Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Tiểu luận phương pháp thống kê tổng sản phẩm trong nước (GDP xanh) ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 139 trang )

1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Tăng trưởng kinh tế bền vững là sự kết hợp giữa Tăng trưởng kinh tế, phát triển
xã hội với bảo vệ môi trường và trở thành xu thế phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên
thế giới. Những nghiên cứu gần đây cho thấy tăng trưởng kinh tế bền vững có liên
quan đến bảo vệ môi trường và sử dụng tài nguyên. Yếu tố sử dụng tài nguyên và bảo
vệ môi trường chính là một trong những tiêu chí đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh
tế bền vững.
Hiện nay các quốc gia đang tìm mọi cách phát triển nhanh nền kinh tế để tạo ra
đời sống xã hội không ngừng nâng lên, thì bên cạnh sự phát triển nhanh chóng, một số
nước đã phải gánh hậu quả xấu về môi trường thiên nhiên, sức khỏe và bệnh tật do
phát triển sản xuất bằng mọi giá gây ra. Bởi vậy các nhà kinh tế học đã không dừng lại
ở việc đánh giá tăng trưởng kinh tế bằng chỉ tiêu Tổng sản phẩm trong nước (GDP),
mà còn đánh giá bằng chỉ tiêu chất lượng phản ánh tính bền vững của sự phát triển
kinh tế, đó là sự gắn kết giữa yếu tố: Kinh tế, xã hội và môi trường, đây là ba trụ cột
chính của mỗi quốc gia.
Theo các nhà kinh tế môi trường và nhiều tổ chức quốc tế, như: Salah Serafy và
Ernst Lutz, 1989; Cooray N.S, 2001; Bartelmus P. và Tongeren J., 1994; IUCN, 1989;
UNEP, 2000, Hệ thống Tài khoản quốc gia (SNA), với hệ thống các chỉ tiêu kinh tế
tổng hợp như GDP, GNI; v.v... và các tài khoản, các bảng cân đối đang được sử dụng
rộng rãi ở các nước trên thế giới chưa phản ánh đầy đủ, những chi phí xã hội của các
hoạt động kinh tế. Cụ thể SNA chưa thể hiện đầy đủ những chi phí liên quan tới bảo vệ
môi trường cũng như chưa phản ánh hết được sự xuống cấp, suy thoái nguồn tài
nguyên thiên nhiên do các hoạt động kinh tế, sinh hoạt của con người gây ra. Môi
trường cung cấp cho con người nhiều loại sản phẩm, trong đó có nhiều loại sản phẩm
tuy có giá trị nhưng không được trao đổi, mua bán trên thị trường nên giá trị của chúng
không được biểu thị trong giá cả sản phẩm được đem bán trên thị trường, như một số
cơ sở sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam sử dụng nguồn nước ngầm trong quá trình sản
xuất không phải trả chi phí về sử dụng nước như các nguồn nguyên liệu đầu vào khác,


nên giá của sản phẩm không bao gồm chi phí để sử dụng nguồn nước ngầm hoặc nếu
có thì chi phí rất ít. Môi trường cũng cung cấp nhiều loại dịch vụ cho đời sống của con
người, nhưng loại dịch vụ này không được tính vào SNA; SNA truyền thống thường
tính phần khấu hao tài sản cố định vào tài khoản khấu hao, trong đó phần dự trữ tài


2
nguyên bị mất đi do khai thác và sử dụng trong quá trình sản xuất lại được tính vào tài
khoản thu nhập.
Do những nhược điểm của SNA truyền thống, nhiều nước trên thế giới thống
nhất quan điểm cần nghiên cứu để hoàn thiện thêm hệ thống hạch toán quốc gia hiện
hành theo hướng đưa thêm tài khoản môi trường vào SNA truyền thống. Theo đó
phương pháp hạch toán kinh tế gắn với môi trường đã xuất hiện, bổ sung việc tính
toán các chỉ tiêu kinh tế thuần tuý, đặc biệt là chỉ tiêu GDP hiện nay đang được sử
dụng. Do đó, chỉ tiêu GDP xanh được nhiều nước trên thế giới quan tâm nghiên cứu
tính toán.
Theo đó ý tưởng “tăng trưởng bền vững” đã xuất hiện. Mục tiêu của tăng
trưởng bền vững là “đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến các
nhu cầu và sự phát triển của thế hệ tương lai.
Do vậy chỉ tiêu GDP xanh được sử dụng như một chỉ tiêu để đánh giá sự phát
triển bền vững, do đã tính tương đối đầy đủ các chi phí liên quan đến môi trường; sử
dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên và vốn môi trường, như năm 2015 tính theo giá so
sánh năm 2010 chỉ tiêu GDP bình quân đầu người đạt 31,29 triệu đồng/người và chỉ
tiêu GDP xanh tính thử nghiệm đạt 24,50 triệu đồng/người bằng 78,30% GDP bình
quân đầu người.
Từ phân tích trên, nghiên cứu phương pháp thống kê tổng sản phẩm trong nước
xanh (GDP xanh) ở Việt Nam là cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn bởi lý do:
Thứ nhất, Nghiên cứu phương pháp thống kê GDP xanh ở Việt Nam làm cơ sở
khoa học để: (i) Biên soạn và đưa vào áp dụng chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam; (ii) Góp
phần cung cấp phương pháp thống kê về phân tích chất lượng tăng trưởng và đánh giá

phát triển bền vững ở Việt Nam.
Thứ hai, Chỉ tiêu GDP xanh thuộc Hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và là
một trong các chỉ tiêu giám sát, đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn
2011-2020 [19] và chỉ tiêu ban hành kèm theo Luật Thống kê số 89/2015/QH13 [12],
đồng thời cũng là chỉ tiêu thống kê được một số nước đưa vào chương trình đánh giá
phát triển bền vững giai đoạn 2016 - 2020, nhưng đến nay vẫn chưa tính toán và công
bố trên Niên giám thống kê hàng năm của Tổng cục Thống kê;
Thứ ba, Nghiên cứu phương pháp thống kê GDP xanh, nội dung nghiên cứu
chính là xét đến nội hàm chỉ tiêu GDP xanh sau khi điều chỉnh chỉ tiêu GDP thuần có
tính đến tác động của một số nhân tố chính như: (i) Ô nhiễm môi trường; (ii) Khai thác
cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên; (iii) Chi phí bảo vệ môi trường v,v... Kết quả


3
nghiên cứu phương pháp thống kê GDP xanh nói chung và tính thử nghiệm chỉ tiêu
GDP xanh nói riêng là cơ sở khoa học để hoàn thiện phương pháp luận thống kê SNA
nói chung và thống kê GDP xanh nói riêng ở Việt Nam.
2. Tổng quan nghiên cứu
Hầu hết các nước trên thế giới đều tiếp cận chỉ tiêu GDP xanh thông qua Hệ
thống tài khoản kinh tế và môi trường (SEEA), do Liên hợp quốc thiết lập để tính chỉ
tiêu GDP xanh. Tuy nhiên mỗi quốc gia sẽ áp dụng các mô đun khác nhau của SNA để
tạo ra và duy trì nguồn dữ liệu môi trường có liên quan đến các hoạt động kinh tế cho
các quốc gia, mỗi quốc gia sẽ áp dụng các phần khác nhau của SEEA để đánh giá nhu
cầu thông tin dữ liệu của quốc gia, nhằm quản lý tài nguyên thiên nhiên, các nguyên
vật liệu đầu vào trong sản xuất, phát thải, chi phí bảo vệ môi trường, để từ đó áp dụng
mô đun phù hợp, phục vụ tính chỉ tiêu GDP xanh.
Tình hình nghiên cứu và áp dụng chỉ tiêu GDP xanh ở nước ngoài và trong
nước được đề cập như sau:
2.1. Tình hình nghiên cứu chỉ tiêu GDP xanh ở nước ngoài
- Liên hợp quốc, năm 1993 xuất bản Sổ tay “Integrated Enviromental and

