Câu hỏi ôn tập
Môn: Xã hội học đại cương
Câu 1: Xã hội học là gì? Tại sao có nhiều quan niệm về xã hội học?
1/ Khái niệm xã hội học
Từ khi xã hội học ra đời với tính cách là một ngành khoa học độc lập cho đến
nay đã có khá nhiều cuộc tranh luận dữ dội và khá thú vị xã hội học là gì? Sau đây là
một số định nghĩa của các nhà khoa học về xã hội học:
- Theo E. Durkheim “Xã hội học là khoa học nghiên cứu các sự kiện xã hội”
- M.Weber cho rằng xã hội học đó là “Khoa học về hành động xã hội”
- V.A. Jadov: “Xã hội học là khoa học về sự hình thành, phát triển và sự vận
hành của các cộng đồng xã hội, các tổ chức xã hội và các quá trình xã hội với tính cách
là các hình thức tồn tại của chúng; là khoa học về các quan hệ xã hội với tính cách là
các cơ chế liên hệ và tác động qua lại giữa các cá nhân và cộng đồng; là khoa học về
quy luật của các hành động xã hội và các hành vi của quần chúng”
- “Xã hội học là khoa học nghiên cứu xã hội và hành vi của con người”
(Wallace – 1989).
- “Xã hội học nghiên cứu một cách hệ thống và khoa học về hành vi của con
người, các nhóm xã hội và về xã hội” (Thompson & Hidey – 1994)
- “Xã hội học là khoa học nghiên cứu về tương tác xã hội và tổ chức xã hội”
(Wander & Zadence – 1990).
- “Xã hội học nghiên cứu về đời sống xã hội của con người, các nhóm và các xã
hội… phạm vi nghiên cứu của xã hội học hết sức rộng lớn, trải dài từ sự phân tích về
sự gặp gỡ giữa các cá nhân trên phố xá đến sự quan tâm về các quá trình xã hội có tính
toàn cầu” (Giddens – 1997)
- “Đơn giản nhất, xã hội học là khoa học nghiên cứu về các quan hệ xã hội, các
thiết chế xã hội và các xã hội” (Smelser 1994).
- “Xã hội học là khoa học về các quy luật, tính quy luật xã hội chung và đặc thù
của sự phát triển, vận hành của các hệ thống xã hội xác định về mặt lịch sử, là khoa
học về các cơ chế tác động và hình thức biểu hiện của các quy luật đó trong hoạt động
của các cá nhân, các nhóm xã hội, các giai cấp và các dân tộc” (Osipov – 1992).
Các nhà xã hội học Việt Nam thống nhất rằng: “Xã hội học là một bộ môn khoa
học xã hội nghiên cứu tính chỉnh thể của các quan hệ xã hội; nghiên cứu các quy luật
phổ biến và đặc thù của các hình thái kinh tế xã hội; về các cơ chế hoạt động, các hình
thức biểu hiện của các quy luật đó trong các hoạt động của các cá nhân, các nhóm, tập
đoàn xã hội…”
Từ các định nghĩa trên ta có thể nhận thấy mặc dù cách định nghĩa khác nhau
nhưng có thể rút ra một số điểm chung về xã hội học như sau:
- Nghiên cứu về cơ cấu tổng thể xã hội, cụ thể là nghiên cứu các quy luật phổ
biến và đặc thù của của sự vận động và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội.
- Nghiên cứu nguyên nhân, cơ chế vận động, xu thế phát triển của các hiện
tượng và quá trình xã hội trong các tập đoàn, các nhóm xã hội khác nhau.
- Nghiên cứu các cá nhân với những nhu cầu, động lực, sức mạnh xã hội chi
phối hành vi xã hội của họ.
2/ Cho đến nay, người ta vẫn chưa thống nhất một định nghĩa về xã hội
học, người ta chấp nhận sự đa dạng trong các định nghĩa, là do:
- Không có một kiểu phát triển xã hội duy nhất nên không có quan điểm xã hội
học duy nhất;
- Mỗi một nhà khoa học có xuất thân khác nhau, có hoàn cảnh sống khác nhau,
được đào tạo và ảnh hưởng khác nhau nên quan điểm về xã hội học cũng khác nhau.
Câu 2: Trình bày đối tượng, chức năng của Xã hội học?
1/ Đối tượng nghiên cứu của xã hội học
XH là một chỉnh thể rộng lớn toàn diện, là khách thể nghiên cứu của nhiều
KHXH, trong đó có XHH.Theo đó, đối tượng nghiên cứu của XHH là các quan hệ Xh,
tương tác XH được biểu hiện thông qua các hành vi Xh giữa người với người trong các
nhóm, các hệ thống Xh.
Xét trong tiến trình phát triển của XHH, các vấn đề kép: “con người – xã hội”;
hành động xã hội – cơ cấu xã hội”; và “vi mô - vĩ mô” là chủ đề trung tâm trong
nghiên cứu XHH.
Quan điểm chính thống được thừa nhận về đối tượng N/c của XHH:
- Là giữa một bên là con người với tư cách là các cá nhân, các nhóm, các cộng
đồng XH với một bên là XH với tư cách là các hệ thống XH, các thiết chế Xh và cơ
cấu xh.
Nói một cách khaí quát, đối tượng nghiên cứu của XHH là mối quan hệ tương
tác về hành vi XH của con người, mối quan hệ hữu cơ, sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa
một bên là con người với tư cách là cá nhân, nhóm, cộng đồng người và một bên là xã
hội với tư cách là hệ thống XH, cơ cấu XH.
2/ Chức năng của XHH
a. Chức năng nhận thức
Lý luận xã hội học và các công trình nghiên cứu thực nghiệm xã hội học trang
bị cho các nhà nghiên cứu và các nhà lãnh đạo những tri thức khoa học về sự phát triển
của xã hội và những quy luật của sự phát triển. Nó định rõ nguồn gốc (nguyên nhân)
của các quá trình và hiện tượng xã hội, vạch ra các quy luật khách quan của các hiện
tượng và quá trình xã hội từ đó tạo ra những tiền đề nhận thức về những triển vọng của
xã hội nói chung cũng như những mặt, lĩnh vực riêng rẽ của nó.
b. Chức năng thực tiễn
Chức năng thực tiễn của xã hội học có mối quan hệ với chức năng nhận thức,
vấn đề quan trọng nhất của chức năng thực tiễn là yếu tố dự báo. Dựa vào sự phân tích
hiện tượng của xã hội và những mặt, những quy trình riêng rẽ Xã hội học có nhiệm vụ
làm sáng tỏ các triển vọng và xu hướng phát triển của xã hội. Khi nghiên cứu các hiện
tượng của các quan hệ xã hội, xã hội học giúp con người có thể đặt những quan hệ xã
hội của mình dưới sự kiểm soát của bản thân và điều tiết các quan hệ đó cho phù hợp
với yêu cầu khách quan của tiến bộ xã hội.
Việc dự báo xã hội dựa trên cơ sở nhận thức sâu sắc các quy luật và xu hướng
phát triển của xã hội, là điều kiện và tiền đề để kế hoạch hoá và quản lý xã hội một
cách khoa học.
c. Chức năng tư tưởng
Muốn quản lý xã hội thì người lãnh đạo phải nắm vững tình hình tư tưởng,
trạng thái tâm lý của các tầng lớp nhân dân. Trạng thái tư tưởng luôn luôn biến động
theo những diễn biến của thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội. Xã hội học giúp chúng ta
hiểu rõ thực trạng tư tưởng đề làm tốt công tác chính trị, tư tưởng, nắm bắt và định
hướng được dư luận xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý trên các lĩnh
vực hoạt động của đời sống xã hội.
