Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Đề cương bài giảng Lý luận dạy học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.61 KB, 64 trang )

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA GIÁO DỤC HỌC (2,0,10)
I. KHÁI QUÁT VỀ GIÁO DỤC (0.5,0,2.5)
1. Giáo dục là một hiện tượng xã hội
Hiện tượng xã hội là hiện tượng nảy sinh, tồn tại và phát triển trong xã hội loài
người, nó phản ánh những mối quan hệ, những dạng hoạt động khác nhau của con
người.
Cùng với sự xuất hiện xã hội loài người cũng đồng thời xuất hiện hiện tượng:
Con người muốn tồn tại, phát triển không những chỉ tham gia vào các quan hệ xã hội
mà còn tham gia vào lao động để tạo ra nguồn sống và của cải thế giới xung quanh,
dần dần tích luỹ kinh nghiệm sống, kinh nghiệm lao động để chinh phục thiên nhiên.
Từ đó làm nảy sinh nhu cầu:
Người lớn dạy cho trẻ em những gì họ đã tích lũy, ngược lại, trẻ em học ở người
lớn những điều đó. Lúc đầu công việc này được thực hiện tự phát, sau đó được tổ chức
một cách tự giác, ta gọi đó là hiện tượng GD.
Dấu hiện bản chất của hiện tượng này được thể hiện ở “Sự truyền đạt và lĩnh hội
kinh nghiệm xã hội- lịch sử”. Chủ thể của sự truyền đạt là thế hệ đi trước; chủ thể của
sự lĩnh hội là thế hệ đi sau; nội dung của truyền đạt là kinh nghiệm xã hội- lịch sử.
Kinh nghiệm xã hội là một hệ thống những tri thức, hệ thống phương thức, cách
thức tiến hành hành động, hệ thống thái độ trong việc đánh giá cảm xúc, giá trị đối với
nền văn hóa do con người sáng tạo ra trong tiến trình lịch sử.
Đối với cá nhân nhờ sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội- lịch sử mà mỗi
cá nhân có thể tái tạo ra năng lực người cho bản thân, nhờ đó có sự phát triển tâm lý, ý
thức và phát triển nhân cách.
Đối với XH nhờ sự truyền đạt và lĩnh hội này mà thế hệ đi sau có thể bảo tồn và
phát triển nền văn hóa. Như vậy, một XH muốn tồn tại và phát triển thì XH ấy phải
thực hiện chức năng GD. Đây chính là một tính quy luật của sự phát triển, tiến bộ XH.
Như vậy, với dấu hiệu bản chất nêu trên, GD được coi là một hiện tượng XH vì
nó nảy sinh, tồn tại và phát triển cúng với XH loài người. Nó là một hoạt động mang
tính tất yếu và vĩnh hằng. Ở đâu có XH là ở đó có GD, GD tồn tại mãi mãi với XH loài
người. Đây là hiện tượng chỉ có ở XH loài người, không tồn tại ở các loài động vật
khác.


2. Tính chất của hiện tượng giáo dục


a) Giáo dục có tính lịch sử
Giáo dục xuất hiện do nhu cầu của lịch sử xã hội, nó phản ánh trình độ phát
triển của lịch sử và được quy định bởi điều kiện kinh tế - văn hoá xã hội, mặt khác lại
tác động tích cực vào sự phát triển của lịch sử xã hội.
Mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội có nền giáo dục đặc trưng cho giai
đoạn phát triển đó, tương ứng với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, mục đích giáo
dục, nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục cũng như vai trò và vị trí của giáo dục
cũng có những đặc trưng riêng. Ở Việt nam thời kỳ phong kiến, sản xuất nông nghiệp
đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, giáo dục dành cho thiểu số. Người đi học thuộc
tầng lớp trên, đi học với mục đích thi cử làm quan.
Giáo dục Việt Nam hiện nay nhằm đóng góp tích cực vào sự nghiệp công
nghiệp hoá và hiện đại hoá. Học tập là quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi công dân, "Phát
triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp
hoá và hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để
phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững".
b) Giáo dục có tính giai cấp
Trong xã hội có giai cấp, giáo dục được sử dụng như một công cụ của giai cấp
cầm quyền nhằm duy trì quyền lợi của mình thông qua mục đích, nội dung và phương
pháp giáo dục.
Giai cấp nào dành được nhà trường giai cấp đó sẽ thắng lợi trong cuộc đấu tranh
của mình với giai cấp đối lập. Tính giai cấp của giáo dục là tính quy luật quan trọng
của việc xây dựng và phát triển giáo dục trong XH có giai cấp. Nó quy định bản chất
của giáo dục là một phương thức đấu tranh giai cấp nhà trường là một công cụ chuyên
chính giai cấp, và hoạt động giáo dục cũng như môi trường nhà trường là một vũ đài
của cuộc đấu trang giai cấp
c) Tính vĩnh hằng của giáo dục
Mọi hoạt động dạy học và giáo dục luôn nảy sinh, phát triển và tồn tại mãi mãi

cùng loài người, sự tác động dạy học và giáo dục của XH vào con người diễn ra trong
toàn bộ cuộc đời con người.
Giáo dục là hiện tượng phổ biến vì bất kỳ ở đâu, thời điểm nào có sự tồn tại mối
quan hệ giữa con người với con người thì ở đó diễn ra hoạt động giáo dục. Giáo dục


duy trì sự tồn tại của xã hội loài người, nó không thể mất, nếu không có giáo dục thì sẽ
không tồn tại XH loài người.
d) Giáo dục có tính kế thừa
Về bản chất, giáo dục là sự truyền đạt và tiếp thu hệ thống kinh nghiệm lịch sử
xã hội giữa các thế hệ. Về mục đích, giáo dục là sự định hướng của thế hệ trước cho sự
phát triển của thế hệ sau. Về phương thức, giáo dục là cơ hội giúp mọi cá nhân đạt tới
hạnh phúc và là cơ sở đảm bảo cho sự kế thừa, tiếp nối và phát triển những thành tựu
văn hoá của xã hội loài người. Các thế hệ đi trước tích luỹ hệ thống kinh nghiệm xã
hội trong quá trình lịch sử và tổ chức truyền đạt lại cho các thế hệ sau. Các thế hệ sau
tiếp thu một cách năng động, sáng tạo hệ thống kinh nghiệm đó và làm phong phú
thêm hệ thống kinh nghiệm của xã hội. Như vậy, nhờ có giáo dục mà các thế hệ nối
tiếp nhau phát triển, tinh hoa văn hoá dân tộc và nhân loại được kế thừa, bổ sung và
trên cơ sở đó mà xã hội loài người không ngừng tiến lên
e) Giáo dục có tính dân tộc
Ở mỗi nước, trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định đều có một nền giáo dục riêng
biệt. Con người sinh sống trên nhiều lãnh thổ quốc gia khác nhau, chịu sự ảnh hưởng
của điều kiện tự nhiên khác nhau, có điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau, phong tục,
tập quán khác nhau, do đó mà giáo dục cũng có nội dung, tính chất và đặc điểm khác
nhau. Mỗi quốc gia đều có một truyền thống lịch sử, một nền văn hoá riêng nên giáo
dục của mỗi nước cũng có những nét độc đáo, những sắc thái đặc trưng thể hiện trong
mục đích, nội dung, phương pháp và trong sản phẩm giáo dục của quốc gia mình.
3. Chức năng của giáo dục
Với tư cách là hiện tượng XH nên GD có khả năng tác động đến những hiện tượng và
quá trình XH khác. Sự tác động này dưới góc độ XH học là chức năng XH của GD.

Như vậy GD tác động đến XH thông qua việc thực hiện các chức năng của mình, đó
là:
3.1. Chức năng kinh tế- sản xuất
Nói GD có chức năng này có nghĩa là GD có khả năng tác động tới quá trình sản
xuất XH và góp phần làm tăng trưởng kinh tế quốc gia. Điều này thể hiện ở chỗ GD
thông qua đào tạo đã giúp cho mỗi cá nhân tái tạo ra năng lực người, phát huy sức
mạnh thể chất và tinh thần bản thân. Qua đó, GD cung cấp cho XH một đội ngũ những
người lao động có chất lượng.