Economic Acocounting. Handbook of National Accounting”. Nội dung cuốn sổ tay
liên quan đến nội dung chỉ tiêu GDP xanh là: Chi phí thực tế môi trường [5, tr.52-53;
tr. 91-96]; Mở rộng ma trận SEEA (version iv) tính chỉ tiêu GDP xanh [5, tr. 96-99];
- Liên hợp quốc, năm 1999 xuất bản Sổ tay “Handbook of Output - Input table
Compilation and Analysis”, tại Chương XIII, [6, tr.256-260], giới thiệu cách tiếp cận
phân tích tính chỉ tiêu GDP xanh, trong đó đề cập đến:
(i) Cấu trúc Bảng I - O, liên quan tính chỉ tiêu GDP xanh;
(ii) Tính chỉ tiêu GDP xanh dựa trên Bảng I - O đơn giản;
(iii) Tính chỉ tiêu GDP xanh dựa trên cơ sở các quan hệ Bảng I - O;
(iv) Sự phù hợp của Bảng I - O đối với nghiên cứu kinh tế thông qua ảnh hưởng
các chính sách giảm bớt các vấn đề ô nhiễm môi trường.
Tầm quan trọng của Hệ thống tài khoản kinh tế môi trường là tạo ra các tài
khoản đầy đủ, sắp xếp theo trình tự logich để tính chỉ tiêu GDP xanh và nhiều quốc gia
đã bắt đầu nghiên cứu thực hiện chỉ tiêu GDP xanh.
- William Nordhaus và Edward Kokkelenberg, năm 1999 xuất bản báo cáo “Mở
rộng tài khoản kinh tế quốc gia” bao gồm cả yếu tố môi trường, đề cập đến thu nhập


4
quốc gia và tài khoản sản xuất (NIPA), yếu tố về nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi
trường [31]. Phát hiện chính của báo cáo này là cần thiết phải có yếu tố màu xanh vào
tài khoản, trong trường hợp khi sử dụng vốn tài nguyên thiên nhiên (tài nguyên thiên
nhiên được phát hiện hoặc mới bổ sung) và được sử dụng chung trong các hoạt động
kinh tế - xã hội.
- Takahiro Akita and Noichi Nakamura, năm 2000 xuất bản cuốn Sách “Green
GDP Estimates in China, Indonesia and Japan: An Application of the UN
Environmental and Economic Accounting System” [14], nội dung cuốn sách giới thiệu
phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh của Trung Quốc; Nhật bản và Indonesia, theo đó
phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh của Trung Quốc và Nhật Bản được tính trên cơ
sở: GDP truyền thống (-) trừ Khấu hao tài sản cố định (-) trừ Chi phí về môi trường

được quy đổi, tuy nhiên nội hàm “Chi phí về môi trường được quy đổi” của Trung
Quốc bổ sung thêm yếu tố “Tài sản tự nhiên phi kinh tế”. Trung Quốc ước tính chi phí
khắc phục suy thoái môi trường và giá trị cạn kiệt tài nguyên ở thập kỷ qua, giao động
từ 8% đến 12 % gần bằng tăng trưởng kinh tế (GDP) [10]. Những ước tính này cho
thấy tăng trưởng kinh tế ở thập kỷ qua gần như bằng không.
Philippines đề cập các yếu tố chính tác động đến tính chỉ tiêu GDP xanh là:
(1) Sự cạn kiệt các loại tài nguyên như: Rừng; Khoáng sản kim loại (Vàng,
đồng; khoáng sản than); Thủy sản biển, thủy sản nước ngọt;
(2) Chi tiêu bảo vệ môi trường của Chính phủ và của khu vực tư nhân và
phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh, xuất phát từ chỉ tiêu GDP truyền thống, (-) trừ
Khấu hao tài sản cố định, (-) trừ Chi phí về môi trường sau điều chỉnh.
- Bộ trưởng Bộ Môi trường Ấn Độ, năm 2009 tuyên bố: Chỉ tiêu GDP xanh của
Ấn Độ năm 2015 thực hiện, trên cơ sở GDP sẽ được điều chỉnh với chi phí khắc phục
suy thoái môi trường [10].
- Liên Hợp quốc năm 2014 xuất bản cuốn Sách “System of Envirenmental economic accounting 2012 central framework ” [28], nội dung SEEA được bổ sung và
hoàn thiện trên cơ sở cập nhật SNA năm 2008 của Liên Hợp quốc, một trong những nội
dung liên quan chỉ tiêu GDP xanh đó là:
(i) Chi tiêu quốc gia cho bảo vệ môi trường, nguồn chi từ Chính phủ; Doanh
nghiệp; Đặc biệt hoạt động sản xuất từ hộ gia đình (Xuất phát từ tổng cung và tổng cầu
dịch vụ bảo vệ môi trường), v.v...;
(ii) Tài khoản ô nhiễm (Nước; Không khí);


5
(iii) Tài khoản sử dụng: Năng lượng, tài nguyên thiên nhiên cho các ngành như:
Nông lâm nghiệp và thủy sản; Công nghiệp khai thác, v.v…
2.2. Tình hình nghiên cứu chỉ tiêu GDP xanh trong nước
- Một số kết quả đề tài khoa học đã nghiên cứu:
(1) Đinh Thị Thúy Phương, Viện Khoa học Thống kê, năm 2006 “Nghiên cứu
khả năng tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam” [7], kết quả nghiên cứu đạt được:

- Cơ sở lý luận chung về phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh của Liên hợp
quốc; Kinh nghiệm tính chỉ tiêu GDP xanh ở một số nước;
- Thực trạng số liệu Thống kê Việt Nam trước năm 2006; Những yêu cầu, điều
kiện và khả năng đảm bảo tính khả thi tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam;
- Đề xuất phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam và khái quát xác
định nguồn thông tin và tổ chức thu thập thông tin phục vụ tính chỉ tiêu: Tiêu dùng tài
nguyên và mức độ mất mát, thiệt hại về môi trường do hoạt động kinh tế gây ra;
- Tính thử nghiệm chỉ tiêu Giá trị tăng thêm xanh trong ngành Công nghiệp ở
Việt Nam, năm 2005.
(2) Đoàn Hải Yến, Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội quốc gia,
năm 2009, thực hiện “Phân tích chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam qua khảo
sát, đánh giá chỉ tiêu GDP xanh” [9], nội dung chính nghiên cứu đạt được:
- Lý luận chung về chất lượng tăng trưởng và chỉ số GDP xanh; Kinh nghiệm
quốc tế trong việc tính chỉ tiêu GDP xanh để đánh giá chất lượng tăng trưởng;
- Đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thông qua chỉ số GDP
xanh, đề cập đến: Nhận thức về ý nghĩa của chỉ số GDP xanh ở Việt Nam; Phương
pháp tính GDP xanh áp dụng cho trường hợp ở Việt Nam; Một số bất cập trong quá
trình thực hiện tính GDP xanh ở Việt Nam;
- Kiến nghị một số biện pháp cải thiện chất lượng tăng trưởng kinh tế thông qua
cải thiện chỉ số GDP xanh.
Hạn chế đề tài số (1) và (2): Chưa xây dựng hệ thống chỉ tiêu và xác định
chi tiết nguồn thông tin, tổ chức thu thập thông tin phục vụ tính: Tiêu dùng tài
nguyên và mức độ mất mát, thiệt hại về môi trường do các hoạt động kinh tế ở Việt
Nam gây ra.
(3) Nguyễn Lệ Thủy, Vụ Khoa học Giáo dục Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, năm 2014 thực hiện “Nghiên cứu đề xuất phương pháp tính chỉ tiêu


6
tổng sản phẩm trong nước xanh - GDP xanh trong bộ chỉ tiêu giám sát, đánh giá phát

triển bền vững ở Việt Nam” [11], nội dung chính đạt được:
- Cơ sở lý luận, kinh nghiệm quốc tế về phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh;
- Đánh giá thực trạng số liệu và đề xuất khung phương pháp tính toán một số tài
khoản xanh phù hợp với Việt Nam, gồm tài khoản tài nguyên: Đất, rừng và chi tiêu
công cho bảo vệ môi trường;
- Tính thử nghiệm tài khoản chi tiêu công cho bảo vệ môi trường ở Việt Nam,
để tính thử nghiệm chỉ tiêu GDP xanh.
Điểm hạn chế của nghiên cứu này: (i) Chưa đề xuất nguồn thông tin thu thập,
để tính một số tài khoản xanh ở Việt Nam (về hiện vật và giá trị); (ii) Tính thử
nghiệm chỉ tiêu GDP xanh của Việt Nam theo Thông tư số 02/2011/TT-BKHĐT,
nhưng mới có thông tin về tài khoản Chi tiêu công cho công tác bảo vệ môi trường.
Với cách tính như vậy, số liệu GDP xanh chưa đảm bảo tính khoa học và độ tin
cậy, vì còn thiếu yếu tố: (1) Chi phí sử dụng đất; (2) Giá trị sản xuất của các ngành
khai thác. Mặt khác số liệu chỉ tiêu GDP xanh tính thử nghiệm năm 2007, không sử
dụng số liệu GDP năm 2007 (đã công bố trên Niên giám thống kê), đề tài thực hiện
tính chỉ tiêu GDP năm 2007 từ Bảng I - O năm 2007 (đề tài chưa đưa ra lý do giải
thích, nên chưa thuyết phục).
- Một số tài liệu, ấn phẩm và báo cáo
Một số tài liệu, ấn phẩm và báo cáo đề cập đến (i) Khái niệm về GDP xanh; (ii)
Chỉ số GDP xanh: Đánh giá chi phí các thiệt hại môi trường và tiêu thụ các nguồn tài
nguyên thiên nhiên ở các nước phát triển và đang phát triển; (iii) GDP xanh trong điều
kiện Việt Nam [24].
(1) Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm
2012, biên soạn tài liệu và tổ chức tập huấn “Hạch toán quốc gia xanh: Xây dựng các
tài khoản kinh tế môi trường ở cấp quốc tế”, một trong những nội dung tập huấn giới
thiệu “Kinh nghiệm quốc tế về hạch toán môi trường và ước lượng chỉ tiêu GDP xanh”
[30], trong đó tài liệu đề cập đến:
- Kinh nghiệm của các nước đã phát triển;
- Kinh nghiệm của các nước đang phát triển;
- Các nhận xét và bài học chính rút ra.