Câu 3: Phân tích điều kiện, tiền đề để XHH ra đời.
1. Tiền đề kinh tế – xã hội (có sự tiến bộ rõ rệt trong phương thức sản xuất của
con người)
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX ở Châu Âu xuất hiện cuộc cách mạng
thương mại và công nghệ, làm lay chuyển tận gốc chế độ cũ tồn tại hàng trăm năm
trước. Hệ thống kinh tế phong kiến đã bị sụp đổ trước sự bành trướng của các cuộc
cách mạng làm cho quan hệ sản xuất kiểu cũ bị thay thế dần bởi sự quản lý kinh tế
theo kiểu tư bản. Trước bối cảnh đó nhiều nhà máy, xí nghiệp ra đời đã thu hút nhiều
lao động, đặc biệt là lao động từ nông thôn ra đô thị.
Ở các nước Anh, Pháp, Đức xuất hiện hoạt động sản xuất, buôn bán sản xuất
theo quy mô công nghiệp làm đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế nhờ đó khối lượng
tổng sản phẩm gấp hàng trăm lần trước khi có chủ nghĩa tư bản, kinh tế phương Tây
biến đổi sâu sắc.
Sự biến đổi kinh tế dẫn đến sự biến đổi sâu sắc đời sống xã hội chẳng hạn như
nông dân đi làm thuê, của cải rơi vào tay của giai cấp tư sản, đô thị hoá phát triển, cơ
sở hạ tầng phát triển mạnh, khoa học kỹ thuật công nghệ phát triển nhanh chóng. Sự
biến đổi kinh tế cũng làm cho hệ thống tổ chức xã hội phong kiến bị xáo trộn mạnh mẽ
như: quyền lực trong tôn giáo bị giảm xuống, cấu trúc gia đình biến đổi do cá nhân rời
bỏ cộng đồng, gia đình đi làm thuê, văn hoá cũng biến đổi do lối sống kinh tế thực
dụng…
Tóm lại: sự xuất hiện của hệ thống tư bản đã phá vỡ trật tự xã hội cũ, làm xáo
trộn đời sống xã hội của các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội. Từ đó nảy sinh nhu
cầu cần phải giải quyết đó là:
Về mặt thực tiễn: phải lập lại trật tự xã hội một cách ổn định.
Về mặt nhận thức: giải quyết những vấn đề mới mẻ của xã hội đang nảy sinh từ
cuộc sống đầy biến động.
2. Tiền đề chính trị - tư tưởng
Cách mạng tư sản Pháp đã làm thay đổi thể chế chính trị, mở đầu thời kì tan rã
của của chế độ phong kiến thay vào đó là sự thống trị của giai cấp tư sản, hình thành
nhà nước tư bản chủ nghĩa. Cách mạng tư sản Pháp khơi dậy cho giai cấp công nhân
những biến đổi về mặt nhận thức: quyền con người, quyền bình đẳng…
Sau Pháp, các nước Anh, Đức, Ý và các nước phương Tây khác cũng có những
biến động chính trị theo con đường “tiến hóa”. Đặc điểm chung trong đời sống Châu
Âu lúc bấy giờ là: quyền lực chính trị chuyển sang tay giai cấp tư sản và sự tự do bóc
lột giai cấp công nhân của giai cấp tư sản. Do đó dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa giai
cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Khi mâu thuẫn xã hội phát triển và không thể điều hoà được dẫn đến sự bùng
nổ cuộc cách mạng vô sản đầu tiên ở Pháp (1871) và tiếp đó ở Nga (1917). Những
cuộc cách mạng này là cơ sở hình thành và phát triển lý tưởng cách mạng và chủ nghĩa
xã hội cho giai cấp bị bóc lột và các dân tộc thuộc địa.
Những biến đổi về mặt chính trị, tư tưởng trên đã dẫn đến khoa học xã hội học
ra đời đầu tiên ở Pháp – cái nôi của cách mạng, tiếp đến là Anh, Pháp, Đức…Đồng
thời những biến đổi về kinh tế, văn hoá, chính trị cũng đòi hỏi các nhà xã hội học đưa
ra những vấn đề mang tính toàn cầu như: Trật tự xã hội, bất bình đẳng xã hội, tìm cách
phát hiện ra các quy luật tổ chức xã hội để góp phần tạo dựng, củng cố trật tự xã hội và
tiến bộ xã hội.
3. Tiền đề lý luận và phương pháp luận
Từ xa xưa các nhà tư tưởng đã đưa ra những giải thích về con người và xã hội,
tuy nhiên chỉ mang tính ước đoán, giả định.
Thời kỳ Phục Hưng (Thế kỷ XIV) đã đặt vấn đề nghiên cứu con người và xã
hội tuy chưa trở thành khoa học nhưng đã có những tiến bộ đáng kể. Đó chính là
những tiền đề lý luận, phương pháp luận nảy sinh khoa học xã hội học.
Các trào lưu tư tưởng tiến bộ của Khoa học tự nhiên và khoa học xã hội thế kỷ
XVIII đã trở thành tiền đề, nguồn gốc và những yếu tố tạo nên hệ thống lý luận và
phương pháp luận của khoa học xã hội, cụ thể là:
Các nhà tư tưởng của Anh, đặc biệt là A.Smith (1723- 1796) và D.Ricado
(1772- 1823) khi nghiên cứu chế độ kinh tế – xã hội đã cho rằng cá nhân phải được tự
do, thoát ra khỏi những ràng buộc và hạn chế bên ngoài để tự do cạnh tranh nhờ đó cá
nhân sẽ tạo ra được xã hội tốt. Những quan điểm này đứng trên lập trường của chủ
nghĩa tư bản, biện minh cho giai cấp tư sản song dù sao cũng bênh vực quyền con
người, điều đó đã gợi mở cách nhìn biện chứng duy vật về những vấn đề xã hội mới
nảy sinh.
Tại Pháp, thời kỳ Phục Hưng nửa cuối thế kỷ XV đã xuất hiện những nhà khai
sáng và chủ nghĩa xã hội như: Voltaire, S.Simont, Fourier… đặc biệt là A.Comte –
người sáng lập ra chủ nghĩa thực chứng và xã hội học. Tư tưởng của các nhà triết học
Pháp cho rằng con người bị chi phối bởi điều kiện và hoàn cảnh xã hội, do đó phải tôn
trọng và bảo vệ quyền “ tự nhiên” của con người. Từ đó hình thành tư tưởng về sự cần
thiết xoá bỏ áp bức, bất công tạo thành xã hội mới phù hợp với bản chất của con
người.
Các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra thế kỷ XVI, XVII, XVIII đã làm
thay đổi thế giới quan và phương pháp luận khoa học. Trước kia, người ta giải thích
thế giới bằng lực lượng siêu nhiên, thần thánh. Đến đây, người ta đã giải thích thế giới
một cách khoa học, vận động và phát triển theo quy luật. Các quy luật của xã hội cũng
có thể nhận thức được, sử dụng các khái niệm, phạm trù, phương pháp nghiên cứu
khoa học để giải thích thế giới, từ đó cải tạo thế giới.