Xu hướng phát triển của XH hiện đại là áp dụng những thành tựu KHKT vào
thực tiễn sản xuất. Ngày nay, KHKT đã trở thành một lựa lượng sản xuất trực tiếp, và
GD chính là con đường thuận lợi để phổ biến KH.
Để thực hiện tốt chức năng này, GD phải tập trung thực hiện những yêu cầu
cơ bản sau:
- GD phải gắn với thực tiễn XH, đáp ứng nguồn nhân lực theo yêu cầu phát
triển KT- SX trong từng giai đoạn cụ thể.
- XD nền GDQD cân đối, đa dạng nhằm thực hiện 3 mục tiêu: Nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài.
- Hệ thống GDQD không ngừng đổi mới ND, PP, phương tiện…
3.2. Chức năng tư tưởng- chính trị
Nói GD có chức năng này có nghĩa là GD có khả năng tác động tới các giai cấp,
các nhóm, các giai tầng trong XH, góp phần làm thay đổi tính chất, cơ cấu của chúng,
làm cho quan hệ sản xuất ngày càng trở nên cần thiết, thể hiện như sau:
- Thông qua việc nâng cao trình độ học vấn cho cá nhân, GD đã tạo điều kiện cho mỗi
người có thể chuyển đổi giai cấp. Chính điều đó đã tác động đến cơ cấu giai cấp và
nhóm xã hội sẽ thay đổi.
-

Bằng việc nâng cao dân trí, GD tác động đến từng thành viên của giai cấp, của


các nhóm XH và thông qua những thành viên này làm cho giai cấp tiếp cận được với
văn minh chung của nhân loại.
-

Cũng thông qua việc nâng cao dân trí, GD nâng cao nhận thức của công dân, tạo

điều kiện để họ có hành vi đúng trong quan hệ ứng xử, nhờ đó mà quan hệ giữa con
người với con người ngày càng trở nên thuần khiết hơn.
2.3. Chức năng văn hóa- xã hội
GD có tác dụng to lớn trong việc xây dựng một hệ tư tưởng chi phối toàn dân,
xây dựng một lối sống phổ biến trong toàn XH. Trình độ văn hóa của XH thông qua
phổ cập GD ngày càng được nâng cao dần, qua đó mà tạo ra nguồn nhân lực đông đảo
với chất lượng cao, đồng thời có điều kiện phát hiện và bồi dưỡng nhân tài.
(“Một dân tộc không được GD- dân tộc đó sẽ bị loài người đào thải, một cá nhân
không được GD- cá nhân đó sẽ bị xã hội loại bỏ- A.Toffer).
Chức năng văn hoá - xã hội của giáo dục thể hiện ở các mặt sau:
Nâng cao dân trí


Trình độ dân trí được thể hiện ở trình độ văn hóa - đạo đức - thẫm mỹ ... của
con người với tư cách là thành viên của xã hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Giáo dục là quá trình truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử – xã hội của các thế
hệ, quá trình này giúp cho mọi cá nhân tích luỹ kiến thức, mở mang trí tuệ, hình thành
văn hoá, đạo đức, giúp xã hội bảo tồn và phát triển nền văn hoá của nhân loại. Giáo
dục nhằm xây dựng và hình thành mẫu người mà xã hội yêu cầu, qua đó mà đóng góp
vào sự phát triển của xã hội.
Trình độ dân trí của nhân dân mỗi nước là kết quả tổng hợp của nhiều lĩnh vực
giáo dục: Giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình, giáo dục xã hội và tự rèn luyện, tự
giáo dục của mỗi cá nhân. Trong đó giáo dục nhà trường luôn luôn đóng vai trò nòng

cốt, là lực lưỡng chủ lực trong việc nâng cao trình độ dân trí của nhân dân.
Giáo dục được thực hiện bằng nhiều con đường, trong đó con đường quan trọng
nhất là tổ chức dạy học và đào tạo. Quá trình đạy học và đào tạo trang bị cho học sinh
hệ thống kiến thức khoa học, bồi dưỡng phương pháp tư duy sáng tạo và kỷ năng hoạt
động thực tiễn, nhằm nâng cao trình độ học vấn, hình thành lối sống văn hoá. Như vậy
giáo dục đã thực hiện chức năng nâng cao dân trí xã hội.
Để thực hiện tốt chức năng này nhà nước đã xây dựng một hệ thống giáo dục từ
bậc mầm non đến đại học, bằng mọi hình thức: dân lập, bán công, quốc lập, tư thục,
chính quy, tại chức, giáo dục thường xuyên...Để dân trí ngày càng nâng cao, giáo dục
phải luôn luôn đổi mới (mới về mục tiêu, về nội dung, về phương pháp và hình thức tổ
chức thực hiện...) đáp ứng các yêu cầu phát triển và tiến bộ xã hội theo hướng nhân
văn hóa, đa dạng hóa, xã hội hóa.
Bồi dưỡng nhân tài
Nền giáo dục của bất cứ quốc gia nào, thời đại nào không những hướng vào
việc nâng cao dân trí mà còn hướng vào việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài.
Nhân tài là những nhân vật xuất chúng có năng lực và trí tuệ đặc biệt, thể hiện ở
khả năng trực giác và suy luận cao, có tầm nhìn xa, trông rộng và có khả năng phát
hiện giải quyết nhanh, có hiệu quả những vấn đề họ gặp phải trong các lĩnh vực văn
hoá, khoa học, công nghệ, chính trị ...
Trong chiến lược bồi dưỡng nhân tài, giáo dục đóng vai trò quan trọng. Các nhà
trường có nhiệm vụ phát hiện, bồi dưỡng nhân tài bằng việc thường xuyên tổ chức các
kỳ thi học sinh giỏi để tuyển lựa các học sinh có khả năng đặc biệt ngay từ lúc nhỏ để


đưa vào học trong các trường chuyên, các lớp năng khiếu với quá trình huấn luyện
công phu với những phương pháp giáo dục tiên tiến. Mỗi quốc gia đều quan tâm đến
việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài và thường xuyên có chính sách trọng dụng nhân
tài. Nhân tài được trọng dụng, được tạo điều kiện làm việc thuận lợi, họ sẽ cống hiến
tài năng, sẽ đem lại vẻ vang cho đất nước. Việc bồi dưỡng nhân tài phải đi song song
với việc thu hút, sử dụng nhân tài một cách hợp lý, tận lực khai thác các tiềm năng,

chất xám các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ, tạo điều kiện cho các tài năng nảy nở, phát
triển, tạo nên sức mạnh "nội lực" mạnh mẽ trong quá trình tiếp cận và hội nhập với thế
giới bên ngoài
Kết luận chung:
- GD thông qua các chức năng của mình đã tác động sâu sắc và toàn diện tới
các lĩnh vực khác nhau của đời sống XH. Điều này khẳng định GD là nhân tố, là động
lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển XH.
- Nhận thức rõ vai trò của GD với sự phát triển XH nên Đảng và Nhà nước ta
đã có quan điểm PT GD rất đúng đắn là: “Coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu”; “Đầu
tư cho GD là đầu tư cho PT”; “GD vừa là mục đích, vừa là động lực cho sự PT XH”.
Chương 1: Quá Trình dạy học
1. Khái niệm QTGD
Quá trình GD là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức chặt chẽ của nhà
GD với người được GD thông qua con đường dạy học và các biện pháp GD chuyên
biệt khác nhằm hình thành và phát triển những quan điểm, thế giới quan khoa học,
niềm tin, lý tưởng, thái độ, phẩm chất kỹ năng, kỹ xảo và hành vi, thói quen đạo đức.
- Khi đi vào phân tích khái niệm QTGD, chúng ta phải chú ý tới tính 2 mặt của nó:
+ Mặt chủ đạo của nhà GD: Nhà GD thực hiện vai trò chủ đạo của mình thông qua
việc định hướng mục đích GD, lựa chọn ND, các PPGD, thống nhất các yếu tố của
QTGD.
+ Mặt chủ động, tự giác của người được GD: Người GD không tiếp nhận QTGD
một cách thụ động, máy móc, trái lại, họ đáp ứng các tác động GD thông qua hoạt
động tích cực của bản thân, chủ động chuyển hóa những yêu cầu GD thành những
năng lực và phẩm chất cá nhân.