7
(2) Viện Nghiên cứu quản lý Kinh tế Trung ương, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, năm
2013, biên soạn báo cáo “Chỉ số GDP xanh, nghiên cứu phát triển Khung Phương
pháp” [29] đề cập đến:
- Khung phương pháp tính tài khoản xanh ở Việt Nam;
- Các loại tài khoản trong SEEA như tài khoản hiện vật và tài khoản dòng tổng
hợp, các tài khoản kinh tế và các giao dịch môi trường, các tài khoản tài sản bằng hiện
vật hoặc bằng tiền; Mở rộng SNA để tính toán thêm cho tổn thất, chi tiêu phòng ngừa
và suy thoái tài nguyên;
- Đề xuất phương pháp tiếp cận xây dựng thử nghiệm tài khoản “xanh” cho Việt
Nam, trong đó đưa ra: Các cách tiếp cận đối với việc áp dụng chỉ tiêu GDP xanh ở Việt
Nam; Tiêu chí lựa chọn và gợi ý về các tài khoản xanh thực hiện ở Việt Nam;
- Đưa ra Khung phương pháp xây dựng các tài khoản “xanh” ở Việt Nam, gồm:
Tài khoản tài nguyên đối với các loại năng lượng không có khả năng tái tạo (Than, dầu
thô và khí đốt); Tài khoản ô nhiễm (ô nhiễm không khí CO2); Tài khoản chi tiêu công
cho bảo vệ môi trường.
- Tính thử nghiệm chỉ tiêu GDP xanh giai đoạn 2007-2011, trên cơ sở sử dụng
hệ số chất thải trực tiếp CO2 của Viện Tài nguyên thế giới.
Điểm hạn chế của tài liệu 1 và 2 là: Chưa đề cập nguồn thông tin và phương
pháp thu thập thông tin thống kê, để tính 3 tài khoản: Tài khoản Tài nguyên; Tài
khoản ô nhiễm và tài khoản chi tiêu công cho bảo vệ môi trường.
Tóm lại: Chỉ tiêu GDP xanh được đề cập tại một số công trình nghiên cứu trong và
ngoài nước, nhưng việc xác định nguồn thông tin và phương pháp tổ chức thu thập thông
tin thống kê, phản ánh nội hàm chỉ tiêu GDP xanh liên quan đến các yếu tố, như: (i) Chi
tiêu quốc gia cho bảo vệ môi trường; (ii) Chi phí xử lý ô nhiễm môi trường; (iii) Tiêu
dùng tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt một số tài nguyên không có khả năng tái tạo, phục
vụ tính chỉ tiêu GDP xanh chưa được các công trình nghiên cứu đề cập đến, đây chính là
khoảng trống luận án tiếp tục nghiên cứu.

3. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
a. Mục tiêu nghiên cứu
- Mục tiêu nghiên cứu tổng quát: Xác định phương pháp tính và phương pháp
thu thập thông tin tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam;
- Mục tiêu nghiên cứu cụ thể:


8
(i) Nghiên cứu phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam, trên cơ sở cụ
thể hóa một số yếu tố liên quan phương pháp tính và xác định khả năng đo lường các
yếu tố liên quan tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam;
(ii) Xác định thông tin và tổ chức thu thập thông tin tính chỉ tiêu GDP xanh ở
Việt Nam;
(iii) Tính thử nghiệm chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam và kiểm định tính khả thi
của phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam đề xuất;
(iv) Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích kết quả tính thử nghiệm
chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam.
b. Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu cụ thể nêu trên, luận án tập trung trả lời
các câu hỏi nghiên cứu chính như sau: (i) Tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam như thế
nào ?; (ii) Yêu cầu về thông tin và tổ chức thu thập thông tin tính chỉ tiêu GDP xanh ở
Việt Nam?; (iii) Ý nghĩa của chỉ tiêu GDP xanh và áp dụng thực hiện chỉ tiêu GDP
xanh ở Việt Nam như thế nào ?
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là: Phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh áp
dụng ở Việt Nam và đảm bảo nguồn thông tin tính chỉ tiêu GDP xanh.
b. Phạm vi nghiên cứu
(i) Phạm vi nội dung nghiên cứu: Phương pháp tính, xác định nguồn thông tin
và phương thức tổ chức thu thập thông tin chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam;

(ii) Phạm vi không gian và thời gian: Tính thử nghiệm và thử nghiệm phân tích
chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam giai đoạn 2011-2015.
5. Phương pháp nghiên cứu
(i) Nghiên cứu thông tin và phân tích dữ liệu sẵn có liên quan đến nội dung của
luận án, như: Tài liệu của Ủy ban Thống kê Liên Hợp quốc và một số tổ chức thống kê
quốc tế; Bài báo đăng trên các tạp chí trong và ngoài nước; Báo cáo thống kê; Kết quả
một số công trình nghiên cứu khoa học, v,v...;
(ii) Phương pháp chuyên gia;
(iii) Phương pháp thu thập thông tin (khai thác số liệu từ điều tra thống kê; chế
độ báo cáo thống kê và hồ sơ hành chính);


9
(iv) Một số phương pháp thống kê như: Thống kê mô tả (trình bày dữ liệu; tính
toán các đặc trưng của dữ liệu), phương pháp phân tích dãy số theo thời gian, phương
pháp chỉ số, phương pháp phân tổ, v.v...;
6. Những đóng góp mới của luận án
Qua kết quả nghiên cứu luận án, tác giả có một số đóng góp tri thức mới về mặt
lý luận và thực tiễn, góp phần biên soạn chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam, kết quả
nghiên cứu cụ thể như sau:
Thứ nhất, Đề xuất phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam phù hợp
với yêu cầu quản lý và điều kiện thực tế Thống kê Việt Nam;
Thứ hai, Xác định yêu cầu thông tin và đề xuất hướng hoàn thiện phương pháp
thu thập thông tin phục vụ tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam;
Thứ ba, Tính thử nghiệm chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam nhằm làm rõ nội dung
và tính khả thi của phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh được đề xuất;
Thứ tư, Vận dụng một số phương pháp phân tích thống kê, để phân tích biến
động chỉ tiêu GDP xanh và quan hệ của chỉ tiêu GDP xanh với một số chỉ tiêu khác;
Thứ năm, Đề xuất một số kiến nghị và giải pháp thực hiện phương pháp thống kê chỉ
tiêu GDP xanh ở Việt Nam đảm bảo yêu cầu khoa học và có tính khả thi.

7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục, kết cấu luận án gồm 3 chương:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận chung về chỉ tiêu GDP xanh, gồm các nội
dung chủ yếu là: Khái niệm và phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh; kinh nghiệm tính
chỉ tiêu GDP xanh của một số nước (Nhật Bản; Trung Quốc và Indonesia).
Chương 2. Phương pháp tính toán và tổ chức thu thập thông tin chỉ tiêu GDP
xanh ở Việt Nam. Nội dung Chương này đề cập: Khả năng tính chỉ tiêu GDP xanh ở
Việt Nam trên cơ sở xem xét thực trạng phương pháp tính, thông tin các chỉ tiêu có liên
quan tính chỉ tiêu GDP xanh và xác định thông tin, tổ chức thu thập thông tin thống kê
tính chỉ tiêu GDP xanh theo phương pháp tính đề xuất; xây dựng tài khoản ô nhiễm và
tài khoản chi tiêu cho môi trường phục vụ tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam.
Chương 3. Tính toán thử nghiệm và phân tích chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam. Nội
dung Chương 3 đề cập: Đặc điểm và điều kiện số liệu tính chỉ tiêu GDP xanh ở Việt Nam;
tính toán thử nghiệm chỉ tiêu GDP xanh; lựa chọn một số phương pháp thử nghiệm phân
tích chỉ tiêu GDP xanh; đánh giá kết quả tính thử nghiệm và một số kiến nghị.