Như vậy xã hội học ra đời với tư cách là một môn khoa học độc lập trong lòng
Châu Âu thế kỷ XIX, với các điều kiện chín muồi về kinh tế xã hội, chính trị tư
tưởng…Người đi tiên phong trên con đường xây dựng một môn khoa học mới đó là
nhà triết học thực chứng người Pháp tên là Auguste Comte (1798-1857) – nhà xã hội
học đầu tiên trên thế giới, người đã kế thừa và phát triển tất cả những gì tốt đẹp nhất về
mặt tư tưởng, nhận thức mà loài người đã tạo ra từ trước đến nữa đầu thế kỷ XIX để
đưa ra một học thuyết về một khoa học mới cho khoa học xã hội, là người đặt nền tảng
cho một dòng chảy bất tận của lịch sử xã hội học.
Câu 4: Tại sao nói XHH là con đẻ của cuộc cách mạnh công nghiệp Anh
thế kỷ 18?
Các cuộc cách mạng thương mại và công nghệ cuối thế kỷ XVIII đã làm lay
chuyển tận gốc trật tự kinh tế cũ tồn tại và phát triển hàng trăm năm trước đó. Hình
thái kinh tế xã hội kiểu phong kiến bị sụp đổ từng mảng lớn trước sự bành trướng của
thương mại và công nghiệp. Sự tác động của tự do hóa thương mại, tự do hóa sản xuất
và đặc biệt là tự do hóa lao động; hệ thống tổ chức quản lý kinh tế theo kiểu truyền
thống đã bị thay thế bằng cách tổ chức xã hội hiện đại. Do vậy, thị trường đã được mở
rộng, hàng loạt nhà máy, xưởng và tập đoàn kinh tế đã ra đời thu hút nhiều lao động từ
nông thôn ra thành thị làm thuê. Của cải, đất đai, tư bản không còn tập trung trong tay
tầng lớp phong kiến mà rơi vào tay giai cấp tư sản.
Sự xuất hiện và phát triển hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phá vỡ trật tự xã
hội phong kiến gây những xáo trộn và biến đổi trong đời sống kinh tế xã hội của các
tầng lớp, giai cấp và các nhóm xã hội. Từ đó nảy sinh nhu cầu thực tiễn phải lập lại
trật tự, ổn định xã hội và nhu cầu nhận thức để giải quyết những vấn đề mới mẻ nảy
sinh từ cuộc sống đang biến động đó. Trong bối cảnh đó, Xã hội học đã ra đời để đáp
ứng nhu cầu nhận thức các biến đổi xã hội và lập lại trật tự xã hội.
Câu 5: Trình bày quan điểm xã hội học của August Comte
August Comte (1798 – 1857); Sinh tại: Montpelier – Pháp. Học tại Đại học
Bách Khoa Paris.
Nghề nghiệp: dạy tư, trợ lý của Sant Simon.
Tác phẩm chính: Giáo trình triết học thực chứng (1842); Hệ thống chính trị
học thực chứng (1851).
Ở Pháp, thế kỷ XIX là thời kì bất an, nền quân chủ nước Pháp đã cáo chung
trong cuộc cách mạng 1789. Trong tình thế đó các nhà nghiên cứu đã xem xét xem có
thể cách tân xã hội ra sao. Comte được cho là triết gia có ảnh hưởng nhất trong số đó,
ông đã tin tưởng rằng một khoa học lý thuyết về xã hội và việc điều tra có hệ thống về
hành vi con người là cần thiết để cách tân xã hội. Từ đó thuật ngữ xã hội học đã ra đời
để chỉ khoa học về hành vi con người.
- Quan điểm của August Comte về xã hội học:
Định nghĩa xã hội học: Xã hội học là khoa học về các quy luật của tổ chức xã
hội.
Theo đó, Đối tượng nghiên cứu của xã hội học là xã hội. Xã hội luôn được cấu
thành từ các tổ chức đặc thù. Các tổ chức xã hội luôn tồn tại theo quy luật nhất định,
cụ thể A.Comte tiếp cận theo quy luật tiến hoá xã hội.
- Quan điểm về cơ cấu bộ môn xã hội học:
Theo ông cơ cấu của xã hội học gồm hai bộ phận:
Tĩnh học xã hội: Nghiên cứu xã hội theo lát cắt ngang, nghĩa là nghiên cứu xã
hội ở thời điểm nhất định qua đó phân tích cấu trúc xã hội, trật tự xã hội của tập thể và
cá nhân trong xã hội. Ở đây Comte quan tâm nghiên cứu các tiểu cấu trúc như: gia
đình, tôn giáo, văn hoá và các tổ chức xã hội khác, để từ đó thiết lập và duy trì trật tự
xã hội.
Động học xã hội: Nghiên cứu xã hội theo lát cắt dọc, nghĩa là mô tả các giai
đoạn khác nhau của xã hội loài người, từ đó nghiên cứu các quy luật làm biến đổi xã
hội theo thời gian.
- Quan điểm của A.Comte về các giai đoạn phát triển của xã hội được chia
thành 3 giai đoạn như sau (quy luật 3 giai đoạn): thần học, siêu nhiên, thực chứng.
Quy luật ba giai đoạn của Comte thì giai đoạn trước là tiền đề cho giai đoạn
sau. Sự phát triển của xã hội diễn ra theo con đường tiến hoá. Comte cho rằng trong
giai đoạn thực chứng- khoa học thì trí tuệ, tri thức khoa học là sức mạnh, động lực duy
trì sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, nhiều người vẫn cho rằng sự giải thích quá trình
phát triển xã hội mang tính duy tâm vì ông đã qua nhấn mạnh đến vai trò của văn hoá,
tinh thần và tri thức quyết định đến cấu trúc và hệ thống xã hội.
- Quan điểm về phương pháp luận:
Phương pháp luận thực chứng: Là sự thu thập, xử lý thông tin, xây dựng giả
thiết, kiểm tra giả thiết, so sánh và tổng hợp số liệu để chứng minh, giải thích vấn đề
nghiên cứu.
Phương pháp luận thực chứng gồm 4 nhóm:
+ Phương pháp quan sát, gồm các quy tắc sau:Quan sát gắn với lý luận; Quan
sát soi rọi bởi lý thuyết; Quan sát có mục đích.
+ Phương pháp thực nghiệm: Nhà xã hội học chủ định can thiệp, tác động vào
đối tượng nghiên cứu để làm bộc lộ những đặc điểm, tính chất cần tìm hiểu về đối
tượng nghiên cứu. Ứng dụng vào xã hội học: nghiên cứu trường hợp “bất thường” để
tìm hiểu nguyên nhân và hậu quả của nó.
+ Phương pháp so sánh: So sánh các xã hội hiện tại với quá khứ, hoặc các hệ
thống xã hội với nhau, từ đó tìm ra đặc điểm giống và khác của các hệ thống xã hội đê
khái quát hóa các đặc điểm chung, thuộc tính cơ bản của của xã hội. Ứng dụng hiện
nay là nghiên cứu về xã hội học văn hoá, cộng đồng và xã hội học tổ chức…
+ Phương pháp lịch sử: Tìm hiểu chi tiết, tỷ mỉ các yếu tố, bộ phận của sự hình
thành và biển đổi của xã hội trong lịch sử. Từ đó tái hiện những gì xảy ra, diễn ra theo
theo trình tự và xu hướng như thế nào để rút ra kế luận có hiệu quả nghiên cứu.
