
Hệ thống các giá trị văn hóa
Theo tác giả Nguyễn Như Ý, trong cuốn “Đại từ điển Tiếng Việt” định
nghĩa: “Giá trị - cái được xác định có ích, có hiệu quả trong cuộc sống vật


17
chất và tinh thần” [80, tr.725]. Theo định nghĩa này, khi nói đến giá trị văn
hóa là nói đến những giá trị kết tinh trong các sản phẩm văn hóa vật thể và phi
vật thể do con người sáng tạo ra trong quá trình hoạt động thực tiễn. Giá trị
văn hóa chính là hạt nhân của đời sống văn hóa; là nhân tố quan trọng tác

động, thúc đẩy sự phát triển cá nhân, cộng đồng và toàn xã hội.
Hệ thống các thiết chế và cảnh quan văn hóa
Hệ thống các thiết chế văn hóa là một trong những yếu tố quan trọng
góp phần thúc đẩy văn hóa phát triển; nó đóng vai trò là nơi lưu giữ và
chuyển tải các giá trị văn hóa của cộng đồng đến từng cá nhân. Đó là môi
trường để đảm bảo cho các hoạt động văn hóa diễn ra trong đời sống xã hội.
Vậy, thiết chế văn hóa là gì?
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam:
Thuật ngữ thiết chế văn hóa được sử dụng rộng rãi trong ngành văn
hóa Việt Nam từ những năm 70 thế kỷ XX. Thiết chế văn hóa là
chỉnh thể văn hóa hội tụ đầy đủ các yếu tố cơ sở vật chất, bộ máy tổ
chức, hệ thống biện pháp hoạt động và kinh phí hoạt động cho thiết chế
đó. Ví dụ, thiết chế nhà văn hóa bao gồm ngôi nhà, bộ máy tổ chức,
nhân sự, quy chế hoạt động, nguồn kinh phí; chỉ riêng ngôi nhà hoặc
công trình văn hóa chưa đủ để gọi là thiết chế văn hóa [67, tr.230].
Một thiết chế văn hóa được coi là hoàn chỉnh phải đảm bảo đủ 3 điều
kiện: có cơ sở vật chất (trụ sở, thiết bị...), bộ máy tổ chức (con người), hệ
thống biện pháp (thể chế, luật lệ...) và kinh phí để vận hành hệ thống. Một số
thiết chế văn hóa tiêu biểu như: nhà truyền thống, nhà văn hóa, CLB, thư
viện, bảo tàng, sân vận động, rạp hát, rạp chiếu phim, công viên văn hóa, các
cơ quan thông tin đại chúng…Đây là nơi các hoạt động văn hóa diễn ra một
cách tập trung, phản ánh những giá trị kết tinh đời sống văn hóa cộng đồng.
Bên cạnh các thiết chế văn hóa nêu trên, cảnh quan văn hóa còn là
những sản phẩm tồn tại trong quan hệ tương tác giữa con người và môi trường


18
tự nhiên, môi trường xã hội, bao gồm các thắng cảnh tự nhiên, các kiến trúc,
công trình xây dựng, đường phố, tượng đài… Cảnh quan văn hóa là môi
trường vật chất - văn hóa mà trong đó con người sinh sống. Nó phản ánh trực

tiếp thực trạng của đời sống văn hóa.
Các hoạt động văn hóa
Các hoạt động văn hoá là tổng hợp nhiều hình thức sáng tạo, hưởng
thụ, lưu giữ, bảo vệ, phát huy các giá trị văn hóa. Hoạt động văn hóa là hoạt
động đáp ứng trực tiếp nhu cầu văn hóa của nhân dân. Có thể khái quát một
số dạng hoạt động văn hóa phổ biến như sau:
- Hoạt động thông tin tuyên truyền, cổ động: phổ biến rộng rãi trong
công chúng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như các
nhiệm vụ chính trị, các qui định của địa phương....
- Hoạt động sáng tác văn chương, nghệ thuật.
- Hoạt động biểu diễn trên sân khấu và trong điện ảnh.
- Hoạt động khai trí - giáo dục trình độ, tri thức cho mọi người: dạy
học, diễn giảng, tọa đàm, thư viện, thông tin.
- Hoạt động quảng bá các giá trị văn hóa: báo chí, xuất bản, truyền thông…
- Hoạt động lưu giữ sản phẩm văn hóa: bảo tàng, lưu trữ, triển lãm…
- Hoạt động tiêu dùng các sản phẩm văn hóa: đọc sách, báo, nghe nhạc,
xem nghệ thuật, phim ảnh, triển lãm…
- Hoạt động lễ hội, tín ngưỡng.
- Hoạt động xây dựng phong tục, nếp sống văn hóa.
- Hoạt động thể dục thể thao, vui chơi giải trí.
Quan niệm về đời sống văn hóa và cấu trúc của đời sống văn hóa trên
đây là cơ sở giúp chúng ta xem xét đời sống văn hóa của một cộng đồng.
Từ quan điểm trên đây, luận văn đã khảo sát thực trạng đời sống văn hóa
dân tộc La Chí ở huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang trên các phương diện:
- Chủ thể đời sống văn hóa