10

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
CHỈ TIÊU GDP XANH
1.1. Khái niệm và phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh
1.1.1. Khái niệm chỉ tiêu GDP xanh
GDP xanh là phần còn lại của GDP thuần sau khi đã khấu trừ chi phí về tiêu
dùng tài nguyên và mất mát về môi trường do các hoạt động kinh tế [26, tr.34 và tr.
40], cụ thể như sau:
GDP xanh =

GDP thuần

hay NDP

-

Chi phí tiêu dùng tài nguyên và mất mát
về môi trường do các hoạt động kinh tế

Chỉ tiêu GDP xanh ra đời với mục đích chính để đánh giá chi phí của thiệt hại
môi trường với tiêu thụ và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên đến GDP thuần.
Như vậy chỉ tiêu GDP xanh sẽ phản ánh được thực chất phát triển kinh tế của một đất
nước trên cả ba mặt: Kinh tế, xã hội và môi trường, chỉ tiêu này không những phản ánh
tăng trưởng về số lượng mà còn phản ánh cả chất lượng tăng trưởng, đây là điều quan
tâm của mọi quốc gia trên thế giới.
Việc xác định chỉ tiêu GDP xanh hiểu theo nghĩa rộng chính là “hạch toán chi
phí môi trường” hay còn gọi là “hạch toán xanh”. Cho dù gọi theo thuật ngữ nào thì
thực chất đây là việc tính tương đối đúng và đủ các chi phí liên quan tới hoạt động bảo
vệ môi trường vào giá thành sản phẩm ở cấp độ doanh nghiệp hay đó là việc thay đổi
cách thể hiện trong tài khoản quốc gia, theo đó bổ sung thêm vai trò của môi trường
vào kết quả hoạt động chung của nền kinh tế. Nói cách khác, trước kia trong hàm sản
xuất Cob Douglas truyền thống thường bao gồm các yếu tố vốn, lao động, công nghệ,
thì hiện nay cần bổ sung thêm yếu tố môi trường như một yếu tố đầu vào của quá trình
sản xuất.
Việc đưa ra chỉ tiêu GDP xanh đồng nghĩa với việc cần đưa ra kèm theo nó một
hệ thống lý thuyết và khung nội dung cơ bản để đánh giá mối quan hệ nói chung giữa
kinh tế và môi trường. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách cho sự phát
triển bền vững, cho việc đánh giá chất lượng tăng trưởng, thông qua hiệu quả sử dụng
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, hoàn thiện chỉ tiêu GDP truyền thống, giúp phản
ánh được một cách toàn diện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi
trường và bảo vệ đời sống của con người.



11
Chỉ tiêu GDP xanh chính thức được giới thiệu vào năm 1993 trong Dự thảo
hướng dẫn nhan đề “Gắn kết hạch toán môi trường và hạch toán kinh tế” do Liên Hợp
Quốc xây dựng nhằm đưa ra SEEA. Kể từ khi được hình thành đến nay, phương pháp
luận xây dựng SEEA đã được điều chỉnh và hoàn thiện dần, cụ thể: Cuốn sách hướng
dẫn “Gắn kết hạch toán môi trường và hạch toán kinh tế” do Liên Hợp Quốc xuất bản
năm 1993 đã được chỉnh sửa và hoàn thiện vào năm 1994; 1998; 2000, 2003 và năm
2012. Trên thực tế, hệ thống này đã đề xuất những phương pháp có thể áp dụng để gắn
kết môi trường với kinh tế trong một khuôn khổ thống kê thống nhất, nhưng còn đang
trong thời kỳ được các nước áp dụng với mục tiêu thử nghiệm. Lý do dẫn đến thực
trạng này là các nhà kinh tế và môi trường đều thống nhất về quan điểm cũng như về
cách tiếp cận đối với nội dung của SEEA, song vẫn còn những điểm chưa thống nhất
về phương pháp tính toán các chỉ tiêu và các tài khoản tính toán liên quan đến môi
trường vì còn nhiều khó khăn trong việc thu thập số liệu và áp dụng tính toán.

1.1.2. Phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh
Việc tính toán chỉ tiêu GDP xanh hay nói cụ thể hơn là hạch toán môi trường
trong tài khoản quốc gia, đây chính là bước hoàn thiện tài khoản quốc gia của Liên
Hợp Quốc, do vậy phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh được xem xét trên cơ sở của
phương pháp tính chỉ tiêu GDP trong SNA. Theo Thống kê Liên hợp quốc, tính chỉ
tiêu GDP xanh có thể xuất phát từ Bảng I - O hoặc theo SEEA.

1.1.2.1. Phương pháp tính chỉ tiêu GDP trong SNA
SNA được trình bày dưới dạng những bảng cân đối hoặc những tài khoản nhằm
phản ánh điều kiện sản xuất, kết quả sản xuất tổng hợp, quá trình sử dụng kết quả sản
xuất đó cho các nhu cầu, như: Tiêu dùng cho sản xuất, tiêu dùng cuối cùng cho đời
sống sinh hoạt dân cư và xã hội trong một khoảng thời gian (thường là một năm). Một
trong những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô trong SNA, được dùng so sánh quốc tế hiện nay là
chỉ tiêu GDP.

Trong SNA, các tài khoản chủ yếu được hạch toán dựa theo đẳng thức sau:
[Enviromental Accounting: An Operational Perspective, tr.4].
* Đẳng thức về nguồn - sử dụng, được thể hiện như sau:
O + M
Trong đó:

=

IC + C + CF + X

O : Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ sản xuất ra;
M : Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ;
IC : Tiêu dùng trung gian;


12
C : Tiêu dùng cuối cùng;
CF : Tổng tích luỹ tài sản;
X : Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.
* Đẳng thức về gia tăng đối với một ngành kinh tế, được thể hiện như sau:
NVAi

=

Oi - IIi - CCi

Trong đó: NVAi : Giá trị gia tăng thuần ngành i;
Oi : Giá trị sản phẩm vật chất, dịch vụ ngành i sản xuất ra;
IIi : Chi phí trung gian của ngành i;
CCi : Tiêu dùng tài sản cố định của ngành i.

* Đẳng thức về tổng sản phẩm trong nước, được thể hiện như sau:
GDP

=

C + CF + (X - M)

Trong đó: GDP : Tổng sản phẩm trong nước;
C : Tiêu dùng cuối cùng;
CF : Tổng tích luỹ tài sản;
M : Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ;
X : Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.

1.1.2.2. Phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh trong SEEA
SEEA mở rộng và bổ sung các tài khoản nguồn lực tự nhiên với đơn vị tính là
giá trị và các tài khoản sản xuất và tài sản. Bằng việc tính các chi phí do suy giảm (cả
về mặt trữ lượng và giá trị) các nguồn tự nhiên không sản xuất được do các hoạt động
kinh tế gây ra, SEEA cho phép tính được tổng sản phẩm trong nước thuần (GNP) được
điều chỉnh sau khi trừ yếu tố môi trường (Enviromental adjusted net Domestic
Products - EDP), hay nói cách khác chính là GDP xanh (Green GDP) [25, tr.39].
Trong SEEA, các đẳng thức nêu trên được điều chỉnh tương ứng, gắn với chi
phí do những tổn thất và do sự xuống cấp môi trường mà các hoạt động kinh tế - xã
hội gây ra. Theo đó, đẳng thức nguồn và sử dụng được điều chỉnh bằng việc dựa vào
đó đại lượng IC - vừa là chi phí môi trường, nhưng đồng thời cũng chính là sự tổn thất
và sự xuống cấp môi trường do hoạt động kinh tế gây ra. Còn hai chỉ tiêu: VA và GDP
sẽ được điều chỉnh tương ứng thành các chỉ tiêu VA có tính tới môi trường (EVA) và
GDP có tính tới môi trường (EDP) hoặc GDP xanh.


13

Ứng với ba đẳng thức trên, tính toán yếu tố môi trường vào các tài khoản kinh
tế tương ứng với hệ thống SEEA [26, tr.39], được biểu thị như sau:
* Đẳng thức về nguồn - sử dụng có yếu tố môi trường, thể hiện như sau:
O + M
Trong đó:

=

(IC + ECc) + C + (CF -

ECt) + X

O : Giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ sản xuất ra;
M : Nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ;
IC : Tiêu dùng trung gian; ECc: Chi phí môi trường;
C : Tiêu dùng cuối cùng;
CF: Tổng tích luỹ tài sản;
ECt: Giá trị tổn thất và xuống cấp tài nguyên môi trường
X : Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ.