Tóm lại: A.Comte là người đầu tiên chỉ ra nhu cầu và bản chất của một khoa
học về các quy luật tổ chức xã hội đó là xã hội học.
Sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc biệt của khoa học tự nhiên để xây dựng
và kiểm tra giả thuyết nghiên cứu.
Chỉ ra nhiệm vụ của xã hội học là phát hiện ra các quy luật, xây dựng giả
thuyết, nghiên cứu cơ cấu xã hội và quá trình xã hội.
Câu 6: Trình bày quan điểm XHH của Emile Durkheim
1/ Tóm tắt tiểu sử: Durkheim (1858 – 1917), sinh ra tại Epinal – Pháp; học tại
Đại học Ecole Normale; Nghề nghiệp: Giảng viên đại học; Các tác phẩm chính: Phân
công lao động xã hội (1893); Các quy tắc phương pháp xã hội học (1895); Tự tử
(1897); Những hình thức sơ đẳng của đời sống tôn giáo (1912)
2/ Quan điểm của Durkheim về xã hội học:
- Định nghĩa: Xã hội học là khoa học về các sự kiện xã hội.
Giải thích định nghĩa: Xã hội học nghiên cứu về các sự kiện xã hội.
Sự kiện xã hội bao gồm:
+ Sự kiện xã hội vật chất: Nhóm, dân cư, tổ chức xã hội…
+ Sự kiện xã hội phi vật chất: Hệ thống giá trị, chuẩn mực, phong tục tập quán,
đạo đức…
Các đặc điểm của sự kiện xã hội:
+ Tính khách quan: Sự kiện xã hội tồn tại bên ngoài cá nhân.
+ Tính phổ biến: Sự kiện xã hội là của cộng đồng, được cộng đồng chia sẻ,
chấp nhận coi là của mình, của chúng ta.
+ Tính cưỡng chế: Sự kiện xã hội có sức kiểm soát, hạn chế, cưỡng chế gây áp
lực với hoạt động của cá nhân.
- Hệ thống khái niệm xã hội học của Durkheim:
+ Đoàn kết xã hội: Đoàn kết xã hội chỉ mối quan hệ cá nhân và xã hội, cá nhâncá nhân- nhóm xã hội. Nếu không có đoàn kết xã hội cá nhân bị riêng lẻ, không thể tạo
thành xã hội với tư cách là một hệ thống. Ứng dụng thực tế của khái niệm trên là để
giải thích hiện tượng: phân công lao động xã hội, tự tử, tôn giáo, những sự kiện bất
thường khác. Từ đó tìm ra những nguyên nhân, phân tích chức năng, hiệu quả của sự
kiện xã hội đó với việc duy trì và củng cố trật tự xã hội.
+ Đoàn kết xã hội và phân loại xã hội:
Đoàn kết xã hội cơ học là sự đoàn kết dựa trên sự đồng nhất, giống nhau, thuần
tuý về mặt các giá trị, niềm tin, tín ngưỡng, phong tục tập quán. Trong xã hội cơ học
các cá nhân không tách khỏi cộng đồng ý chí tập thể chi phối tình cảm, ý chí của cá
nhân. Sự khác biệt và độc đáo của cá nhân không quan trọng, tuy vậy ý thức cộng
đồng lại cao, chuẩn mực chặt chẽ, luật pháp mang tính cưỡng chế, xã hội này có quy
mô nhỏ (làng, xã …)
Đoàn kết hữu cơ: Đoàn kết dựa trên sự đa dạng, phong phú của chức năng, mối
liên hệ, các tương tác giữa các cá nhân và các bộ phận chương trình xã hội. Xã hội hữu
cơ có quy mô lớn hơn, ý thức cộng đồng có thể yếu nhưng tự do cá nhân phát triển.
Quan hệ xã hội của các cá nhân mang tính chức năng, trao đổi và được pháp luật bảo
vệ.
+ Đoàn kết xã hội và phân công lao động:
Phân công lao động có vai trò quan trọng trong đời sống con người, đó là tạo ra
đoàn kết xã hội.
Sự phân công lao động càng cao, càng chuyên môn hoá con người càng phải
tương tác với nhau, phụ thuộc lẫn nhau. Do đó sự đoàn kết ở đây không còn là máy
móc, rập khuôn mà cá nhân phụ thuộc lẫn nhau gọi là đoàn kết hữu cơ.
Sự biến đổi của xã hội phụ thuộc vào đoàn kết xã hội, sự đoàn kết xã hội lại phụ
thuộc vào sự phân công lao động. Tiếp đó, phân công lao động phụ thuộc vào: di cư,
tích tụ dân cư, đô thị hoá và công nghiệp hoá.
Phân công lao động không làm tròn chức năng đoàn kết xã hội thì xã hội rơi
vào khủng hoảng, không bình thường. Do đó nhiệm vụ xã hội học là nghiên cứu
những bất thường của xã hội để đưa xã hội lành mạnh, bình thường.
Theo Durkheim có 3 loại phân công lao động bất bình thường:
Hình thức phi chuẩn mực: Phân công lao động tuỳ tiện, tự phát, rối loạn do
thiếu kiểm soát từ phía hệ giá trị, chuẩn mực xã hội. Do vậy quản lý của nhà nước rất
cần thiết đối với sự phân công lao động.
Hình thức cưỡng bức - bất công: Cá nhân phải chấp nhận những vị trí lao đông
không phù hợp với năng lực, phẩm chất của cá nhân để phục vụ cho lợi ích của một
nhóm người nào đó tạo ra sự bất công xã hội (xã hội bóc lột)
Hình thức thiếu đồng bộ: Phân công lao động thái quá, lệch lạc chuyên môn,
quản lý không theo kịp trình độ chuyên môn dẫn đến mâu thuẫn, xung đột trong xã
hội.
+ Vấn đề đoàn kết xã hội và tự tử:
Qua tác phẩm của mình ông đã phản ứng các quan điểm cho rằng tự sát là bệnh
lý tâm thần, ông cho rằng tự sát là bệnh lý xã hội do xã hội áp đặt.
Ông là người đầu tiên thống kê một cách đầy đủ nhất về các hiện tượng tự sát,
theo ông thì những người bị rối loạn tâm thần chiếm tỉ lệ rất ít, những người có trình
độ văn hóa chỉ đứng sau những người bị rối loạn tinh thần. Đặc biệt Durkheim phát
hiện ra rằng trong 4 người tự sát chỉ có 1 phụ nữ.
Khi nghiên cứu về tự sát khác hẳn với các trường phái tư duy khác, ông cho
rằng tự sát là một hành động phản lại xã hội, là một hiện tượng mang tính xã hội và bị
quy định bởi xã hội, chứ không phải là hành động mang tính cá nhân. Tùy thuộc vào
mối quan hệ mà cá nhân mà tự sát cao hay thấp.
“ Sự tự sát biến thiên theo mức độ tương tác của các nhóm xã hội mà trong đó
cá nhân là một bộ phận, nếu như cá nhân có sự phụ thuộc vào nhóm yếu thì việc thừa
nhận các nguyên tắc hành động của nhóm sẽ ít hơn hành động cá nhân họ, điều đó
dẫn đến sự từ bỏ đời sống của cá nhân họ càng lớn”
Tự tử được chia thành 4 loại theo đặc điểm và tư tưởng của đoàn kết xã hội:
Tự tử vị kỷ: Cá nhân bị bỏ rơi, không được quan tâm đến, cá nhân sống chỉ vì
bản thân mình. Như vậy tự tử xảy ra do chủ nghĩa cá nhân quá lớn.