Qua đó ta thấy rằng QTGD muốn đạt được hiệu quả thì phải có sự kết hợp, thống nhất
giữa 2 mặt hoạt động trên.
- QTGD được thực hiện ở gia đình, nhà trường và XH.
2. Cấu trúc của QTGD

- Mục đích GD
- Nhà GD
- Học sinh
- Nội dung GD
- Phương pháp GD
- Kết quả GD.
3. Bản chất của QTGD
- Nét bản chất của QTGD là một quá trình tổ chức cuộc sống, các loại hoạt động và
giao lưu phong phú, qua đó làm cho người được GD ý thức đúng đắn và sâu sắc về nội
dung chuẩn mực và ý nghĩa XH của việc thực hiện những chuẩn mực đó, giúp họ tích
lũy những kinh nghiệm thực tiễn tích cực, có nhu cầu và thói quen hành động đúng
đắn trong các mối quan hệ XH, đồng thời giúp họ xây dựng ý thức và năng lực xóa bỏ
những tàn dư của các quan hệ cũ và khẳng định những quan hệ mới trong mọi lĩnh vực
của cuộc sống.
- QTGD nhất thiết phải chuyển hóa thành quá trình tự GD, có như vậy mới thể hiện
được đầy đủ sự tích cực của người được GD đối với những tác động của nhà GD.
4. Đặc điểm của QTGD
4.1. QTGD bao gồm tác động của rất nhiều nhân tố
Bao gồm cả nhân tố khách quan và chủ quan, bên ngoài và bên trong… Đó là ảnh
hưởng của các sự kiện kinh tế- chính trị, pháp chế- hành chính, tư tưởng- văn hóa, tâm
lý- tập quán… của XH, đoàn thể đang từng ngày từng giờ tác động đến sự hình thành
và phát triển nhân cách học sinh. Ngay trong nội bộ nhà trường cũng có rất nhiều tác
động ảnh hưởng đến tâm lý học sinh: Giáo viên, nhân viên, bạn bè, tập thể, quy chế,
cơ sở vật chất…
4.2. QTGD đòi hỏi thời gian lâu dài mới thu được kết quả
Sở dĩ như vậy vì đó là niềm tin, tình cảm, là thói quen, là động cơ, là hệ thống những
hành động và hành vi. Những phẩm chất nhân cách mới chỉ được hình thành sau khi


người học đã trải qua một thời kỳ nhận thức, thể nghiệm, tập luyện và cả đấu tranh

trong cuộc sống nữa.
4.3. QTGD bao giờ cũng mang tính cụ thể, biến dạng theo từng cá nhân người
được GD và theo từng tình huống GD riêng biệt
Mỗi học sinh đều có những kinh nghiệm và thói quen riêng đã được hình thành từ tuổi
thiếu niên, và trong bản thân mỗi người cũng đã có những niềm tin riêng. Nếu nhà GD
không tính đến “cái vốn” nhân cách cụ thể của từng người học thì không thể biến yêu
cầu khách quan của XH thành yêu cầu của bản thân người học, thành “cái vốn” XH
của cá nhân họ được.
4.4. QTGD mang tính biện chứng rất cao
Đó là một quá trình biến động và phát triển không ngừng về nội dung, PP và hình thức
tổ chức QTGD sao cho phù hợp với đối tượng GD là những con người đang trưởng
thành, đang phát triển trong những điều kiện và hoàn cảnh XH luôn luôn thay đổi. Đó
là quá trình không ngừng giải quyết các mâu thuẫn đang nảy sinh trong nhân cách
người học.
Tóm lại: Công tác GD so với công tác dạy học là một loại lao động phức tạp và khó
khăn, đòi hỏi nhà GD phải có những phẩm chất cao về trí tuệ và ý chí, tình cảm nhân
hậu vị tha, có tri thức KH hiện đại và những kinh nghiệm thực tiễn sinh động. Những
thành công trong công tác GD sẽ để lại dấu ấn tốt đẹp, lâu bền trong quan hệ thầy trò,
trong tâm hồn mỗi người học.
5. Động lực và các khâu của QTGD
5.1. Động lực của QTGD
Động lực của QTGD chính là kết quả giải quyết tốt giữa một bên là các yêu cầu,
nhiệm vụ GD mới đang đặt ra cho người được GD với một bên là trình độ được GD và
phát triển hiện có của người được GD.
5.2. Các khâu của QTGD
- Bồi dưỡng, nâng cao nhận thức làm cơ sở cho hành động.
- Bồi dưỡng những tình cảm đúng đắn, lành mạnh, phù hợp với các quan niệm, chuẩn
mực đạo đức, quan hệ ứng xử- XH.
- Rèn luyện hình thành hành vi thói quen.
6. Vấn đề tự GD và GD lại



6.1. Tự GD: Là hoạt động có ý thức, có mục đích của cá nhân, hướng vào việc xây
dựng, hoàn thiện những phẩm chất nhân cách bản thân cho phù hợp với những quan
niệm giá trị và những định hướng XH được hình thành do tác động của ĐK sống và
của GD.
6.2. GD lại: Là hoạt động GD nhằm thay đổi những quan điểm, những phán đoán,
những đánh giá không đúng đắn của học sinh, cải biến các thói quen, hành động không
tốt đã hình thành ở học sinh
- GD lại là một quá trình khó khăn, lâu dài và phức tạp hơn việc GD. Để các tật xấu
nhiễm lâu và sâu trong nhân cách, nhất là để tính tình bị hư hỏng, nhân cách bị suy
thoái thì đôi khi phải tiến hành GD lại trong những cơ quan đặc biệt.
- QTGD lại đòi hỏi phải xác đinh được các nguyên nhân cơ bản của những sai lệch
trong sự phát triển nhân cách học sinh; xác định các con đường và các phương tiện để
làm thay đổi nếp nghĩ, thói quen và hành vi xấu trước kia; phải tổ chức cho học sinh
tham gia tích cực vào các hoạt động có ích, xây dựng được một hệ thống các yêu cầu
và các biện pháp kiểm tra, các phương tiện khuyến khích, khen thưởng
Chương 2: Nguyên Tắc giáo dục
1. Khái niệm: Nguyên tắc GD là những luận điểm xuất phát, có tính quy luật, chỉ đạo
phương hướng xây dựng nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức quá trình GD
nhằm hình thành con người theo mục đích GD đã đề ra.
2. Hệ thống các nguyên tắc GD
2.1. Nguyên tắc 1: Đảm bảo tính mục đích trong hoạt động GD
+ Nội dung nguyên tắc:
Điều cốt lõi của nguyên tắc là ở chỗ, trong quá trình giáo dục, trước khi tổ chức
thực hiện một hoạt động giáo dục cụ thể, nhà giáo dục phải xác định mục đích cần đạt
được, phải đặt ra những câu hỏi: hoạt động này nhằm mục đích gì? đem lại lợi ích gì
trước mắt và lâu dài? hiệu quả của hành động này dẫn tới đâu ? Khi xác định đúng
mục đích giáo dục thì việc giáo dục sẽ có hiệu quả.
Tất cả các biện pháp tác động (ảnh hưởng GD) phải hướng vào việc xây dựng

mẫu người mà GD đã đặt ra, đó là những nhân cách PT toàn diện, cân đối cả phẩm
chất và năng lực, cả đức và tài.