19
- Đời sống văn hóa trong hoạt động kinh tế và sinh hoạt
- Đời sống văn hóa trong quan hệ xã hội

- Đời sống văn hóa trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo và nghệ thuật
dân gian
- Đời sống văn hóa trong một số hoạt động khác
1.2. ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÒ CỦA PHÁT TRIỂN ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CÁC
DÂN TỘC THIỂU SỐ MIỀN NÚI

1.2.1. Đặc điểm đời sống văn hóa vùng các dân tộc thiểu số miền núi
Việt Nam là một quốc gia đa thành phần dân tộc. Trong 54 dân tộc, có
tới 53 dân tộc thiểu số. Các dân tộc thiểu số có số dân trên 11 triệu người,
chiếm 13% dân số cả nước. Các dân tộc sống đoàn kết, thân ái, tương trợ lẫn
nhau, tạo nên sức mạnh đại đoàn kết và bản sắc đa dạng, phong phú về văn
hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Các thành phần dân tộc thiểu số cư trú phân tán, ở tất cả các tỉnh, thành
phố trong cả nước; cư trú xen kẽ. Trong một đơn vị hành chính, có nhiều
thành phần dân tộc cùng sinh sống. Địa bàn có đông dân tộc thiểu số cư trú là
vùng miền núi, biên giới, với diện tích tự nhiên chiếm 2/3 diện tích cả nước;
đây là vùng có vị trí địa lý, kinh tế và quốc phòng an ninh quan trọng.
Các dân tộc thiểu số có trình độ dân trí, trình độ phát triển kinh tế - xã
hội không đều nhau. Các dân tộc thiểu số ở vùng đồng bằng Nam bộ với địa
hình đất đai khá màu mỡ, khí hậu, thời tiết ổn định, canh tác thuận lợi, đời
sống kinh tế xã hội phát triển, ổn định hơn các vùng khác. Vùng Tây bắc,
Đông Bắc (Việt Bắc), miền Trung, với địa hình chia cắt, phức tạp, đất đai khô
cằn, nhiều đồi dốc, núi đá, khí hậu khắc nghiệt, thường xuyên xảy ra thiên tai,
canh tác rất khó khăn, đời sống các dân tộc thiểu số khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo
cao, kinh tế chậm phát triển. Các dân tộc thiểu số có những sinh hoạt, di sản văn
hoá đa dạng, bản sắc riêng do lịch sử di cư, sự phân bố, địa bàn cư trú, điều kiện
kinh tế xã hội, phong tục tập quán... của các tộc người.