* Đẳng thức về giá trị gia tăng có yếu tố môi trường đối với một ngành kinh tế
như sau:
EVAi

=

Trong đó:

Oi - IIi - CCi - ECi


=

NVAi - ECi

EVAi : Giá trị gia tăng thuần có yếu tố môi trường của ngành i;
Oi : Giá trị sản phẩm vật chất, dịch vụ ngành i sản xuất ra;
IIi : Chi phí trung gian của ngành i;
CCi : Tiêu dùng tài sản cố định của ngành i;
ECi : Chi phí do tổn thất, xuống cấp môi trường của ngành i gây ra
NVAi Giá trị gia tăng thuần của ngành i

* Đẳng thức về GDP có tính đến yếu tố môi trường, như sau:
EDP = ∑ EVAi − EC h = NDP − EC = C + CF − CC − EC + X − M

Trong đó: EDP: GDP thuần có yếu tố môi trường hay GDP xanh;

∑ EVA :
i

Tổng VA thuần có yếu tố môi trường.

ECh: Chi phí xử lý ô nhiễm môi trường do tiêu dùng cuối cùng của hộ
gia đình gây ra;
NDP: Tổng sản phẩm trong nước thuần;
EC:
nguyên môi trường;

Chi phí bảo vệ môi trường và giá trị tổn thất, xuống cấp tài



14
CF

: Tích luỹ tài sản;

CC

: Khấu hao tài sản.

Trong SEEA, các tài khoản liên quan tới môi trường được gắn kết với tài khoản
kinh tế như trình bày trong 3 đẳng thức trên. Theo đó đã có hai khoản được bổ sung
vào SNA truyền thống dưới dạng hiện vật và giá trị, đó là:
Thứ nhất, Sự tiêu hao tài sản môi trường do hoạt động kinh tế gây ra, thể
hiện “tiêu dùng vốn tài nguyên thiên nhiên”, gồm các loại tài nguyên như nước, đất,
rừng, v.v... Đây là những loại tài sản thường không được thể hiện trong tài sản kinh
tế của SNA;
Thứ hai, Những chi phí môi trường mà các ngành kinh tế và hộ gia đình đã chi
trả cho việc sử dụng các tài sản môi trường trong quá trình sản xuất, làm cho các tài
sản đó cạn kiệt, xuống cấp. Những khoản chi phí này thể hiện ở “chi phí môi trường
của ngành kinh tế (ECi)” và “chi phí môi trường của hộ gia đình (ECh)”. Trên cơ sở hai
khoản mục đó, một số chỉ tiêu kinh tế được điều chỉnh lại như: “tổng tích luỹ tài sản
(CF)” được chuyển thành “Tổng tích luỹ tài sản có gắn với môi trường (ECF)”; “Giá
trị gia tăng thuần (NVA)” được chuyển thành “Giá trị gia tăng thuần có tính tới môi
trường (EVA)”; và “Tổng sản phẩm trong nước thuần (NDP)” chuyển thành “Tổng sản
phẩm trong nước thuần có tính tới môi trường (NDP xanh) hay GDP xanh thuần”.
Trong phạm vi luận án này, khi nhắc đến thuật ngữ GDP xanh, bản chất của chỉ tiêu
này chính là GDP xanh thuần, tức là GDP sau khi đã trừ (-) khấu hao tài sản cố định.
Xuất phát từ phương pháp hạch toán GDP xanh trong SEEA, phương pháp tính
chỉ tiêu GDP xanh được thực hiện theo các phương pháp:
Phương pháp sản xuất: GDP xanh bằng (=) Tổng giá trị gia tăng thuần có tính

đến yếu tố môi trường của các ngành kinh tế trừ (-) chi phí xử lý ô nhiễm môi trường
do tiêu dùng cuối cùng của hộ gia đình gây ra.
Phương pháp tiêu dùng: GDP xanh bằng (=) Tiêu dùng cuối cùng cộng (+) tích
luỹ tài sản, trừ (-) khấu hao tài sản, trừ (-) chi phí bảo vệ môi trường và giá trị tổn thất,
xuống cấp tài nguyên môi trường, cộng (+) chênh lệch xuất khẩu và nhập khẩu hàng
hoá, dịch vụ.
Thông qua phương pháp tính chỉ tiêu GDP trong SNA và tính GDP trong
SEEA, luận án thấy có một số vấn đề khác biệt như sau:
- Tính chỉ tiêu GDP trong SNA chưa thể hiện đầy đủ những chi phí liên quan
tới bảo vệ môi trường cũng như chưa phản ánh hết sự xuống cấp, suy thoái nguồn tài


15
nguyên thiên nhiên do các hoạt động kinh tế - đời sống của con người gây ra (theo Salah
Serafy và Ernst Lutz, 1989. tr 24). Một trong những nhược điểm của tính toán chỉ tiêu
GDP trong SNA truyền thống đó là: Chưa thể hiện đầy đủ các khoản chi phí có liên quan
tới bảo vệ môi trường và suy thoái tài nguyên, cụ thể như sau:
Thứ nhất, trong các tài khoản của SNA truyền thống không thể hiện riêng biệt
các khoản chi để bảo vệ môi trường hoặc để giảm bớt sự xuống cấp của môi trường, do
vậy những chủ thể đã gây ra ô nhiễm tác động tới môi trường, chưa thể thấy được mức
độ chi phí mà họ phải bỏ ra để bù đắp tổn hại cho môi trường như thế nào ? Chính vì
vậy, các chi phí này dường như không tác động tới hành vi thân thiện với môi trường
của các nhà sản xuất cũng như của những nhà hoạch định chính sách.
Thứ hai, môi trường thiên nhiên cung cấp cho con người nhiều loại sản phẩm,
trong đó có một số loại sản phẩm có giá trị, nhưng không được trao đổi mua bán trên
thị trường hoặc được trao đổi với giá thấp (ví dụ như nguồn tài nguyên nước, v.v...),
do vậy nhiều trường hợp, giá trị của những loại sản phẩm đó không được biểu thị trong
giá sản phẩm (do bị bỏ qua) hoặc không thể tách riêng biệt từ giá của sản phẩm được
đem bán trên thị trường.
Thứ ba, trong thực tế môi trường cung cấp nhiều loại dịch vụ cho đời sống con

người (như rừng có tác dụng bảo vệ lưu vực sông, điều hoà khí hậu; hệ sinh thái có tác
dụng lọc chất ô nhiễm trong nước và không khí, v.v...). Tuy nhiên những loại dịch vụ
này không được tính trong SNA, mà cụ thể là giá trị sản phẩm dịch vụ phục vụ cho
tiêu dùng cuối cùng của dân cư. Một trong những lý do của sự bỏ qua này là trong
nhiều trường hợp, người ta không thể định giá các sản phẩm và dịch vụ của môi
trường bằng giá thị trường.
Thứ tư, GDP trong SNA tính cả phần khấu hao tài sản cố định (máy móc, thiết bị)
vào tài khoản khấu hao. Trong khi đó, phần trữ lượng tài nguyên bị mất đi do bị khai thác
và do được sử dụng trong quá trình sản xuất lại được tính vào tài khoản thu nhập. Theo
các nhà môi trường, nguồn tài nguyên cũng phải được coi là một loại tài sản. Do đó, sự
suy giảm trữ lượng nguồn tài nguyên trong quá trình sản xuất cũng phải được tính vào tài
khoản khấu hao giống như các tài sản cố định khác.
- Tính toán chỉ tiêu GDP xanh trong SEEA về cơ bản dựa trên sự hạch toán
GDP trong SNA, tuy nhiên tính toán chỉ tiêu GDP xanh trong SEEA đã trừ phần khấu
hao tài sản cố định, đồng thời có sự bổ sung thêm những thông tin về tài sản môi
trường dưới dạng hiện vật và giá trị, về quá trình sử dụng tài sản đó vào sản xuất, tiêu
dùng của hộ dân cư và xã hội, hay nói một cách khác tính toán chỉ tiêu GDP trong


16
SEEA đã thể hiện khá đầy đủ chi phí liên quan tới bảo vệ môi trường cũng như phản
ánh sự xuống cấp, suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên do các hoạt động kinh tế đời sống của con người gây ra….
Tuy nhiên để tính toán đầy đủ bằng giá trị các tài khoản môi trường và việc ước
tính chỉ tiêu GDP xanh không chỉ phụ thuộc vào giá trị các tài sản được sản xuất ra mà
còn phụ thuộc vào giá trị của các tài sản tự nhiên không do sản xuất tạo ra. Liên hợp
quốc giới thiệu ba phương pháp định giá môi trường trong hệ thống SEEA [25] đó là:
Định giá nguồn tài nguyên theo giá thị trường; Định giá việc bảo vệ, phục hồi tài sản
môi trường; Định giá dịch vụ môi trường theo phương pháp ngẫu nhiên.