Tự tử vị tha: cá nhân tự xả thân vì mục tiêu của nhóm. Ví dụ: tự tử của võ sỹ
đạo ở Nhật. Sự tự tử này là do cá nhân gắn kết quá mạnh với cộng đồng.
Tự tử vô chuẩn (phi chuẩn mực): Xã hội mà các chuẩn mực cũ không còn tác
dụng kiểm soát, điều tiết hành vi của cá nhân, các chuẩn mực mới thì chưa xuất hiện
thì xã hội hỗn loạn, vô tổ chức.
Tự tử cuồng tín: Tự tử do niềm tin mù quáng, do bị kiểm soát, điều tiết quá gắt
gao, trừng phạt nặng nề về giá trị, chuẩn mực.
+ Đoàn kết xã hội và tôn giáo:
Tôn giáo là hiện tượng xã hội đặc thù có nguyên nhân xã hội và chức năng xã
hội.
Chức năng xã hội: Tôn giáo tạo ra sự đoàn kết xã hội giữa các cá nhân, củng cố
niềm tin, tăng cường gắn bó, quyết tâm của cá nhân trong xã hội.
Nguyên nhân xã hội: tôn giáo là sản phẩm của lịch sử xã hội, cuả mối tương tác
và hoạt động cộng đồng. Các ý tưởng, phạm trù, khái niệm cơ bản của tôn giáo đều có
nguồn gốc xã hội, là sản phẩm của xã hội. Chẳng hạn, thờ cúng chúa trời là thờ cúng
sức mạnh siêu phàm của chúa, thần thánh và thiên chúa là sức mạnh của xã hội.
- Các quy tắc phương pháp luận của Durkheim: Quy tắc quan sát hiện tượng xã
hội; Quy tắc phân biệt cái bình thường với cái sai lệch; Quy tắc phân loại xã hội; Quy
tắc chức năng luận; Quy tắc chứng minh xã hội học
Tóm lại, lý luận xã hội học của Durkheim bao gồm nhiều vấn đề của xã hội
hiện đại như: kinh tế, đạo đức, tôn giáo… Ông là nhà xã hội học có ảnh hưởng bậc
nhất trong xã hội học tư sản từ cuối thể kỷ XIX đến thập niên 30 của thế kỷ XX. Tuy
nhiên, quan điểm của ông về cách giải quyết các vấn đề xã hội học của ông còn mang
tính duy tâm khách quan (do ông quá nhấn mạnh vào ý thức tập thể). Mặc dù vậy
những hạn chế đó không phủ nhận được công lao và đóng góp của ông cho khoa học
xã hội học.
Câu 7: Trình bày quan điểm XHH của Herbert Spencer
1/ Tóm tắt tiểu sử: Herbert Spencer (1820 – 1903); Sinh tại: Derrby – Anh;
Học và nghiên cứu về lĩnh vực Khoa học tự nhiên, triết học và xã hội học.
Nghề nghiệp: Nhà nghiên cứu
Tác phẩm chính: Tĩnh học xã hội; Nghiên cứu xã hội học; Các nguyên lý của
xã hội, Xã hội học mô tả.
2/ Quan điểm của H.Spencer về xã hội học:
Ông là nhà xã hội học người Anh, ông cũng là người có công không nhỏ đối
với bộ môn xã hội học. Ông xuất thân từ một gia đình khá giàu có, do vậy ông không
cảm thấy cái áp lực phải thay đổi hay cách tân xã hội như Comte, thay vào đó ông
mong muốn được hiểu rõ hơn về xã hội
- Định nghĩa: Xã hội học là khoa học nghiên cứu về xã hội với tư cách là một
cơ thể sống
Kế thừa lý thuyết tiến hoá của Đác Uyn nên tiếp cận xã hội từ cái nhìn của sinh
vật học (cơ thể sống)
Coi xã hội là cơ thể sống nghĩa là xã hội phải tuân theo quy luật vận động và
phát triển của tự nhiên.
Cơ thể xã hội cũng bao gồm các cơ quan, bộ phận vận hành theo chức năng
nhất định đảm bảo sự tồn tại của cả quá trình xã hội.
H. Spencer đã vận dụng quan niệm về sự tiến hoá của Đác Uyn (nhà sinh vật
học nước Anh) để giải thích xã hội thay đổi hay tiến hoá theo thời gian như thế nào.
Từ đó ông đã cho rằng có người giàu và người nghèo trên thế giới là hết sức tự nhiên.
Cách tiếp cận về biến đổi xã hội của ông là xã hội buộc phải thay đổi dần dần,
nên người ta không phải phê phán quá nhiều vào trật tự xã hội hiện tại hay tích cực
hành động để làm biến đổi xã hội. Quan điểm này được nhiều người quyền thế ở Anh
và Mỹ ủng hộ.
- Quan điểm của H.Spencer về các loại xã hội.
+ Xã hội quân sự.
Cơ chế tổ chức, điều chỉnh mang tính tập trung, độc đoán cao độ phục vụ mục
tiêu chiến tranh, quốc phòng.
Hoạt động của cá nhân, cơ quan xã hội bị nhà nước kiểm soát mạnh.
Phân phối theo chiều từ trên xuống dưới và do nhà nước kiểm soát.
Hình thức xã hội thời chiến.
+ Xã hội công nghiệp:
Tổ chức, điều chỉnh ít tập trung và độc đoán
Phục vụ mục tiêu kinh tế- sản xuất dịch vụ thời bình.
Hoạt động của cá nhân, tổ chức xã hội không bị nhà nước kiểm soát chặt chẽ
mà mềm dẻo, linh hoạt.
Phân phối theo chiều ngang giữa các cá nhân và phân phối theo chiều dọc giữa
các tổ chức xã hội.
Hình thức xã hội thời bình.
Lưu ý: Cách phân chia trên không dựa vào trình độ của xã hội vì vậy xã hội
hiện đại có thể là xã hội quân sự và ngược lại. Cách phân loại hai xã hội trên là một
quá trình tuần hoàn: Sự suy vong của cơ chế tập trung, độc đoán mở ra cơ chế phi tập
trung và dân chủ… Tuy nhiên sự tuần hoàn mang tính kế thừa, phát huy và phù hợp
với môi trường thay đổi.
- Quan điểm về các thiết chế xã hội:
+ Định nghĩa thiết chế xã hội: Thiết chế xã hội là kiểu tổ chức xã hội xuất hiện
và hoạt động nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu, yêu cầu chức năng cơ bản của hệ thống
xã hội, đồng thời kiểm soát hoạt động của cá nhân, nhóm xã hội.
+ Các loại thiết chế:
Thiết chế gia đình – dòng họ: Đảm bảo chức năng duy trì nòi giống cho gia
đình, dòng họ trong xã hội, kiểm soát quan hệ nam nữ, nuôi dạy con cái, cuộc sống của
thành viên trong gia đình.
Thiết chế nghi lễ: Đảm bảo nhu cầu liên kết và kiểm soát quan hệ xã hội thông
qua thủ tục và nghi thức.
Thiết chế chính trị: Giải quyết xung đột trong và ngoài xã hội
Thiết chế tôn giáo: Cung cấp các giá trị, niềm tin, chuẩn mực, tư tưởng để ổn
định trật tự xã hội.
Thiết chế kinh tế: Đảm bảo nhu cầu sản xuất, dịch vụ hàng hoá phục vụ con
người.