+ Biện pháp thực hiện:
- Mục đích đó phải được quán triệt một cách đầy đủ trong mọi hoạt động giáo dục của
nhà trường, từ việc xây dựng nội dung giáo dục, lựa chọn các phương pháp giáo dục
đến tổ chức các hình thức giáo dục. Quá trình giáo dục dù thực hiện nội dung môn học
gì, dưới hình thức nào, diễn ra ở đâu...đều phải hướng vào mục đích giáo dục, mục tiêu
đào tạo của nhà trường. Phải khắc phục mọi biểu hiện tự do, tuỳ tiện trong GD
- Quán triệt chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh về GD, thực hiện đường
lối, nhiệm vụ cách mạng của Đảng và Nhà nước về tư tưởng, văn hóa, GD.
- Coi trọng GD thế giới quan chủ nghĩa Mac-Lenin và tư tưởng Hồ CHí Minh, đường
lối, chính sách GD của Đảng và Nhà nước cho học sinh.
- Đảm bảo ý nghĩa chính trị XH, tác dụng GD tư tưởng và đạo đức của các loại hình
hoạt động XH và các mối quan hệ mà học sinh tham gia.
- Tổ chức quản lý chặt chẽ công tác GD trong và ngoài nhà trường, đảm bảo sự lãnh
đạo của các tổ chức và phát huy vai trò Đoàn, Đội và các tập thể học sinh trong công
tác GD.
2.2. Nguyên tắc 2: Giáo dục gắn với đời sống xã hội
+ Nội dung nguyên tắc: Công tác GD thế hệ trẻ phải phù hợp với đường lối xây dựng
đất nước trong từng giai đoạn; phải dựa vào những tác động và ảnh hưởng GD của các
quan hệ kinh tế, XH, của các lý tưởng chính trị- đạo đức, thẩm mỹ, lối sống có văn
hóa; phải từng bước gắn công tác giảng dạy- học tập, GD với cuộc đấu tranh XD và
bảo vệ Tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
+ Biện pháp thực hiện
- Làm cho học sinh quan tâm đến những sự kiện lớn trong đời sống, chính trị,kinh tế,
quốc phòng, văn hóa- XH của đất nước.
- Tổ chức cho HS tùy theo từng lứa tuổi, từng cấp học tham gia vào các phong trào
kinh tế, văn hóa- xã hội góp phần thực hiện những nhiệm vụ cách mạng mà Đảng và

Nhà nước đã đề ra.
- Khắc phục lối GD chỉ đóng khung trong trường học, lớp học, tách rời công tác GD
của nhà trường với các phong trào chính trị-XH của nhân dân.
2.3. Nguyên tắc 3: Thống nhất giữa ý thức và hành vi của học sinh trong công tác
GD


+ NDNT: Trong công tác GD nhất thiết phải coi trọng việc xây dựng ý thức cũng như
việc tổ chức tập luyện hành động cho HS, đảm bảo cho ý thức và hành động cũng như
lời nói và việc làm của mỗi người đạt đến sự thống nhất, phù hợp với nguyên tắc, tư
tưởng chính trị và đạo đức XHCN. Đề phòng và khắc phục tình trạng tách rời giữa ý
thức và hành động, hoặc giữa tâm trạng bên trong và biểu hiện bên ngoài.
+ Biện pháp thực hiện:
- Chú ý giúp HS hiểu sâu sắc các khái niệm, chuẩn mực, định hướng giá trị về mặt đạo
đức, pháp luật, lao động thẩm mỹ, thể chất phù hợp với từng lứa tuổi.
- Tổ chức có mục đích các hoạt động cho HS tham gia nhằm giúp các em tích lũy
những kinh nghiệm thực tiễn tích cực, biến những kinh nghiệm XH ấy thành kinh
nghiệm của bản thân mình.
2.4. Nguyên tắc 4: Giáo dục trong lao động và bằng lao động
+ NDNT: Công tác GD phải thông qua việc tổ chức cho HS tham gia các loại hình lao
động vừa sức, nhờ đó mà hình thành cho các em thái độ kính trọng người lao động,
thừa nhận giá trị lớn lao của lao động, có thái độ đúng đắn đối với tài sản XH, hình
thành lối sống cần cù, giản dị, tiết kiệm, trong sạch. Đồng thời, qua đây mà xây dựng
cho họ niềm tin sâu sắc rằng chỉ có tham gia vào sản xuất những giá trị cho XH họ
mới có quyền thỏa mãn một số đòi hỏi của bản thân, và bằng lao động của mình họ
phải sáng tạo nhiều phúc lợi vật chất hơn so với những cái họ được hưởng.
+ BPTH:
- Kết hợp GD lao động với việc GD tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, văn hóa.
- Tổ chức cho HS tham gia các loại hình lao động vừa sức. Các hoạt động ấy vừa
mang lại lợi ích cho cá nhân, tập thể và XH; vừa phải đảm bảo ý nghĩa tích cực.

- Khắc phục sự do dự, ngại khó, không mạnh dạn đưa lao động vào nhà trường. Đồng
thời cũng phải khắc phục khuynh hướng đơn giản, hình thức chủ nghĩa trong việc tổ
chức lao động cho HS.
2.5. Nguyên tắc 5: Giáo dục trong tập thể và bằng tập thể
+ NDNT: Nguyên tắc này đòi hỏi nhà GD phải coi trọng việc XD và GD tập thể HS,
đặc biệt là các tổ chức chính trị của họ ( Đoàn, Đội…), coi đó là môi trường quan
trọng và là phương tiện GD mạnh mẽ để hình thành nhân cách cho HS cũng như phát
huy sở trường, năng khiếu của mỗi cá nhân.


+ BPTH:
- Xây dựng các mối quan hệ, giao lưu đúng đắn trong tập thể.
- Tổ chức các hoạt động chung của tập thể, đặc biệt là các hoạt động vui chơi, hoạt
động XH.
- Tổ chức cuộc sống tinh thần phong phú, lành mạnh, mổ ích của tập thể và mỗi thành
viên, xây dựng dư luận lành mạnh và truyền thống tốt đẹp của tập thể.
- Coi tập thể là đối tượng GD và hướng các tác động vào đó, đồng thời cũng coi tập
thể là phương tiện GD mạnh mẽ đến từng thành viên, nghĩa là phải thực hiện quá trình
tác động song song.
- Khắc phục hiện tượng quá thiên về lối GD “tay đôi” hay hiện tượng “tập thể giả”.
2.6. Nguyên tắc 6: Tôn trọng nhân cách HS kết hợp đòi hỏi hợp lý đối với họ
+ NDNT:
+) Tôn trọng nhân cách: Có nghĩa là luôn luôn đề cao phẩm giá, lòng tự trọng của
HS, tin tưởng vào ý muốn tốt đẹp, tinh thần cầu tiến, nghị lực và khả năng tiềm tàng
của HS, luôn đề ra giả thuyết lạc quan về sự hoàn thiện nhân cách của các em. Tuy
nhiên cần lưu ý, tôn trọng ở đây là tôn trọng phẩm giá, đạo đức, trí tuệ, tài năng … chứ
không có nghĩa là tôn trọng cả cái hư, cái xấu của HS.
+) Đòi hỏi cao và hợp lý với HS: Có nghĩa là biết đòi hỏi họ có những cố gắng hơn,
tích cực hơn; biết đề ra những tiêu chuẩn, những mục tiêu phấn đấu hợp lý, vừa sức,
ngày càng được nâng cao để thúc đẩy họ không ngừng vươn lên. Mặt khác, cần có thái

độ nghiêm khắc, đúng mức đối với những thiếu xót, sai lầm của họ, song không vì thế
mà có thái độ gay gắt, mệnh lệnh hay mỉa mai, nhạo báng HS; nên có thái độ đúng
mực, tế nhị, có lý, có tình, nghiêm mà không khắt khe, dân chủ mà không xuề xòa.
+ BPTH: Nhà GD cần phải:
- Luôn tìm tòi và phát hiện kịp thời những ý nghĩ và hành động tích cực mới xuất hiện,
những mầm mống tốt đẹp vừa mới biểu hiện trong nhân cách HS để ra sức chăm sóc,
vun xới.
- Biết dựa vào những mặt tốt, mặt tích cực trong nhân cách HS để khắc phục cái tiêu
cực, yếu kém trong họ.
- Thiết lập mối quan hệ tốt đẹp giữa người GD và người được GD trên cơ sở tôn trọng,
tin cậy lẫn nhau.