1.1.2.3. Phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh xuất phát từ mô hình I - O mở rộng

Mô hình I - O mở rộng và sử dụng các công cụ để phân tích các vấn đề ô nhiễm
môi trường. Mô hình I - O rút gọn, thể hiện quan hệ giữa các ngành trong nền kinh tế
của quá trình sản xuất và sử dụng sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập khẩu theo
một hệ thống hàm tuyến tính. Mô hình I - O sẽ thể hiện một cách khái quát cấu trúc
bởi các ngành theo cột và được coi là các ngành sản xuất; các ngành theo dòng được
coi là các ngành sử dụng, theo Sơ đồ số 1.1.
Các ngành sản xuất
Các ngành
sản phẩm
Giá trị
tăng thêm

Tiêu dùng trung gian Ô1

Sử dụng cuối cùng

Tổng sử dụng

Y
Ô2

X

VA; Ô3

Tổng đầu vào hoặc tổng chi phí X
Sơ đồ số 1.1. Mô hình I – O
Nguồn: Handbook of Output - Input table Compilation and Analysis
- Ô1. Tiêu dùng trung gian: Thể hiện chi phí trung gian của các ngành, bao gồm
các ngành sản xuất ra sản phẩm vật chất và các ngành sản xuất ra sản phẩm dịch vụ;

phần tử aij của ma trận A thể hiện ở Ô1 phản ánh ngành j sử dụng sản phẩm ngành i
làm chi phí trung gian trong quá trình sản xuất ra sản phẩm j.
- Ô2. Sử dụng cuối cùng: Thể hiện những sản phẩm vật chất và sản phẩm dịch
vụ được sử dụng cho nhu cầu cuối cùng, bao gồm được sử dụng cho: tiêu dùng cuối
cùng, tích luỹ tài sản, xuất khẩu và nhập khẩu.


17
- Ô3. Tổng giá trị tăng thêm: Bao gồm các khoản thu nhập của người lao động;
thuế sản xuất; thặng dư sản xuất và khấu hao tài sản cố định.
Quan hệ hàm số cơ bản của mô hình I - O có dạng:
AX + Y = X

(1.1)

Hoặc X = (I - A)1 Y.
Trong đó:

A là ma trận hệ số chi phí trung gian trực tiếp;
X là véc tơ giá trị sản xuất;
Y là véc tơ sử dụng cuối cùng.

Tuy nhiên, theo sơ đồ số 1.1 (Mô hình I - O) đơn giản chưa thấy thể hiện rõ nét
sự thay đổi tổng sử dụng (GO) của mỗi ngành sản phẩm hay tổng chi phí của mỗi
ngành sản xuất sẽ ảnh hưởng như thế nào đến vấn đề môi trường. Do vậy để xác định
mức độ ảnh hưởng đến môi trường do các hoạt động sản xuất gây ra bằng cách thông
qua sự mở rộng của mô hình I - O hay nói cách khác xác định chỉ tiêu GDP xanh
thông qua mô hình I - O mở rộng.
Trong mô hình I - O mở rộng thừa nhận có 2 loại hình hoạt động, đó là:
(1). Tất cả các hoạt động kinh tế; (2). Hoạt động chống chất thải gây ô nhiễm

môi trường (gồm chất thải đầu vào và chất thải đầu ra) của các hoạt động kinh tế.
Mô hình I - O mở rộng dựa trên cơ sở n ngành (loại trừ các hoạt động chống lại
chất thải gây ô nhiễm môi trường); m là số loại chất thải gây ô nhiễm môi trường,
được xác định theo các véc tơ và ma trận như sau:
A1 : là ma trận hệ số chi phí trung gian trực tiếp, ma trận cấp (n x n) của n
ngành kinh tế, các chi phí sản xuất từ các hoạt động kinh tế (đo lường bằng đơn vị tiền
tệ) so với giá trị sản xuất của các hoạt động kinh tế.
X1 : là véc tơ giá trị sản xuất cấp (n x 1) của các hoạt động kinh tế, (đo lường
bằng đơn vị tiền tệ).
Y1 : là véc tơ sử dụng sản phẩm cuối cùng cấp (n x 1) từ các hoạt động kinh tế,
(đo lường bằng đơn vị tiền tệ).
Xg : là véc tơ giá trị sản xuất cấp (m x 1) của các hoạt động chống lại chất thải
gây ô nhiễm môi trường do các ngành kinh tế tạo ra, (đo lường bằng đơn vị vật chất).
g1 : là ma trận hệ số các chất thải gây ô nhiễm môi trường trực tiếp từ các hoạt
động kinh tế, ma trận cấp (m x n), với m là số loại chất thải gây ô nhiễm môi trường và
n là số ngành sản phẩm được nghiên cứu trong mô hình, phần tử của ma trận phản ánh


18
khối lượng chất thải (đơn vị tính là vật chất) trên 1 đơn vị sản phẩm (đơn vị tính là tiền
tệ) được tạo ra trong quá trình sản xuất ra sản phẩm;
g2 : là ma trận hệ số các chất thải gây ô nhiễm môi trường trực tiếp từ các hoạt
động chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trường, ma trận cấp (m x n), m là số loại
chất thải gây ô nhiễm môi trường, phần tử của ma trận phản ánh khối lượng chất thải
gây ô nhiễm môi trường (đơn vị tính vật chất) trên 1 đơn vị khối lượng chất thải gây ô
nhiễm môi trường được xử lý (đơn vị tính là vật chất) được tạo ra từ các hoạt động
chống lại chất thải gây ô nhiễm;
g3 : là ma trận hệ số các chất thải trực tiếp gây ô nhiễm môi trường từ tiêu dùng
cuối cùng hộ gia đình, ma trận cấp (m x n), m là số loại các chất thải gây ô nhiễm môi
trường (đơn vị tính vật chất), phần tử của ma trận phản ánh khi hộ gia đình tiêu dùng

sản phẩm j thì sẽ tạo ra chất thải loại i.
H: là ma trận hệ số chi phí trung gian trực tiếp của các hoạt động chống lại chất
thải gây ô nhiễm môi trường, ma trận cấp (n x m), phần tử của ma trận thể hiện hoạt
động chống lại chất thải loại j thì cần sử dụng sản phẩm i làm chi phí trung gian.
Yg : là véc tơ thể hiện các chất thải gây ô nhiễm môi trường không được xử lý,
cấp của véc tơ là (1 x m).
Xác định các véc tơ của chất thải gây ô nhiễm môi trường tạo ra trong các hoạt
động kinh tế và các véc tơ của chất thải gây ô nhiễm môi trường từ các hoạt động
chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trường, vận dụng từ mô hình I - O được thể hiện
như sau:
X1

=

AX1 +

HXg +

Y1

Xg

=

g1X1 +

g2 X g +

g3Y1 -


(1.2)
Yg.

(1.3)

+ Công thức (1.2) dựa trên quan hệ mô hình I - O, đã chỉ ra việc sử dụng giá trị
sản phẩm của các hoạt động kinh tế, trong đó:
- AX1 : là chi phí sản xuất đầu vào được sử dụng trong quá trình sản xuất ra
sản phẩm của các hoạt động kinh tế;
- HXg : là chi phí đầu vào của hoạt động xử lý các chất thải gây ô nhiễm môi trường;
- Xg : là số lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường được xử lý;
- H : là ma trận hệ số chi phí trung gian trực tiếp của các hoạt động chống lại
chất thải gây ô nhiễm môi trường;
- Y1 : là sản phẩm của các hoạt động kinh tế, nó được sử dụng cho tiêu dùng


19
cuối cùng, giả sử không có sử dụng cuối cùng nào khác.
+ Công thức (1.3) chỉ ra tổng số khối lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường
Xg được xử lý. Nó tương đương với khối lượng chất thải gây ô nhiễm môi trường do
các ngành kinh tế tạo ra (ví dụ: g1X1), các chất gây ô nhiễm môi trường được tạo ra bởi
đầu ra của các hoạt động xử lý các chất thải gây ô nhiễm môi trường (ví dụ các chất
thải gây ô nhiễm môi trường được tạo ra từ các hoạt động chống lại chất thải gây ô
nhiễm môi trường) Xg (ví dụ. g2Xg), các chất thải gây ô nhiễm môi trường được tạo ra
bởi tiêu dùng cuối cùng (ví dụ g3Y1), (-) trừ đi các chất gây ô nhiễm môi trường nó
không được xử lý Yg cùng với việc xác định mức độ ô nhiễm môi trường do các hoạt
động kinh tế gây ra mà được xã hội chấp nhận ở một mức độ nhất định, điều này được
thực hiện ở một số quốc gia và Chính phủ đã đưa ra tiêu chuẩn chung nhằm bảo vệ
môi trường.
Từ công thức (1.2) và (1.3) được trình bày theo dạng của một ma trận đơn giản

đó là mô hình I - O thông thường như sau:


 Χ 1   ΑΗ   Χ 1  Y1
×
+


Χ  = 



 g   g 1 g 2   Χ g   g 3 Υ1 − Υ g 

(1.4)