Mỗi thiết chế có cấu trúc và chức năng đặc thù nhằm thỏa mãn nhu cầu vận
động, phát triển của xã hội theo quy luật tiến hoá.
Tóm lại, quan niệm của H.Spencer về tiến hoá xã hội đã gợi ra nhiều ý tưởng
quan trọng được tiếp tục phát triển trong các trường phái, lý thuyết xã hội học hiện đại.
Câu 8: Trình bày quan điểm XHH của Max Weber (1864 – 1920).
1/ Tóm tắt tiểu sử: Max Weber (1864 – 1920); Sinh tại: Erfut – Đức; Giáo
dục: Trường tổng hợp Heidelberg, trường tổng hợp Beclin. Nghề nghiệp: Dạy luật,
giáo sư về kinh tế, kinh tế chính trị.
Tác phẩm chính: Những tiểu luận phương pháp luận (1902);
Đạo đức tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản (1902 – 1904); Kinh tế và xã hội (1910
– 1914); Xã hội học tôn giáo (1916).
2/ Quan điểm xã hội học
- Định nghĩa: Xã hội học là khoa học giải nghĩa hành động xã hội và tiến tới
cách giải thích nhân quả về đường lối và hệ quả của hành động xã hội.
Xã hội học có nhiệm vụ tìm hiểu, lý giải động cơ, ý nghĩa của hành động xã
hội. Ông cho rằng để hiểu rõ được hành vi chúng ta phải biết được ý nghĩa chủ quan
mà người ta đã gán cho hành vi - chính họ nhìn và giải thích hành vi của họ ra sao.
Lý giải có 2 cách:
+ Lý giải trực tiếp thể hiện trong quá trình nắm bắt nghĩa của hành động qua
quan sát trực tiếp những đặc điểm, những biểu hiện của nó theo kiểu “mắt thấy tai
nghe”.
+ Lý giải gián tiếp là sự thông qua sự cảm nhận, đồng cảm, thông hiểu để đưa
ra lời mô tả, nhận xét, bình luận về động cơ, ý nghĩa sâu xa của hành động trong từng
tình huống, bối cảnh xã hội nhất định.
Weber phân biệt hai loại ý nghĩa của hành động xã hội. Một là nghĩa đang có
thực của hành động cụ thể do một chủ thể, một nhóm chủ thể gán cho hành động đó.
Hai là loại nghĩa được gán mộ cách lý thuyết cho một chủ thể, một nhóm chủ thể của
một loại hành động đã cho.
Nhìn chung, nghiên cứu xã hội học của M.Weber có nhiệm vụ trả lời các câu
hỏi về động cơ, ý nghĩa của hành động xã hội. Động cơ nào sẽ chi phối, thúc đẩy và
dẫn dắt các cá nhân, thành viên của cộng đồng xã hội hành động theo cách nó đã xảy
ra và những hành động của cá nhân, thành viên có ảnh hưởng gì đến họ và những
người xung quanh.
Weber cho rằng mục tiêu của xã hội học là đưa ra những khái niệm chung, có
tính chất khái quát, trừu tượng về hiện thực lịch sử xã hội. Do vậy, so sánh với sử học,
các lý giải xã hội học không phong phú, sinh động và cụ thể như cách trình bày, giải
thích của các nhà viết sử. Hơn nữa nếu cách giải thích của sử học nhằm chỉ ra rằng “ A
tất yếu dẫn đến B” thì cách giải thích của xã hội học chủ yếu nhằm vạch ra những
khuôn mẫu, những hình thức, những mối liên hệ có khả năng xảy ra theo kiểu “ A là
yếu tố có nhiều khả năng làm cho B xuất hiện”, “ A là bối cảnh, tình huống làm cho B
xảy ra”.
Theo cách định nghĩa của Weber về xã hội học thì xã hội học vừa có đặc điểm
của khoa học tự nhiên, tức là giải thích nguyên nhân, điều kiện và hệ quả của hành
động xã hội, vừa có đặc điểm của khoa học xã hội – nhân văn, tức là lý giải mục đích,
nhu cầu, động cơ, ý nghĩa của hành động xã hội. Những quan niệm này đã đóng vai trò
làm nền tảng cho sự phát triển khuynh hướng nghiên cứu xã hội học định tính trong xã
hội học sau này.
- Quan điểm của Weber về phân tầng xã hội:
Theo Weber, phân tầng xã hội được tạo nên từ 3 yếu tố: kinh tế - địa vị - uy tín
xã hội.
+ Yếu tố kinh tế: Ông cho rằng kinh tế là yếu tố đầu tiên tạo nên sự phân tầng
xã hội. Khác với K.Marx cho rằng phân tầng xã hội là do sự khác nhau về sở hữu tư
liệu sản xuất của các tập đoàn người thì Weber cho rằng phân tầng xã hội là do sự
khác nhau về tư sản cá nhân và nó với gắn với cơ may thị trường, đặc biệt là trong xã
hội hiện đại. Điều đó có nghĩa là cá nhân có cùng tài sản như nhau nhưng khi ra thị
trường người gặp may mắn thì thành công và ngược lại. Đó chính là cơ sở của sự phân
tầng xã hội.
+ Địa vị xã hội: Ông cho rằng mỗi người trong cuộc sống đều có địa vị xã hội,
địa vị đó gắn liền với quyền lực không thể chia sẻ cho người khác. Như vậy, địa vị
khác nhau sẽ có quyền lực khác nhau. Tập hợp tất cả các địa vị của cá nhân sẽ tạo
thành tầng lớp, do đó địa vị tạo thành các tầng lớp khác nhau trong xã hội.
+ Uy tín: Uy tín chính là sự đánh giá của xã hội về một cá nhân. Điều đó làm
cho cá nhân được tôn vinh về địa vị xã hội. Uy tín cũng không thể chia đều. Chính uy
tín khác nhau đã đưa đến quyền lực khác nhau cho các cá nhân. Hơn nữa theo ông việc
tạo ra uy tín nhiều khi còn khó hơn tạo ra quyền lực cho cá nhân.
Tóm lại: M.Weber là một trong những những nhà xã hội học đứng đầu của xã
hội phương Tây. Mặc dù còn tồn tại những hạn chế song học thuyết của ông cũng đã
có những ảnh hưởng và đóng góp rất nhiều cho khoa học xã hội học.
Câu 9: Cơ cấu XH là gì? Phân tích ý nghĩa của việc nghiên cứu cơ cấu XH?
1. Khái niệm Cơ cấu XH.
Trong lịch sử xã hội học đã từng tồn tại nhiều quan điểm và các định nghĩa
khác nhau về cơ cấu xã hội cũng như các cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau về khái
niệm - cơ cấu xã hội.
Theo quan niệm của G.V.Oxipôp, khái niệm cơ cấu xã hội có liên quan mật
thiết đến khái niệm hệ thống xã hội. Khái niệm cơ cấu xã hội bao hàm hai thành tố:
Thành phần xã hội; Những liên hệ xã hội.
Thành phần xã hội là tập hợp các bộ phận, các nhóm, các giai cấp, các công
đồng xã hội… cấu thành cơ cấu xã hội.