- Cần biết đánh giá đối tượng GD cao hơn một chút so với những cái họ đang có.
- Khắc phục tình trạng định kiến, bi quan, thiếu tin tưởng vào khả năng phát triển,
hoàn thiện nhân cách HS, đồng thời khắc phục hiện tượng nuông chiều, buông thả, tự
do chủ nghĩa,
2.7. Nguyên tắc 7: Kết hợp sự lãnh đạo sư phạm của giáo viên với việc phát huy
tính chủ động, độc lập, sáng tạo của HS
+ NDNT: Nguyên tắc này đòi hỏi nhà GD trên cơ sở theo dõi khéo léo và chặt chẽ quá
trình cũng như kết quả hoạt động của HS và tập thể HS, qua đó phát huy được tính tự
giác, tự nguyện, năng động, sáng tạo của họ trong việc xác định nhiệm vụ và lựa chọn
các biện pháp GD.
+ BPTH:
- Đề cao vai trò làm chủ của HS và các tổ chức của họ.
- Cần trao đổi, bàn bạc dân chủ với HS về ND, BP và hình thức GD
- Ủng hộ những giải pháp tích cực và những sáng kiến của HS, thuyết phục và biết chờ
đợi việc từ bỏ cách làm sai của các em.
- Từng bước xây dựng chế độ tự quản trong lớp và trong trường. Tránh lối GD tự do
chủ nghĩa, để mặc HS muốn làm gì thì làm theo hứng thú của họ.

2.8. Nguyên tắc 8: Đảm bảo tính hệ thống, tính kế tiếp và tính liên tục trong công
tác GD
+ NDNT: Nguyên tắc này đỏi hỏi phải tiến hành một cách lâu dài, có hệt thống công
tác GD nhân cách và việc hình thành từng phẩm chất nói riêng cho HS phải dựa vào
những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen, kinh nghiệm sống của các em; phải thực
hiện theo từng bước, từng cấp, phải tiến hành liên tục, thường xuyên.
+ BPTH:
- NDDH phải được xây dựng theo kiểu đồng tâm, mở rộng
- Trong suốt QTGD, mỗi phẩm chất được hình thành phải luôn được củng cố, tập
luyện, nâng cao nhiều lần.
- Thực hiện GD liên tục, thường xuyên, ở mọi nơi, mọi lúc và do mọi người, qua mọi
việc; kết hợp chặt chẽ GD trên lớp và ngoài lớp, trong trường và ngoài trường, gia
đình và XH.


2.9. Nguyên tắc 9: Thống nhất các yêu cầu GD của nhà trường, gia đình và XH
+ NDNT: Nguyên tắc này đòi hỏi phải đảm bảo tính thống nhất avf tính toàn vẹn cảu
QTGD bằng cách phối hợp chặt chẽ hoạt động của các chủ thể bên trong nhà trường
cũng như bên ngoài nhà trường theo một kế hoạch, chương trình GD thống nhất về
mục đích, nội dung, hình thức, PP tổ chức và phương tiện GD; biết phát huy những
mặt mạnh của chủ thể GD.
+ Biện pháp thực hiện:
- Nhà trường tổ chức phối hợp hoạt động các lực lượng GD trong XH trong mối quan
hệ hợp tác chặt chẽ với nhà trường.
- Phối hợp các kế hoạch chăm sóc, GD HS của các tập thể Sư phạm, của hội phụ
huynh HS, các đoàn thể XH, các cơ quan văn hóa, các cơ sở kinh doanh sản xuất.
- Theo dõi chặt chẽ tiến trình GD và phải đánh giá nghiêm túc kết quả công tác GD.
- Tổ chức tiến hành phổ biến tri thức KHGD cho cha mẹ HS, cho cán bộ và nhân dân
địa phương.
2.10. Tính đến đặc điểm lứa tuổi của đối tượng GD

+ NDNT: Nhà GD khi lựa chọn ND, PP, phương tiện, hình thức tổ chức QTGD phải
tính đến những đặc điểm tâm-sinh lý từng lứa tuổi, từng cá nhân HS.
+ BPTH:
- Nhà GD phải am hiểu và nắm vững đặc điểm tâm – sinh lý lứa tuổi và cảu từng cá
nhân HS trong lứa tuổi đó.
- Nghiên cứu đặc điểm của từng đối tượng GD thông qua các hoạt động thường ngày,
qua tập thể HS, qua bạn bè và gia đình, trên cơ sở đó mà đề ra các biện pháp GD cho
phù hợp.
*** Mối quan hệ giữa các NTGD: Quan hệ chặt chẽ, tương hỗ với nhau, kết hợp cùng
nhau để hoàn thành nhiệm vụ GD đã đề ra.
Chương 3: Nội dung giáo dục
1. Những nội dung giáo dục cơ bản trong nhà trường
1.1. GD đạo đức và ý thức công dân
a) G D đạo đức


* Ý nghĩa của GD đạo đức:
- GD đạo đức có vai trò thúc đẩy sự ổn định lâu dài của XH.
- GD đạo đức có vị trí hàng đầu và chủ đạo trong GD nhà trường, có vai trò định
hướng cho các NDGD khác.
- GD đạo đức giúp thế hệ trẻ hình thành hệ thống lập trường chính trị, quan điểm, thế
giới quan Macxit và phẩm chất đạo đức phù hợp với chuẩn mực đạo đức của XH.
* Nhiệm vụ GD đạo đức:
- Hình thành cho HS thế giới quan KH, nắm được những quy luật của sự phát triển
XH, có ý thức thực hiện nghĩa vụ công dân, từng bước trang bị cho HS định hướng
chính trị kiên định, rõ ràng.
- Giúp HS hiểu và nắm vững những vấn đề cơ bản trong đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, có ý thức học tập, làm việc theo Hiến pháp và pháp
luật.
- Bồi dưỡng cho HS năng lực phán đoán, đánh giá đạo đức, hình thành niềm tin đạo

đức cho các em.
- Dẫn dắt các em rèn luyện hành vi, thói quen đạo đức…
* ND GD đạo đức:
- GD lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mac- Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh
- GD chủ nghĩa yêu nước
- GD lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản
- GD chủ nghĩa tập thể
- GD lòng nhiệt tình, hăng say lao động, có ý thức bảo vệ tài sản XHCN
- GD dân chủ và pháp chế XHCN
- GD hành vi văn minh trong XH, GD ý thức công dân…
* Các con đường GD đạo đức cho HSPT:
- Qua giảng dạy môn GDCD và các môn học khác.
- Qua hoạt động ngoại khóa, lao động sản xuất, hoạt động của Đoàn, Đội, công tác chủ
nhiệm lớp…
b) GD ý thức công dân: Có nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Giáo dục chính trị- tư tưởng cho HS
- GD cho HS ý thức và hành vi pháp luật.
1.2. GD thẩm mỹ


* Ý nghĩa của GD thẩm mỹ
- GD thẩm mỹ có thể mở rộng tầm nhìn cho HS, phát triển trí lực và tinh thần sáng tạo
của các em.
- GD thẩm mỹ làm cho tâm hồn HS trở nên trong sáng hơn, rèn luyện cảm xúc, hoàn
thiện phẩm chất đạo đức cho các em.
- GD thẩm mỹ giúp HS vươn tới cái đẹp, biết thể hiện cái đẹp trong mọi lĩnh vực của
cuộc sống, tức là biết xây dựng cuộc sống theo quy luật của cái đẹp.
* Nhiệm vụ của GD thẩm mỹ trong nhà trường:
- Hình thành cho HS quan niệm thẩm mỹ đúng đắn, nâng cao năng lực thẩm mỹ
- Bồi dưỡng tình cảm thẩm mỹ lành mạnh, kích thích HS yêu thích cái đẹp và vươn tới

cái đẹp chân chính.
- Giúp HS phát triển năng lực biểu hiện và sáng tạo cái đẹp.
* Các con đường GD thẩm mỹ:
- GD nghệ thuật
- Thông qua dạy và học các bộ môn KH, đặc biệt là KHXH và nhân văn
- Thông qua xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trong gia đình, nhà trường và
XH.
- GD cái đẹp trong tự nhiên.
1.3. GD lao động và hướng nghiệp
a) GD lao động
* Nhiệm vụ của GD lao động
- GD cho HS thái độ đúng đắn với lao động
- Cung cấp cho HS học vấn kỹ thuật tổng hợp, phát triển tư duy kỹ thuật hiện đại
- Chuẩn bị cho HS kỹ năng lao động kỹ thuật nghề nghiệp ở một số lĩnh vực nghề
nghiệp nhất định
- Hình thành cho HS thói quen lao động có văn hóa
- Tổ chức các hoạt động nhằm giúp HS hiểu biết cơ bản về các ngành, nghề, thị trường
lao động trước mắt và lâu dài
- Tổ chức cho HS trực tiếp tham gia lao động sản xuất và các loại hình lao động khác
góp phần sáng tạo những giá trị vật chất, tinh thần cho bản thân và XH.
* Một số loại hình lao động


- Lao động học tập
- Lao động sản xuất của HS trong nhà trường
- Lao động công ích XH
- Lao động tự phục vụ.
* Một số yêu cầu để tổ chức lao động cho HS có hiệu quả
- Tổ chức cho HS tham quan các cơ sở sản xuất theo kế hoạch, phân bố ND của GD
lao động theo trình tự GD.