Để tính toán chỉ tiêu GDP xanh dựa vào mô hình I - O thông thường, xuất phát
từ công thức (1.2) và (1.3) có hai trường hợp:
* Trường hợp 1
Giả định tiêu dùng cuối cùng hàng hoá và dịch vụ được thừa nhận là không tạo
ra các chất thải gây ô nhiễm môi trường, tức là g3 = 0 và toàn bộ các chất thải gây ô
nhiễm môi trường được tạo ra từ các ngành đều được xử lý, tức là Yg = 0, công thức
(1.2) và (1.3) được viết lại như sau:
X1

=

AX1 +

HXg +


Xg

=

g1X1 +

g2 X g

Y1

(1.5)
(1.6)

Công thức (1.6) được viết lại thông qua thay Xg bằng X1 và X1 thay thế bằng
Xg vào công thức (1.5) và công thức được viết lại như sau:
Xg

=

(I – g2)-1g1X1

X1

=

AX1 + H(I – g2)-1g1X1 +

(1.7)
Y1


(1.8)

Hay công thức (1.8) được viết lại như sau:
X1

=

[A

+

(H (I − g )
2

−1

]

g1 X 1

+ Y1

(1.9)


20
Trong đó:
- A là: Chi phí trực tiếp được sử dụng cho các hoạt động kinh tế;


(

−1

]

- H ( I − g 2 ) g1 X 1 là: Chi phí trực tiếp sử dụng cho các hoạt động chống lại
chất thải gây ô nhiễm môi trường;
- Y1 là: Sử dụng cuối cùng.
Hay

Y1 =

(

−1

]

X 1 - [ A + H ( I − g 2 ) g1 X 1

(1.9)

Trong công thức (1.9), Y1 là GDP xanh không bao gồm chi phí để chống lại
chất thải gây ô nhiễm môi trường, là một phần lớn giá trị thực dùng cho sử dụng cuối
(1.10)
cùng Y* = H(I – g2)-1g1X1 + Y1
Do vậy, chỉ tiêu GDP xanh Y1 nhỏ hơn rất nhiều so với chỉ tiêu GDP thông
thường Y* Sở dĩ là do chỉ tiêu GDP thông thường Y* phải trừ đi (-) chi phí trực tiếp sử
dụng cho các hoạt động chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trường.

* Trường hợp 2
Giả định mối quan hệ trong mô hình bao gồm các chất thải gây ô nhiễm môi
trường, nguyên nhân là do sử dụng cuối cùng tạo nên (g3Y1) trong công thức (1.4) và
trong đó cũng không bao gồm toàn bộ các chất thải gây ô nhiễm môi trường đã được
xử lý, nhưng bên cạnh đó còn mức ô nhiễm môi trường đã được xã hội chấp nhận (Yg)
trong công thức (1.4) và nó được giới thiệu như sau:
Công thức (1.2) được viết lại và Y1 được trình bày biểu diễn qua X1 như sau:
Y1 = (I – A)X1 - HXg

(1.11)

Thay thế Y1 trong công thức (3) và Xg được biểu diễn qua X1 , như sau:
−1

−1

Χ g = [I − ( g 2 − g 3 H )] [g1 + g 3 ( I − A)]X 1 − [I − ( g 2 − g 3 H )] Yg

Nó được thay thế bằng:

(1.12)

R = I – (g2 – g3 H),

Công thức (12) đơn giản hoá như sau:
X g = R −1 [g1 + g 3 ( I − A)]X 1 − R −1Yg

(1.13)

Thay thế Xg trong công thức (1.2) vào công thức (1.13) viết lại công thức (1.2)

theo thuật ngữ X1 và biến ngoại sinh Yg được biến đổi như sau:


21

X1 =

- HR-1 Yg

+ Y1

Chi phí trực tiếp xử

Sử

được sử dụng
sử dụng cho các hoạt
cho sản xuất giá động chống lại chất thải
trị sản phẩm của gây ô nhiễm môi trường

lý chất thải gây ô
nhiễm môi trường,
nhưng chất thải đó

dụng
cuối
cùng

các ngành kinh tế


không được xử lý

{A

+

HR −1 [g 1 + g 3 ( I − A)]

Chi phí trực tiếp

}

Chi phí trực tiếp được

X1

(1.14)

Mối quan hệ được thể hiện trong công thức (1.14) miêu tả một cách đơn giản
trong trường hợp công thức (1.9) của mô hình I - O giản đơn. Trong trường hợp này, ô
nhiễm môi trường GDP (Y* ) tương đương với ô nhiễm môi trường GDP (Y1), cộng
với chi phí trực tiếp sử dụng cho các hoạt chống lại chất thải gây ô nhiễm môi trường.
Nếu toàn bộ các chất thải gây ô nhiễm môi trường được xử lý, trừ đi chi phí trực tiếp
các chất thải gây ô nhiễm môi trường không bị xử lý.

{

Y * =Y 1 + HR − 1 [g 1 + g 3 ( I − A)] }X 1 − HR − 1 Y g

GDP xanh được tính là:


{

Y1 =Y *− HR −1 [g 1+ g 3 ( I − A)] }X 1 + HR −1Yg

(1.15)

Từ phân tích trên, tính chỉ tiêu GDP xanh xuất phát từ mô hình I - O mở rộng
[6, tr.257-260] là:
GDP xanh = GDP - Chi phí của những hoạt động chống ô nhiễm

(1.16)

1.1.3. Tài khoản tài nguyên và môi trường và mối quan hệ với phương pháp
tính chỉ tiêu GDP xanh
Tài khoản tài nguyên và môi trường đo lường các tác động của môi trường đối
với nền kinh tế. Tài khoản tài nguyên và môi trường [27] được chia thành ba loại: Tài
khoản dòng vật chất; Tài khoản tài sản; Tài khoản hoạt động môi trường.
- Tài khoản dòng vật chất: Mô tả việc cung cấp và sử dụng tài nguyên thiên
nhiên dưới dạng vật chất và thể hiện trong bảng cung cấp và sử dụng vật chất, cho biết
đầu vào từ nguồn tự nhiên, sản phẩm và chất thải trong nền kinh tế được cung ứng và
sử dụng bởi các khu vực như: Chính phủ; Doanh nghiệp; Hộ gia đình, v.v... Tuy nhiên
trong một số trường hợp, tài khoản dòng vật chất có thể đo lường bằng đơn vị tiền tệ.
- Tài khoản tài sản: Trình bày giá trị hoặc số lượng của một tài sản môi trường
tại một thời điểm nhất định, tài sản môi trường bao gồm: Đất đai, tài nguyên sinh vật
tự nhiên như gỗ và cá, tài nguyên khoáng sản và năng lượng, tài nguyên nước và đất.
Tại SNA, các lợi ích về kinh tế của đất được thể hiện trong các tài khoản; trong SEEA


22

2012 đất được ghi nhận là một tài sản môi trường, diện tích đất không thay đổi, tuy
nhiên việc sử dụng đất và che phủ đất cũng như chất lượng của đất mang lại lợi ích có
thể thay đổi. Tài khoản tài sản có thể được tích hợp với tài khoản hiện vật và đo lường
bằng đơn vị hiện vật hoặc bằng đơn vị tiền tệ.
- Tài khoản hoạt động môi trường: Thể hiện các khoản chi tiêu về bảo vệ môi
trường và đo lường bằng đơn vị tiền tệ. Các hoạt động của Chính phủ liên quan đến
môi trường, gồm: (i) Hoạt động bảo vệ môi trường với mục đích là ngăn chặn và xử lý
ô nhiễm và suy thoái môi trường khác; (ii) Hoạt động quản lý tài nguyên với mục đích
là bảo tồn và duy trì vốn tự nhiên và chống lại sự suy thoái của nguồn vốn tự nhiên.
Xét trên phương diện vật chất, phạm vi tài sản môi trường trong SEEA 2012 có
thể rộng hơn phạm vi của tài sản môi trường dạng tiền tệ theo định nghĩa tài sản kinh tế
của SNA, vì chưa có quy định dạng vật chất tài sản môi trường phải mang lại lợi ích về
kinh tế. Do đó có thể có tài sản môi trường tại SEEA 2012 dạng vật chất nhưng không
có giá trị tiền tệ, do vậy bị loại khỏi tài sản môi trường dạng tiền tệ.
Việc gắn kết tài khoản tài nguyên và môi trường hay tài khoản “xanh”, phục
vụ tính chỉ tiêu GDP xanh, được thể hiện qua Sơ đồ 1.2. như sau:
Yếu tố đầu vào tính
GDP xanh