Theo quan niệm của Ian Robertson, “Cơ cấu xã hội là mô hình của các quan hệ
giữa các thành phần cơ bản trong hệ thống xã hội. Những thành phần này tạo nên bộ
khung cho tất cả xã hội loài người, mặc dầu tính chất của các thành phần và các quan
hệ giữa chúng biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác. Những thành phần quan trọng
nhất của cơ cấu xã hội là vị thế, vai trò, nhóm các thiết chế”1
2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu cơ cấu xã hội
Nghiên cứu cơ cấu xã hội sẽ cho chúng ta một bức tranh tổng quát về xã hội, từ
đó có thể vạch ra được chiến lược xây dựng mô hình cơ cấu xã hội tối ưu, bảo đảm sự
vận hành có hiệu quả, thực hiện tốt các vai trò xã hội theo chiều hướng tiến bộ.
Nghiên cứu cơ cấu xã hội, đặc biệt là nghiên cứu sự phân tầng xã hội, cho phép
chúng ta đi sâu vào phân tích thực trạng nhận diện được một cách chân thực những
đặc trưng và xu hướng phát triển của đất nước, từ đó có cơ sở khoa học để vạch ra
những chính sách xã hội phù hợp nhằm tập trung lôi kéo được những lực lượng tinh
hoa, những phần tử năng động nhất, tài năng nhất của xã hội để bố trí vào những vị trí
quyền lực then chốt (quyền lực chính trị, kinh tế…), quản lý và điều hành xã hội một
cách có hiệu quả, hướng vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh. Trên cơ sở vạch ra những
nhân tố lệch chuẩn hoặc những nhân tố sẽ dẫn đến phá vỡ sự ổn định xã hội, rối loạn
chức năng, các nhà xã hội học có thể kiến nghị cho các nhà quản lý xã hội đưa ra một
hệ thống chích sách thích hợp, điều chỉnh hoặc khắc phục những hiện tượng lệch
chuẩn, cũng như những biểu hiện tiêu cực khác.
Việc nghiên cứu cơ cấu xã hội – giai cấp và các phân hệ cơ cấu xã hội cơ bản
khác cho phép chúng ta nắm được cốt lõi cơ bản của cơ cấu xã hội, từ đó có chiến lược
nhằm đưa ra mô hình cơ cấu xã hội thích hợp; mặt khác, có điều kiện để hiệu chỉnh và
điều phối một tổng thể các cơ cấu xã hội sao cho hài hoà và ăn khớp với nhau trong sự
phát triển của xã hội.
Góp phần hoàn thiện công tác quản lý và ổn định xã hội trên tất cả các lĩnh vực
kinh tế chính trị xã hội…..
Câu 10: Phân tích khái niệm xã hội hóa?
- Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về xã hội hoá:
+ Xã hội hoá bao gồm tất cả quá trình tiếp diễn văn hoá: giao tiếp, học hỏi, qua
đó cá nhân con người phát triển bản chất xã hội và có khả năng tham gia vào đời sống
xã hội.
+ Xã hội hoá là quá trình trong đó cá nhân con người học hỏi và nhập tâm suốt
đời vào các yếu tố của môi trường văn hoá, xã hội, hoà nhập chúng vào cấu trúc nhân
cách của anh ta dưới ảnh hưởng của các tác nhân xã hội quan trọng và những kinh
nghiệm cá nhân. Do đó làm anh ta thích nghi với môi trường xã hội, nơi anh ta sinh
sống.
+ Xã hội hoá là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hôi, trong đó những cá
nhân học hỏi và thực hành những tri thức, kỹ năng và phương pháp cần thiết để hội
nhập với xã hội.
+ Xã hội hoá là quá trình mà trong đó cá nhân học cách thức hành động tương
ứng với vai trò của mình (Neil Smelser)
+ Xã hội hoá là quá trình hai mặt. Một mặt cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã
hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống các quan hệ xã hội, mặt
khác cá nhân tái sản xuất một cách chủ động hệ thống các mối quan hệ xã hội thông
qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động và các mối quan hệ xã hội. (G.
Andreeva).
+ Xã hội hoá là quá trình theo đó con người học cách thích ứng với xã hội và
tuân thủ các quy tắc xã hội.Quá trình này cho phép xã hội luân chuyển nền văn hoá
của mình từ thế hệ này sang thế hệ khác.
+ Xã hội hoá là quá trình mà qua đó cá nhân học hỏi được cách sống và phát
triển khả năng đóng các vai trò xã hội vừa với tư cách là một cá thể vừa với tư cách là
thành viên của nhóm.
+ Xã hội hoá tức là những con đường mà bằng cách đó con người có được
những kinh nghiệm và hiểu biết, nắm vững những mục đích phù hợp với những vai trò
xã hội của mỗi con người. Có hai mục đích: tạo ra những mối liên hệ xã hội của chúng
ta trên cơ sở những vai trò xã hội và đảm bảo sự tồn tại xã hội nhờ sự lĩnh hội những
quan niệm và mâu thuẫn hành vi bởi những thành viên mới của xã hội.
Tất cả những định nghĩa trên đều có điểm chung như sau:
Xã hội hoá trước hết là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội, qua đó cá
nhân học hỏi, lĩnh hội, tiếp nhận nền văn hoá của xã hội như khuôn mẫu tác phong xã
hội, chuẩn mực giá trị văn hoá xã hội để hoà nhập vào xã hội cũng như đáp ứng các kỳ
vọng của xã hội
Trong thực tế, xã hội hoá là quá trình tương tác giữa cá nhân và xã hội. Nhưng
khi nói đến xã hội hoá người ta nhấn mạnh quá trình con người tự học hỏi, thực hành
một cách tích cực những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của xã hội để từ đó hội nhập với
xãhội và giữ đúng vai trò nhất định của cá nhân do xã hội phân công.
Để biết xã hội hoá diễn ra như thế nào trong mức độ cá thể, chúng ta bắt đầu từ
câu hỏi: nhân cách phát triển như thế nào? Nhân cách được phát triển, hình thành trong
quá trình tương tác xã hội giữa con người với nhau. Trong thế kỷ trước, các nhà tâm lý
học, xã hội học đưa ra hàng loạt những cách giải thích khác nhau về sự hình thành
nhân cách, trên cơ sở tác động qua lại của những nhân tố khác nhau như tính chất lý
tính, môi trường xung quanh, kinh nghiệm cá nhân và văn hoá.
Câu 11: Phân tích các môi trường Xã hội hóa
Xã hội hóa liên tục diễn ra trong suốt đời của 1 con người. Mỗi giai đoạn trong
chu kỳ đời sống là sự thể hiện của kết cấu kinh nghiệm xã hội đồng thời cho thấy
những gì con người đã tiếp thu được trong quá trình xã hội hóa không ngừng.
Các môi trường xã hội hóa bao gồm:
1/ Gia đình:
Gia đình chính là môi trường xã hội hoá đầu tiên quan trọng bậc nhất của cá
nhân. Thông qua các thông tin có chủ đích và không có chủ đích, cha mẹ và những
người lớn trong gia đình truyền lại cho con cái những giá trị, niềm tin, chuẩn mực, thái
độ và cả những tri thức về thế giới xung quanh. Gia đình cũng là nơi đầu tiên truyền
cho những thành viên mới sinh ra của xã hội những ý niệm về giống phái, giới tính. Xã
hội hoá được thực hiện chủ yếu qua giao tiếp trực tiếp. Quá trình xã hội hoá của đứa
trẻ được theo dõi chặt chẽ và được điều chỉnh ngay. Những đứa trẻ sinh ra trong các
gia đình khác nhau xảy ra các quá trình xã hội hoá khác nhau. Tuy nhiên, với sự phát
triển của các tổ chức xã hội và truyền thông đại chúng, quá trình xã hội hoá trong gia
đình mất dần ảnh hưởng của nó.