20

Do khó khăn về địa hình, giao thông, đời sống kinh tế, khả năng hạn
chế của đồng bào nên đời sống văn hóa các dân tộc thiểu số miền núi thường
thấp hơn so với các địa phương vùng đồng bằng và sự chênh lệch này đang có
xu hướng ngày càng gia tăng. Ngoài nguồn kinh phí, phải nói đến việc ban
hành chính sách, đặc biệt là chính sách về văn hóa còn thiếu thực tế. Việc đầu
tư không phù hợp thực tế và khập khiễng đã làm cho đời sống văn hóa vùng
cao vẫn nghèo nàn. Bên cạnh đó, chưa có chính sách công nhận và tôn vinh
một cách xứng đáng các nghệ nhân dân tộc để động viên và nhất là hỗ trợ về
vật chất, tạo cơ sở, điều kiện giữ gìn, trao truyền cho các thế hệ sau những tri
thức, di sản văn hóa của cộng đồng, của dân tộc.
Thực trạng phát triển văn hoá - xã hội ở vùng đồng bào thiểu số miền
núi có sự chênh lệch nhiều so với các vùng miền trên cả nước. Sự nghiệp giáo
dục, văn hoá, xã hội ở miền núi, vùng các dân tộc thiểu số mấy năm gần đây
gặp rất nhiều khó khăn. Nạn mù chữ và tái mù chữ ngày càng nhiều, số trẻ em
bỏ học ngày càng tăng (có nơi tới 30 - 40%). Một phần do tổ chức hệ thống
trường lớp ở miền núi chưa hợp lý, một phần do đi học phải nộp học phí...
Một số dân tộc ở vùng cao, hẻo lánh và có số dân ít, có tới hơn nửa số dân
còn mù chữ (đặc biệt người Dao, Mông, Hà Nhì, Gié Triêng, Cà Tu v.v...).
Tình hình văn hoá, thông tin ở miền núi cũng sa sút mạnh. Nhiều thôn, xã ở nơi
xa xôi, hẻo lánh không có điều kiện xem phim, văn nghệ, đọc sách báo... Một số
vấn đề đáng chú ý nữa là một số người đã lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng
và chính sách tôn giáo, đã và đang đẩy mạnh việc tuyên truyền, mê hoặc quần
chúng, gây chia rẽ các dân tộc, quấy rối trật tự an ninh địa phương.
1.2.2. Vai trò của phát triển đời sống văn hóa
Văn hóa có vai trò quyết định đối với sự phát triển hay suy vong của
một dân tộc, quốc gia hay cả nhân loại. Nhận thức được vai trò quan trọng của
văn hóa, Đảng ta từ ngày thành lập đến nay, đã không ngừng tư duy và tìm tòi
sáng tạo và ngày càng hoàn thiện lý luận về văn hóa. Đến nay Đảng ta khẳng



21
định “Văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội, vừa là động lực vừa là mục tiêu
thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội” [17, tr.55]. Trong cương lĩnh bổ sung,
phát triển năm 2011, Đảng ta tiếp tục khẳng định: Văn hóa trở thành sức
mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Như vậy, có thể nói văn hóa biểu
hiện sức sống, sức sáng tạo, sức mạnh tiềm tàng và vị thế, tầm vóc dân tộc.
Trong 4 giải pháp lớn nhằm đưa nghị quyết Trung ương 5 (Khoá VIII)
về văn hoá vào cuộc sống thì cuộc vận động: “Toàn dân đoàn kết xây dựng
đời sống văn hoá” là giải pháp được xếp ở vị trí hàng đầu có ý nghĩa quyết
định. Phong trào được các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể từ
Trung ương đến các địa phương, cơ sở quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, hướng
dẫn và tạo điều kiện. Đặc biệt, được cán bộ và các tầng lớp nhân dân trong cả
nước tham gia hưởng ứng đông đảo, nên đã đạt được những thành tựu quan
trọng. Phong trào đã làm thay đổi diện mạo và nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân ở cơ sở, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ
chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội của các địa phương và cả nước trong giai
đoạn năm 2000 đến nay.
Như vậy, có thể khẳng định xây dựng đời sống văn hóa đã tác động
mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của các dân tộc thiểu số ở
nước ta nói chung và dân tộc La Chí ở Xín Mần, tỉnh Hà Giang nói riêng.
Tầm quan trọng đó được thể hiện cụ thể:
Xây dựng đời sống văn hóa - sức mạnh nội sinh quan trọng của sự phát
triển. Văn hóa được coi là một “nguồn lực mềm” làm động lực, đòn bẩy thúc đẩy
kinh tế phát triển, làm “hài hòa hóa” các mối quan hệ xã hội và “lành mạnh hóa”
môi trường xã hội. Thực tế đã chứng minh, một quốc gia muốn phát triển bền
vững, ngoài dựa vào các “yếu tố cứng” như tài nguyên thiên nhiên, tiền vốn, cơ sở
vật chất…thì cần phải biết tận dụng, khai thác “yếu tố mềm”, đó chính là nguồn
nhân lực con người với vai trò là nhân cách văn hóa năng động, sáng tạo nhất,
đóng góp quyết định nhất đến sự hùng mạnh, phồn vinh của xã hội.



×