Tài khoản xanh
tính GDP xanh

Suy thoái môi trường ⇔
Cạn kiệt nguồn
tài nguyên



Tài khoản hoạt
động môi trường


Nguồn thông tin
phản ánh


Tài khoản tài sản;
Tài khoản vật chất

Phá hủy môi trường
sinh thái



Chi tiêu bảo vệ môi trường
(Tiền tệ)
Đất đai, tài nguyên sinh vật
tự nhiên (gỗ, cá), tài nguyên
khoáng sản và năng lượng,
tài nguyên nước và đất
(Vật chất hoặc tiền tệ)

Sơ đồ số 1.2. Mối quan hệ giữa tài khoản tài nguyên và môi trường,
yếu tố đầu vào và nguồn thông tin tính chỉ tiêu GDP xanh
Nguồn: Đề xuất của luận án
Tuy nhiên việc gắn kết tài khoản tài nguyên và môi trường vào các tài khoản
kinh tế quốc gia hiện nay rất khó khăn và phức tạp.
Đến nay nhiều nước trên thế giới đã thử nghiệm, đều có ý định không đưa hết
các tài khoản của SEEA vào tính toán chỉ tiêu GDP xanh, phần lớn các nước trên thế



23
giới đều áp dụng SEEA theo từng phần, nghĩa là chỉ tập trung một số tài khoản được
xem là quan trọng nhất đối với nền kinh tế và sau đó gắn kết tài khoản này thành tài
khoản kinh tế quốc gia. Việc này được thực hiện hàng năm ở một số nước phát triển,
như: Đan Mạch, Oxtraylia. Đối với các nước đang phát triển, việc xây dựng tài khoản
xanh vẫn đang trong giai đoạn thử nghiệm [29, tr.9].
Để tính toán được chỉ tiêu GDP xanh, cần phải bắt đầu bằng việc xây dựng các
tài khoản tài nguyên thiên nhiên và môi trường [13], theo đó hệ thống chỉ tiêu thống kê
phản ánh thông tin các tài khoản cần được xây dựng.
Các tài khoản được xây dựng có thể ở dạng hiện vật hoặc giá trị hoặc cả hiện
vật và giá trị, kinh nghiệm ở một số nước cho thấy, việc phân tích các tài khoản tài
nguyên về mặt hiện vật, trong nhiều trường hợp có thể đưa ra nhiều gợi ý về mặt chính
sách có ý nghĩa hơn là về mặt tiền tệ. Ví dụ: Sử dụng tài nguyên thiên nhiên hay mức
độ phát thải các chất thải gây ô nhiễm, v.v.v…

1.2. Kinh nghiệm tính chỉ tiêu GDP xanh một số nước
Theo báo cáo kinh nghiệm quốc tế về hạch toán môi trường và ước lượng chỉ
tiêu GDP xanh, hầu hết các nước phát triển và đang phát triển đều đang trong giai
đoạn thử nghiệm tính chỉ tiêu GDP xanh và đều bắt đầu từ SEEA là một trong hai
cách tiếp cận chính để gắn kết hạch toán môi trường và hạch toán kinh tế. Vấn đề là
cần xây dựng và xác định hệ thống thông tin thống kê hoàn thiện để tính chỉ tiêu
GDP xanh [30].
Mỗi quốc gia thực hiện một phần của SEEA và lựa chọn mô đun khác nhau, tuy
nhiên gần như có một số điểm chung trong lựa chọn mô đun, bao gồm các tài khoản
như: Tài khoản tài nguyên thiên nhiên, bao gồm: Khoáng sản, đất đai và năng lượng sử
dụng và chi phí bảo vệ môi trường. Đến nay có hơn 20 quốc gia như: Canada, Pháp,
Anh, Đức, Phần Lan, Na Uy, Hàn Quốc, Nhật Bản, Indonesia, Philippines, Brazil,
Trung Quốc, v.v… đã xây dựng tài khoản tài nguyên và môi trường, đây là kinh
nghiệm hữu ích đối với các nước khác. Ví dụ tại Nhật Bản, Trung Quốc và Indonesia,
tính toán chỉ tiêu GDP xanh được thực hiện trên cơ sở SEEA, cụ thể là xây dựng tài

khoản tài nguyên thiên nhiên và tài nguyên môi trường. Đây là lý do luận án lựa chọn
3 nước này tham khảo đối với Việt Nam.

1.2.1. Tính chỉ tiêu GDP xanh của Nhật Bản
1.2.1.1. Giới thiệu đặc điểm chủ yếu về SEEA Nhật Bản
SEEA ở Nhật Bản được xây dựng dựa trên cơ sở mở rộng SNA theo 3 cách:


24
Thứ nhất, Các hoạt động kinh tế được phân thành các hoạt động có liên quan tới
bảo vệ môi trường và các hoạt động không liên quan tới bảo vệ môi trường.
Thứ hai, Danh giới tài sản được mở rộng đó là tài sản phi sản xuất, loại tài sản
này đã không được xem như tài sản kinh tế trong SNA.
Thứ ba, Việc làm suy yếu và thoái hoá cả hai loại tài sản tự nhiên có tính chất
kinh tế và tài sản tự nhiên phi kinh tế được xem như khấu hao tài sản cố định được
khấu trừ trong việc tính tổng sản phẩm thuần trong nước đã được điều chỉnh có tính
đến yếu tố môi trường hoặc là chỉ tiêu GDP xanh.
Trong thực tế Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành thực hiện các dịch vụ bảo vệ
môi trường như làm sạch các hồ và sông, phục hồi đất đai đã bị ô nhiễm và tất cả các
chi phí cho dịch vụ bảo vệ môi trường đã được tính trong SNA như các hàng hoá phi
thị trường. Tức là SEEA ở Nhật Bản đã loại trừ các chi phí bảo vệ môi trường mà
không hoàn toàn ứng với các hoạt động sản xuất.
Đối với các chi phí cho môi trường:
SEEA ở Nhật Bản phân biệt có 2 loại chi phí môi trường, bao gồm:
Loại thứ nhất là các chi phí thực tế phải chi cho các hoạt động bảo vệ môi
trường, bao gồm các hoạt động do các địa phương thực hiện; hệ thống thoát nước và
các dịch vụ xử lý phế thải được Chính phủ cung cấp.
Loại thứ hai là các chi phí môi trường được quy đổi do việc làm cạn kiệt và
giảm giá trị nguồn tài nguyên môi trường.


1.2.1.2. Phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh của Nhật Bản
Công thức tính:
GDP xanh

=

NDP

-

Chi phí về môi trường
được quy đổi

(1.17)


25

Cấu trúc chỉ tiêu GDP xanh, thể hiện qua Sơ đồ số 1.3 như sau:
NDP

EDP

GDP

Chi phí thực tế môi trường
(Một phần giá trị tăng thêm)

Chi phí môi
trường quy đổi


Khấu hao tài
sản cố định
Sơ đồ số 1.3. Mô tả cấu trúc chỉ tiêu GDP xanh ở Nhật Bản
Nguồn: Green GDP Estimates in China, Indonesia and Japan: An Application
of the UN Environmental and Economic Accounting System, tr.48
* Ước tính các chi phí môi trường được quy đổi
Nhật Bản đã ứng dụng một số phương pháp để ước tính các chi phí môi trường
được quy đổi đối với việc làm giảm bớt sự suy thoái hoặc làm cạn kiệt các tài sản tự
nhiên phi sản xuất, trong thực tế đã có nhiều phương pháp được đưa ra để tính toán giá
trị này. SEEA của Nhật Bản đã sử dụng một trong số các phương pháp đó là phương
pháp chi phí duy trì, (cái được cho là phù hợp hơn cả với nguyên tắc đánh giá trong
SNA và khái niệm phát triển bền vững). Hay phương pháp chi phí giữ gìn môi
trường được định nghĩa như là các phí tổn được quy định phải trả thêm để ngăn chặn
việc phá huỷ các tài sản thiên nhiên một cách thường xuyên. Ví dụ, chi phí về ô
nhiễm không khí, được tính trong cả quá trình giữ gìn các trang thiết bị dùng làm
giảm ô nhiễm và giảm bớt việc sinh ra các chất gây ô nhiễm môi trường. Nên chú ý
chi phí để giữ gìn môi trường không phải là khoản tiền bồi thường thiệt hại cho môi
trường hay đúng hơn, nó là chi phí liên quan đến việc ngăn chặn bồi thường thiệt hại
về môi trường xảy ra.
SEEA của Nhật Bản bao gồm các chi phí môi trường đã được quy đổi, đối với xử
lý vấn đề về ô nhiễm không khí và ô nhiễm môi trường nước và khắc phục việc phá huỷ
hệ thống sinh thái do mở rộng đất và chặt đốn cây cối, việc làm cạn kiệt các nguồn dầu
dưới lòng đất và làm thay đổi khí hậu toàn cầu ngày càng nóng lên.


×