Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

bài tập học kỳ luật hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.95 KB, 7 trang )

A.ĐỀ BÀI
A vào cửa hàng quần áo của chị B. Sau khi chọn và thử một chiếc quần jean
nhưng không vừa, A đề nghị chị B lấy chiếc quần cỡ to hơn. Trong khi chị B đang
lấy quần, thấy trên võng nơi chị B vừa nằm có một chiếc ví, A lại gần và lén bỏ
chiếc ví đó vào trong túi xách của mình rồi bỏ đi. Sau đó A bị phát hiện và bị bắt
giữ. Trong chiếc ví của chị B có 15 triệu đồng.
Câu hỏi:
1. Hãy định tội danh và định khung hình phạt cho A. (2 điểm)
2. Giả sử sau khi A bỏ ví vào túi xách của mình, chưa kịp ra khỏi cửa hàng
của chị B thì bị phát hiện. Hãy xác định giai đoạn thực hiện tội phạm của A? (2
điểm)
3. Giả sử khi A đang cầm lấy chiếc ví thì chị B bất thình lình quay ra nhìn
thấy nói to: “Này, cô định làm gì đấy”, A nhanh chóng cầm chiếc ví và bỏ chạy thì
tội danh của A có thay đổi không? Vì sao? (3 điểm)

1


B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Trong tình huống này, để không gây phức tạp, A được mặc định là đủ 16
tuổi trở lên và khi thực hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc một
bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của
mình.
1. Hãy định tội danh và định khung hình phạt cho A.
A phạm tội trộm cắp tài sản được qui định tại Điều 138 BLHS.
Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút, bí mật trốn tránh sự phát hiện của người
quản lý tài sản để chiếm đoạt tài sản.
Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là chủ thể bình thường nên chỉ đòi hỏi có
năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Vì vậy, A thỏa mãn điều kiện về chủ thể.
Về mặt khách quan, dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản là dấu hiệu hành vi
chiếm đoạt tài sản cùng với hai dấu hiệu khác thể hiện tính chất của hành vi chiếm


đoạt và tính chất của đối tượng bị chiếm đoạt – Dấu hiệu lén lút và dấu hiệu tài sản
đang có chủ.
A thấy trên võng nơi chị B vừa nằm có một chiếc ví, A lại gần và “lén” bỏ
chiếc ví đó vào trong túi xách của mình. Hành vi đó cho thấy hành vi chiếm đoạt
của A là lén lút và ý thức chủ quan của người thực hiện là A cũng là lén lút.
Có thể thấy rằng chiếc ví ở trên chiếc võng mà chị B nằm nên chiếc ví đang
nằm trong sự chiếm hữu của chị B. Như vậy, chiếc ví – tài sản đang có chủ tài sản.
Về mặt chủ quan, lỗi của người phạm tội trộm cắp tài sản là lỗi cố ý. Mục
đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Người phạm tội
khi thực hiện hành vi phạm tội cũng biết tài sản chiếm đoạt có đặc điểm đang có
chủ. A dựa vào vị trí và cách để của chiếc ví hoàn toàn có thể biết chiếc ví đang có
chủ nhưng A vẫn thực hiện hành vi đó.

2


Chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản khi tài sản bị chiếm
đoạt có giá trị từ hai triệu đồng trở lên. Trường hợp giá trị tài sản bị chiếm đoạt
dưới 2 triệu đồng thì phải thỏa mãn một trong các yếu tố sau: Gây hậu quả nghiêm
trọng; Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt; Đã bị kết án về tội chiếm
đoạt chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Do trong chiếc ví có 15 triệu đồng
(lớn hơn 2 triệu đồng) nên A sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì tội này.
Xét thấy hành vi phạm tội của A không có tình tiết tăng nặng. Hành vi của A
thuộc CTTP cơ bản. Do vây, A phạm tội thuộc khoản 1 Điều 138 với khung hình
phạt là phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.
Có thể thấy, nếu trong tình huống trên A từ đủ 14 tuỏi đến dưới 16 tuổi thì
sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự vì theo qui định tài Điều 12 BLHS thì
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm
rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng trong khi đó khoản 1
Điều 136 chỉ là tội phạm nghiêm trọng (vì có mức cao nhất của khung hình phạt là

năm năm tù).
2. Giả sử sau khi A bỏ ví vào túi xách của mình, chưa kịp ra khỏi cửa
hàng của chị B thì bị phát hiện. Hãy xác định giai đoạn thực hiện tội phạm của
A?
Dấu hiệu chiếm đoạt trong CTTP tội trộm cắp tài sản được thực tiễn xét xử
hiểu là chiếm đoạt được. Với cách hiểu như vậy, tội trộm cắp tài sản chỉ coi là
hoàn thành khi người phạm tội chiếm đoạt được tài sản. Để đánh giá người phạm
tội đã chiếm đoạt được hay chưa, đã làm chủ được tài sản chưa phải giữa vào đặc
điểm, vị trí tài sản bị chiếm đoạt. Thực tiễn xét xử đã chấp nhận hướng giải quyết
cụ thể về những trường hợp chiếm đoạt được ở tội trộm cắp tài sản như sau:
- Nếu vật chiếm đoạt nhỏ gọn thì coi là đã chiếm đoạt được khi người phạm
tội đã giấu được tài sản trong người.