- Lựa chọn đa dạng lao động để HS làm quen với các dạng lao động XH phong phú.
- Lựa chọn các hình thức LĐ theo hướng phức tạp dần và phù hợp với lứa tuổi, giới
tính của HS.
- Tổ chức LĐ phù hợp với đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội của địa phương.
- Những người hướng dẫn LĐ cần phải có kiến thức và kỹ năng về lĩnh vực lao động
để đảm bảo lao động mang lại hiệu quả.
b) Giáo dục hướng nghiệp: Có 3 nhiệm vụ chính sau:
- Định hướng nghề nghiệp
- Tư vấn nghề nghiệp
- Tuyển chọn nghề.
(Tham khảo trong tài liệu)
1.4. Giáo dục thể chất
* Ý nghĩa của GD thể chất
- Thúc đẩy HS phát triển thân thể khỏe mạnh, tăng cường thể chất cho HS
- Thúc đẩy sự phát triển toàn diện của HS, là bộ phận hợp thành của nền GD phát triển
toàn diện.
- Làm cho tinh thần con người mạnh khỏe, cuộc sống vui vẻ, văn minh…
* Nhiệm vụ của GD thể chất trong nhà trường
- Tăng cường thể chất, sức khỏe cho HS
- Giúp HS nắm vững tri thức cơ bản và kỹ năng kỹ xảo của vận động thể dục thể thao,
tạo thói quen tự giác rèn luyện thân thể một cách KH.
- Truyền thụ tri thức vệ sinh cần thiết cho HS, bồi dưỡng thói quen vệ sinh tốt, hướng
dẫn HS phòng ngừa bệnh tật, bảo vệ và tăng cường sức khỏe tâm sinh lý.
- Thông qua thể dục, tiến hành GD phẩm chất đạo đức cho HS, tạo nên phong cách
đạo đức tốt đẹp, cao thượng.


* Nội dung GD thể chất trong nhà trường
- Vận động thể dục thể thao, và đây là ND chủ yếu nhất của thể dục nhà trường.
- Vệ sinh nhà trường.

2. Những nội dung GD mới (SV đọc tài liệu và thảo luận)
2.1. GD môi trường
2.2. GD dân số
2.3. GD giới tính
2.4. GD phòng chống ma túy
2.5. GD giá trị
2.6. Giáo dục quốc tế
Chương 4: Phương pháp giáo dục
I. Khái niệm phương pháp giáo dục
1. Định nghĩa
Trong quá trình giáo dục, một mặt người học sinh là đối tượng giáo dục, chịu sự tác
động, điều khiển của các lực lưỡng giáo dục, nhưng mặt quan trọng hơn họ là chủ thể
tự giáo dục, trong mối quan hệ với các lực lưỡng giáo dục, họ đã tích cực, chủ động
lĩnh hội, rèn luyện tạo lập hành vi thói quen đạo đức. Trong quá trình giáo dục, diễn ra
sự tương tác qua lại tích cực giữa nhà giáo dục và người được giáo dục. Vì vậy
phương pháp giáo dục là hệ thống những cách thức, biện pháp hoạt động chung và
giao lưu giữa nhà giáo dục với tập thể học sinh và từng cá nhân học sinh nhằm làm
cho các em chiếm lĩnh được nền văn hoá đạo đức của loài người và của dân tộc để trở
thành một nhân cách toàn diện.
Như vậy phương pháp giáo dục theo nghĩa rộng bao gồm: Là cách thức tác động qua
lại giữa nhà GD và người được GD, trong đó nhà GD giữ vai trò chủ đạo nhằm thực
hiện tốt các nhiệm vụ GD đã đề ra.
2. Các phương pháp GD cơ bản.
2.1. Nhóm các phương pháp thuyết phục
Thuyết phục là nhóm các phương pháp dùng ngôn ngữ, hình tượng tác động lên
nhận thức, niềm tin, tình cảm của học sinh nhằm xây dựng những khái niệm, phạm trù,
chuẩn mực đạo đức.


Thuyết phục là phương pháp thu phục nhân tâm giúp con người nhận ra cái chân thiện

mỹ để sống và hành động theo lẽ phải. Nhóm phương pháp thuyết phục thực hiện hai
chức năng :
- Đưa lý luận vào trong ý thức người học sinh, làm cho học sinh hiểu đầy đủ, sâu sắc
nội dung các khái niệm, phạm trù, chuẩn mực đạo đức,
- Giúp học sinh so sánh, đối chiếu những kinh nghiệm trong thực tế cụôc sống của họ
với những chuẩn mực, những giá trị của xã hội từ đó hình thành niềm tin, tình cảm đạo
đức cho họ.
Có các phương pháp thuyết phục sau :
a. Phương pháp diễn giảng đạo đức
Diễn giảng là phương pháp nhà giáo dục trình bày một cách có hệ thống, tương đối
hoàn chỉnh bản chất của một vấn đề giáo dục, nhằm trang bị cho học sinh một hệ
thống tri thức đạo đức (các khái niệm, phạm trù, chuẩn mục đạo đức) để làm cho học
sinh từ chỗ chưa biết đến biết và biết một cách rõ ràng, sâu sắc hơn.
Phương pháp diễn giảng đạo dức thường sự dụng khi dạy một khái niệm, một phạm
trù, một chuản mực mới, chẳng hạn dạy môn giáo dục công dân ở bậc tiểu học, phổ
thông cơ sở...Diễn giảng đạo đức từ trước đến nay vốn đã là một vấn đề rất khô khan
thì ngày nay, khi mà xã hội ngày một phát triển, sự hội nhập mở rộng, các phương tiện
kỹ thuật, thông tin đại chúng đa dạng phong phú, học sinh có vốn hiểu biết khá rộng,
song kiến thức chuyên môn còn có chỗ chưa đầy đủ, chưa chính xác, nhất là các vấn
đề về nhân sinh quan, về đạo đức thì phương pháp diễn giảng đạo đức lại càng khó
khăn hơn nhiều.
Vì vậy để phương pháp diễn giảng đạo đức đạt hiệu quả thì cần đảm bảo các yêu cầu
sau :
- Giáo viên phải chuẩn bị trước nội dung diễn giảng thật cận thận, chu đáo, lượng
thông tin phải cô đọng, súc tích, cấu trúc nội dung phải chặt chẽ, có hệ thống, các luận
cứ, ví dụ đưa ra phải chính xác, hấp dẫn, có tính thuyết phục cao.
- Giáo viên phải biểu lộ tình cảm chân thành, thái độ rõ rệt khi diễn giảng để lan
truyền cảm xúc cho người nghe. Phải tạo được sự đồng cảm về tâm hồn với học sinh
- Phải dựa vào trình độ, kinh nghiệm thực tế của học sinh khi diễn giảng
b. Phương pháp khuyên giải



Khuyên giải là phương pháp gặp gỡ, trò chuyện, tâm tình riêng giữa nhà GD với đối
tượng cần GD để khuyên răn những điều hay lẻ phải, làm rõ những khái niệm đạo đức,
nội dung, nguyên tắc, chuẩn mực XH... giúp họ nhận thức đúng, từ đó mà hành động
đúng.
Để phương pháp đạt hiểu quả thì cần đảm bảo các yêu cầu sau :
- Sự khuyên giải phải xuất phát từ tình cảm chân thành, bằng mối quan hệ tốt đẹp giữa
thầy cô giáo với học sinh, giữa cha mẹ với con cái để cảm hoá họ, giúp họ nhận thức
đúng những gía trị đạo đức, điều chỉnh lại những nhận thức sai lầm, sữa chữa những
hành vi lệch lạc, từ đó hành động theo lẽ phải .
- Nhà GD phải hiểu rõ đặc điểm, tâm tư tình cảm của đối tượng GD, biết cách tiếp cận
đối tượng, phải tế nhị dẫn dắt câu chuyện theo mục đích.
- Nhà GD phải gương mẫu và tạo được uy tín với đối tượng GD
c. Phương pháp tranh luận
Là phương pháp nhà GD tổ chức cho học sinh đối thoại, cọ xát các ý kiến, quan
điểm khác nhau để tìm ra lời giải đáp cho một tình huống, một sự kiện, một vấn đề
trong đời sống thực tiễn để từ đó mà khẳng định, hình thành một quan điểm, hoặc xoá
đi một nhận thức sai lầm đã ăn sâu vào tiềm thức con người.
Trong tranh luận các bên đều cởi mở, cùng nêu ra quan điểm, những vướng mắc để
cùng nhau phân tích đi đến lẽ phải. Tranh luận là phương pháp phù hợp với đặc điểm
lứa tuổi thanh niên, lứa tuổi đã có những cơ sở lý luận cần thiết về thế giới quan, nhân
sinh quan. Trong khi tranh luận học sinh phải huy động toàn bộ những tri thức của
mình không chỉ về vấn đề đó mà cả những vấn đề liên quan đến nó để bảo vệ những
quan điểm, chính kiến của mình bằng những lập luận chặt chẽ, chứng cứ rõ ràng, đồng
thời cũng phải phát hiện ra những điểm yếu trong những phán đoán, kết luận của đối
phương.
Để phương pháp có hiệu quả cần đảm bảo các yêu cầu sau :
-Vấn đề tranh luận phải có ý nghĩa thiết yếu đối với cuộc sống, có ý nghĩa xã hội, thực
sự làm cho các em băn khoăn suy nghĩ, có nhu cầ muốn tìm ra chân lý

- Giáo viên và cả học sinh phải có sự chuẩn bị trước về vấn đề tranh luận để khỏi đi lạc
hướng
- Khi tranh luận phải phát huy được tính chất tự do thoã mãn để học sinh nêu lên quan
điểm, tư tưởng, tình cảm của mình. Giáo viên phải tôn trọng, không can thiệp thô bạo,


vội vã phê phán quy kết những sai lầm của học sinh, không quyết đoán bắt học sinh
phải chấp nhận những quan điểm của mình làm cho học sinh mất hào hứng
- Giáo viên phái biết dẫn dắt khéo léo để định hướng vấn đề vào trọng tâm và bổ sung
khi cần thiết, phải có thái độ chia sẽ, đồng cảm hoặc nghiêm khắc phê bình trong khi
tranh luận
- Kết thúc tranh luận, giáo viên phải tổng kết nêu rõ những quan điểm, giải pháp, đưa
ra những kết luận đúng đắn để định hướng hành động cho học sinh
d . Phương pháp nêu gương
Thuyết phục học sinh có thể bằng lời nói, bằng tình cảm, nhưng cũng có thể bằng
những tấm gương mẫu mực trong cuộc sống, gương mẫu mực của chính người giáo
viên.
Phương pháp nêu gương là phương pháp dùng những tấm gương mẫu mực, tiêu biểu,
cụ thể, sống động để kích thích học sinh bắt chước, noi theo .
Cơ chế tâm lý của phương pháp này là sự bắt chước. Học sinh đang ở giai đoạn phát
triển tâm lý đặc biệt, rất quan tâm đến những người xung quanh, theo dõi những hành
động của họ trong cuộc sống, trước hết là của người lớn, của các nhà giáo dục, các
thầy cô giáo. Tuổi trẻ thường suy tôn những nhân vật dũng cảm, tài trí, những hình ảnh
đẹp trong cuộc sống, coi đó là những tấm gương lý tưởng và sẵn sàng noi theo. Trước
hết bản thân nhà giáo dục phải là tấm gương sáng thể hiện trong nhận thức, trong cuộc
sống, tình cảm, trong hành vi ứng xử, trong mối quan hệ gia đình, tập thể và xã hội
cho học sinh noi theo. Sự gương mẫu của nhà giáo dục tạo nên sự kính trọng, dẫn đến
sự bắt chước của học sinh.
Phải cho học sinh tiếp cận nhiều với những tấm gương sáng trong lao động sản xuất,
trong học tập, trong tự tu dưỡng, trong các hoạt động xã hội bằng những con người

thực, việc thực để tạo cho các em những xúc cảm, rung động, tạo nên những tình cảm
tốt đẹp, từ đó các em sẽ bắt chước noi theo.
2.2. Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn
a. Phương pháp tạo dư luận xã hội
Là PP dùng những lời bàn tán, khen chê trực tiếp hay gián tiếp, phản ánh những yêu
cầu, đòi hỏi của tập thể đối với hành vi hành động của cá nhân buộc họ phải điều chỉnh
cho phù hợp với các chuẩn mực XH.


Hình thức biểu thị dư luận xã hội có thể trực tiếp qua các lời phát biểu, góp ý xây dựng
trong các cuộc họp, hội nghị, sinh hoạt tập thể hoặc gián tiếp thông qua các quyết định
khen thưởng hay kỷ luật đã được tập thể nhất trí, hoặc thông qua các phương tiện
thông tin đại chúng.
Sức mạnh của dư luận xã hội (theo nghĩa rộng) của tập thể (theo nghĩa hẹp) phụ thuộc
rất nhiều vào tính nguyên tắc, tính công bằng, tính chính xác (có luận cứ) tính thống
nhất của các phán đoán của tập thể, tính sắc sảo, rõ ràng, chân thực (không bôi đen, tô
hồng) của những lời phát biểu thì mới có ý nghĩa tích cực làm cho cá nhân nhận thức
đúng mà điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với các chuẩn mực xã hội.
Để phương pháp có hiệu quả cần các yêu cầu :
- Tổ chức thường xuyên và lôi cuốn học sinh tham gia vào các buổi sinh hoạt tập thể
để thảo luận, đánh giá về các sự kiện, các hiện tượng tiêu biểu xẩy ra ở trong lớp,
trong trường.
- Tránh hiện tượng bao che dung túng, chia bè cánh tạo dư luận không chính đáng làm
ảnh hưởng xấu đến cá nhân
- Cần xây dựng một tập thể lớp vững mạnh, củng cố tổ chức đoàn, đội, chi hội để phát
huy vai trò to lớn của dư luận tập thể
b. Phương pháp giao công việc
Là phương pháp tổ chức, lôi cuốn học sinh tham gia vào các hoạt động đa dạng và
giao cho họ những nhiệm vụ, những công việc và yêu cầu họ phải thực hiện hoàn
thành, qua đó mà bồi dưỡng năng lực chung và năng lực riêng biệt cho cá nhân, đồng

thời giúp họ tích luỹ được những kinh nghiệm trong quan hệ ứng xử giữa người với
người theo những nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội.
Để phương pháp có hiệu quả cần các yêu cầu :
- Trước khi giao công việc phải làm cho học sinh ý thức được ý nghĩa xã hội của công
việc được giao để họ có thái độ tích cực, có nghĩa vụ hoàn thành công việc đó
- Nên giao những công việc phù hợp với khuynh hướng và hứng thú của học sinh để
tạo điều kiện cho học sinh phát huy năng lực, sở trường của mình. Đồng thời cũng nên
giao những công việc mà học sinh không ham thích nếu đó là công việc có ích cho
bản thân, tập thể và xã hội.
- Giao công việc phải vừa sức học sinh, đòi hỏi sự nổ lực cố gắng nhất định của bản
thân cá nhân, không giao công việc quá khả năng của các em.