3


- Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói trên thì coi chiếm đoạt được khi
đã mang được tài sản ra khỏi khu vực bảo quản.
- Nếu vật chiếm đoạt là tài sản để ở nơi không hình thành khu vực bảo quản
riêng thì coi đã chiếm đoạt được khi đã dịch chuyển tài sản khỏi vị trí ban đầu.
Trong trường hợp này, nơi để chiếc ví của chị B là trên cái võng. Như vậy,
chiếc ví thuộc trường hợp vật chiếm đoạt là tài sản ở nơi không hình thành khu vực
bảo quản riêng. Mà A đã lấy chiếc ví bỏ vào túi xách của mình tức là đã dịch
chuyển tài sản khỏi vị trí ban đầu nên A được coi là đã chiếm đoạt được tài sản.
Kết luận, giai đoạn thực hiện tội phạm của A thuộc trường hợp tội phạm hoàn
thành.
3. Giả sử khi A đang cầm lấy chiếc ví thì chị B bất thình lình quay ra nhìn
thấy nói to: “Này, cô định làm gì đấy”, A nhanh chóng cầm chiếc ví và bỏ chạy
thì tội danh của A có thay đổi không? Vì sao?
Hành vi A lại gần cái võng rồi cầm chiếc ví chưa thể hiện dấu hiệu lén lút

của tội trộm cắp tài sản.
Do vậy, tội danh của A có thay đổi. A phạm tội cướp giật tài sản được qui
định tại Điều 136 BLHS.
Chủ thể của tội trộm cắp tài sản là chủ thể bình thường nên chỉ đòi hỏi có
năng lực TNHS và đạt độ tuổi luật định. Vì vậy, A thỏa mãn điều kiện về chủ thể.
Về mặt khách quan, hành vi của tội cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt.
Hành vi chiếm đoạt ở tội này có hai dấu hiệu đặc trưng là dấu hiệu công khai và
dấu hiệu nhanh chóng.
Dấu hiệu công khai vừa chỉ tính chất khách quan của hành vi chiếm đoạt vừa
thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội. Sau khi bị chị B phát hiện, A A biết
hành vi chiếm đoạt của mình là đã là công khai.
Dấu hiệu nhanh chóng phản ánh thủ đoạn thực hiện hành vi chiếm đoạt của
người cướp giật tài sản. Sau khi bị chị B phát hiện A nhanh chóng cầm chiếc ví và
4


bỏ chạy. Với thủ đoạn nhanh chóng như vậy A mong muốn chị B không kịp có
điều kiện phản ứng ngăn cản việc chiếm đoạt.
Về mặt chủ quan, lỗi người phạm tội cướp giật tài sản là lỗi cố ý. Mục đích
của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt tài sản. Mặc dù đã bị chị B phát hiện
nhưng A vẫn cố tình lấy chiếc ví rồi bỏ chạy, từ đó thể hiện mục đích của A là
mong muốn chiếm đoạt tài sản. A nhận thức được hành vi của mình xâm phạm đến
tài sản của người khác nhưng vẫn thực hiện.

5


C. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hình sự Việt Nam (tập I và tập
II), Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.

2. Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình luật hình sự (phần các tội
phạm), Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, 2007.
3. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.
4. Nguyễn Ngọc Hòa, Mô hình luật hình sự Việt Nam, Nxb. CAND, Hà Nội,
2009.
5. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam (bình luận
chuyên sâu), Tập 1 – 10, Nxb. TP. Hồ Chí Minh.
6. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 (sửa đổi năm 2009).

6


MỤC LỤC
A. ĐỀ BÀI…………………………………………………………………….1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ…………………………………………………...2
1. Hãy định tội danh và định khung hình phạt cho A………..…………..…2
2. Giả sử sau khi A bỏ ví vào túi xách của mình, chưa kịp ra khỏi cửa hàng
của chị B thì bị phát hiện. Hãy xác định giai đoạn thực hiện tội phạm của A?
……………………………………………………………….………………….3
3. Giả sử khi A đang cầm lấy chiếc ví thì chị B bất thình lình quay ra nhìn thấy
nói to: “Này, cô định làm gì đấy”, A nhanh chóng cầm chiếc ví và bỏ chạy thì tội
danh của A có thay đổi không? Vì sao?.............................................................4
C. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………….6

7



×