- Mọi công việc khi giao phải nêu rõ mục đích, yêu cầu phải đạt được với học sinh
- Cần phải đánh giá kết quả công việc. Khi đánh giá thì dựa vào kết quả đạt được là
chủ yếu nhưng cũng cần phải xem xét đến ý thức, trách nhiệm, tinh thần cố gắng trong
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể để động viên các em.
c. Phương pháp tạo tình huống giáo dục
Là phương pháp giáo viên tạo ra các tình huống có mục đích giáo dục định trước
nhằm làm cho học sinh bộc lộ ra những quan điểm, tình cảm, động cơ, hành vi của
mình, từ đó nhà giáo dục phát hiện ra những thiếu sót, lệch lạc cần uốn nắn hoặc
những mặt tích cực cần khích lệ các em
Thực hiện quá trình giáo dục thực chất là giải quyết các tình huống trong đời sống
hiện thực của học sinh. Mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống hàng ngày đều chứa
đựng những mâu thuẫn đơn giản hay phức tạp. Sự đấu tranh thống nhất mâu thuẫn là
quy luật phát triển của cá nhân. Mâu thuẫn chứa đựng trong tình huống vô cùng đa
dạng, phong phú có thể biểu hiện giữa lợi ích cá nhân và cá nhân, giữa cá nhân với tập
thể nhóm, tập thể lớp, giữa nhu cầu, hứng thú với năng lực của cá nhân...
Khi tạo tình huống giáo dục, nhà giáo dục đã đặt học sinh vào hoàn cảnh có vấn đề,
buộc họ phải suy nghĩ, đấu tranh động cơ, lựa chọn các hành vi, hành động của mình

phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực của đạo đức để hoàn thành nhiệm vụ, từ đó nhà
giáo dục hiểu được bản chất của đối tượng giáo dục mà lựa chọn các phương pháp
giáo dục cho phù hợp
Các tình huống giáo dục có thể tạo ra trong bất cứ loại hình hoạt động nào của học
sinh: vui chơi, học tập, lao động, công tác xã hội...theo mục đích định trước của giáo
viên
Để phương pháp có hiệu quả cần các yêu cầu :
- Tình huống giáo dục phải thật tự nhiên để học sinh không biết được đó là sự bố trí,
sắp xếp của giáo viên, từ đó họ mới bộc lộ ra những quan điểm, tình cảm, động cơ,
hành vi của mình
- Khi tạo tình huống GD thì kết quả có thể xẩy ra theo hai hướng: hướng tích cực và
hướng tiêu cực. Với hướng tiêu cực giáo viên phải dự kíên trước các giải pháp để tránh
hậu quả đáng tiếc có thể xẩy ra
d. Phương pháp tập thói quen đạo đức


Trong cuộc sống của con người có những hành động được lặp đi lặp lại trở thành thói
quen của người đó. Chặng hạn thói quen rửa tay trước lúc ăn, đánh răng trước lúc đi
ngủ, ngủ dậy xếp chăn màn, thói quen nói dối...Như vậy có những thói quen tốt và có
những thói quen xấu. Trong những điều kiện nhất định thói quen có thể trở thành
những thuộc tính bền vững hoặc phẩm chất của nhân cách.
Phương pháp tập thói quen đạo đức là phương pháp tổ chức cho người được GD thực
hiện một cách đều đặn, thường xuyên và có kế hoạch để lặp đi lặp lại các hành động,
hành vi đạo đức nhất định, nhằm biến những hành động, hành vi đó thành thói quen
đạo đức cần thiết trong cuộc sống
Phương pháp tập thói quen đạo đức đặc biệt quan trọng và có hiệu quả nhất trong thời
kỳ đầu của quá trình giáo dục và phát triển của trẻ em. Tuỳ theo lứa tuổi khác nhau,
hoàn cảnh sống và điều kiện giáo dục khác nhau, việc tập thói quen được tiến hành
dưới các hình thức khác nhau.
Để phương pháp có hiệu quả cần các yêu cầu :

- Cần hình thành nhu cầu ham thích luyện tập các hành vi đạo đức để trở thành thói
quen đạo đức cho học sinh
- Cho người được GD nắm được quy tắc, hình dung rõ hành vi cần được thực hiện
như thế nào. Trong trường hợp cần thiết có thể làm mẫu cho người được GD về những
hành vi cần luyện tập
- Mọi hành vi lúc đầu phải được tập chính xác, nếu không khi đã trở thành thói quen
như là một thuộc tính bền vững thì rất khó sữa chữa.
- Việc luyện tập thói quen cần phải có thời gian, bền bỉ, liên tục không nóng vội
- Tiến hành kiểm tra uốn nắn thường xuyên, đồng thời khuyến khích học sinh tự kiểm
tra.
- Để luyện tập thói quen, một biện pháp rất có hiệu quả đó là xây dựng và thực hiện
một chế độ sinh hoạt, hoạt động của học sinh ỏ gia đình và nhà trường một cách rõ
ràng, chặt chẽ, hợp lý
e. Phương pháp rèn luyện thói quen đạo đức
Là phương pháp tổ chức cho học sinh lặp đi lặp lại các hành vi đạo đức trong môi
trường thực tiễn cuộc sống để trở thành thói quen đạo đức.
Nhiệm vụ cơ bản của rèn luyện thói quen là giúp học sinh hình thành những năng
lực, thu lượm những kinh nghiệm thực tiễn tạo nên yếu tố tâm lý cần thiết trong quá


trình phát triển của cá nhân. Cơ sở của rèn luyện thói quen là hoàn cảnh sống hiện thực
mà nhà giáo dục có thể tổ chức đưa học sinh thực sự tham gia vào các hoạt động lao
động đa dạng của XH, phù hợp với khả năng và hứng thú của các em qua đó để thử
nghiệm, củng cố những thái độ, ý thức và hành vi của học sinh. Trong các hoạt động
đó học sinh phải đấu tranh động cơ thống nhất giữa cái "vì mình" với cái "vì những
người xung quanh", giữa cái chủ quan và khách quan theo yêu cầu của xã hội. Như
vậy phương pháp rèn luyện còn giúp học sinh rèn luyện được cả động cơ, ý chí và nghị
lực. Chặng hạn, muốn giáo dục tinh thần trách nhiệm cho học sinh, giáo viên phải đặt
học sinh vào hoàn cảnh sống và hoạt động lao động, học tập, nhằm giúp các em thể
hiện thường xuyên, liên tục ý thức, thói quen hoàn thành trách nhiệm để trở thành một

thuộc tính bền vững của cá nhân trong cuộc sống hàng ngày.
Để phương pháp có hiệu quả cần các yêu cầu:
- Tạo cơ hội cho người được GD thâm nhập vào những tình huống đa dạng từ đơn
giản đến phức tạp, từ dễ đến khó, để từ đó họ tiến hành đấu tranh, tự xác định động cơ
đúng đắn, lựa chọn và thực hiện những hành động đúng chuẩn mực và quy tắc ứng xử
- Tạo cơ hội cho người được GD dựa vào kết quả đã luyện tập để rèn luyện trở thành
thói quen bền vững
2.3. Các phương pháp khuyến khích hành vi
Là nhóm các phương pháp tác động vào mặt tình cảm của các đối tượng GD nhằm
tạo ra những phấn chấn, thúc đẩy tính tích cực hoạt động
a. Phương pháp thi đua
Là phương pháp kích thích khuynh hướng tự khẳng định ở mỗi học sinh, thúc đẩy họ
đua tài, gắng sức hăng hái vươn lên hàng đầu, lôi cuốn người khác cùng tiến lên để
giành những thành tích cao nhất cho cá nhân hoặc cho tập thể
Nội dung thi đua có thể chỉ một mặt nào đó rất thiết thực, cấp bách thực hiện trong
tời gian ngắn, hoặc nhiều mặt thực hiện trong thời gian dài. Đối với học sinh dù thực
hiện thi đua dưới hình thức nào cũng phải có mục đích rõ ràng làm cho các em nhận
thức được ý nghĩa cá nhân và xã hội của vấn đề đó để động viên họ hăng hái tham gia
với động cơ chính trị – xã hội đúng đắn
Để phương pháp có hiệu quả cần các yêu cầu
- Mọi phong trào thi đua đều phải có mục đích, không phải là phong trào thi đua theo
chủ nghĩa hình thức, do dó phải có nội dung thi đua rõ ràng, có phát động thi đua, có


×