2/ Nhà trường
Nhà trường là một môi trường xã hội hoá chính yếu. Đứa trẻ tiếp thu không chỉ
các môn học của nhà trường mà cả những quy tắc và những cách thức quy định hành
vi, cách thức quan hệ với giáo viên và các bạn học,... cũng như những cách nhìn nhận
về thế giới, những tư tưởng, khuôn mẫu, và giá trị mà xã hội coi trọng.
Nhà trường là nơi con người bắt đầu được tiếp xúc với tính đa dạng xã hội,
tương tác với những thành viên không phải trong tập thể cơ bản là gia đình. Tính đa
dạng xã hội ở nhà trường thường tạo ra nhận thức rõ ràng hơn về vị trí của mình trong
cấu trúc xã hội đã hình thành trong quá trình xã hội hóa ở gia đình. Nhà trường có tầm
quan trọng ngày càng tăng trong quá trình xã hội hoá của mỗi cá nhân do phần lớn thời
gian ngoài gia đình, các cá nhân phụ thuộc vào các tổ chức đó.
3/ Các nhóm XH
Cá nhân tham gia vào nhiều nhóm xã hội: nhóm bạn bè cùng lứa tuổi, nhóm
cùng sở thích, nhóm học tập, nhóm lao động sản xuất, nhóm nghề nghiệp. Những
nhóm xã hội này có ảnh hưởng quan trọng đến việc thu nhận kinh nghiệm xã hội, hoàn
thiện những kiến thức, kỹ năng lao động, và quy tắc ứng xử… Trong những nhóm này
nhóm bạn bè cùng lứa tuổi có tác động mạnh mẽ đến cá nhân tới mức có thể lấn át ảnh
hưởng của gia đình và nhà trường. Nhóm bạn cũng tạo ra cơ hội cho các thành viên
chia sẻ, thảo luận về các mối quan tâm mà thường không làm tương tự với cha mẹ hay
các thầy cô giáo, học hỏi những hành vi mà họ không được thực hiện ở các môi trường
xã hội hoá khác như gia đình, nhà trường. Tuy nhiên khi cá nhân bước vào tuổi trưởng
thành về xã hội thì nhóm lao động sản xuất, nhóm đồng nghiệp… lại đóng vai trò cực
kỳ quan trọng đối với xã hội hoá cá nhân.
4/ Truyền thông đại chúng
Trong xã hội hiện đại đây là nhân tố rất quan trọng trong quá trình xã hội hóa.
Truyền thông mang lại cho con người những kinh nghiệm xã hội, những mẫu văn hóa
mang tính tiêu chuẩn dưới cách nhìn phổ biến. Thông qua thời lượng cũng như cách
thức của những gì được chuyển tải qua các phương tiện truyền thông, xã hội bị ảnh
hưởng bởi những khuôn mẫu, giá trị... mà nó thể hiện cũng như quyền lợi của những
nhóm thứ yếu bị xem nhẹ vì họ không nắm giữ các phương tiện truyền thông. Việc
tiếp thu tri thức, thông tin qua truyền thông đại chúng ngày càng trở nên quan trọng
đối với cá nhân trong quá trình xã hội hoá.
Câu 12: Phân tích mối quan hệ giữa vị trí và vai trò xã hội?
1. Vị trí xã hội
Theo nghĩa chung nhất, “Đó là sự định vị cá nhân trong một đơn vị xã hội”.
Thông thường vị trí xã hội được hiểu theo hai nghĩa như sau:
Vị trí xã hội là chổ đứng của cá nhân trong một thang bậc xã hội nào đó, cá
nhân có thể đứng ở khoảng cao, trung bình hay thấp. Tuy nhiên vị trí xã hội phụ thuộc
vào cách so sánh các chổ đứng với nhau trong nội bộ một thang tùy thuộc vào cách
thức so sánh của thang này với thang khác lại phụ thuộc vào hệ quy chiếu của xã hội
dành cho từng loại thang bậc với những quan điểm đánh giá khác nhau. Trong trường
hợp này người ta có thể nói là địa vị, hay chức vụ xã hội ví dụ như: bác sĩ, luật sư,
giám đốc, thị trưởng…Ở đây, chúng ta cần lưu ý một cá nhân có thể có nhiều vị trí
khác nhau do cá nhân đó tham gia vào nhiều tổ chức xã hội khác nhau, nhưng trong số
đó sẽ có một vị trí then chốt.
Vị trí xã hội còn được hiểu như là tọa độ cá nhân trong uy tín xã hội. Đó là sự
đánh giá của một nhóm hay một cộng đồng xã hội đối với cá nhân, biểu thị mức độ tôn
trọng, trọng thị, kính nể. Uy tín xã hội có thể nhiều hay ít, cao hay thấp tùy thuộc vào
nhiều yếu tố…Nó không hoàn toàn phụ thuộc vào cá nhân đó có địa vị cao hay thấp,
quyền lực ít hay nhiều. Cho nên người có địa vị cao chưa hẳn nhận được sự kính trọng
của xã hội và ngược lại, người được xã hội kính trọng chưa hẳn là người có địa vị cao.
- Các loại vị trí xã hội
+ Vị trí xuất thân hay vị trí chỉ định: đó là loại vị trí xã hội mà bất kỳ cá nhân
nào cũng nhận được ngay khi mới chào đời do nguồn gốc xuất thân từ cha mẹ như tôn
giáo, sắc tộc, dòng dõi, gia thế, nghề nghiệp…“con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa
thì quét lá đa”.
+ Vị trí giành được: đó là những vị trí mà cá nhân đó có được bằng sự nổ lực
không ngừng, bằng tài năng, bằng sự phấn đấu, tự thân vận động và không thể không
tính đến những cơ may và thủ đoạn…
2. Vai trò xã hội
Vai trò là một khái niệm xuất phát từ người diễn viên đóng vai và diễn trò trên
sân khấu, sau đó được xã hội hóa vào đời sống và trở thành thuật ngữ khoa học (G. H
Mead -1934). Là khái niệm chỉ sự mong đợi xã hội đối với hành vi diễn xuất của cá
nhân trong một tình huống xã hội cụ thể và trong một khung cảnh xã hội nhất
định. Vai trò như là tập hợp những ứng xử của mỗi cá nhân mà mọi người khác chờ
đợi. Khái niệm vai trò mang tính tương quan vì không độc diễn.
- Các loại vai trò
+ Vai trò định chế: đây là loại vai trò mà khi cá nhân đóng nó thì buộc phải diễn
xuất theo những cách thức nhất định do tổ chức quy định, kèm theo đó là những biện
pháp chế tài. Cá nhân phải hành động theo những khuôn mẫu đã vạch sẵn. Cá nhân
cần phải học hỏi, huấn luyện để có kiến thức, kỹ năng cần thiết để đóng vai trò đó. Ví
dụ : vai trò của những quan chức, công chức…
+ Vai trò thường nhật: đó là vai trò mà chúng ta thường xuyên đóng và thay đổi
liên tục trong đời sống hằng ngày. Chúng ta có thể không cần phải trải qua các khóa
huấn luyện, chỉ cần bắt chước và học hỏi một cách đơn giản là có thể đóng được. Vai
trò thường nhật chiếm đa số trong tổng số vai trò mà chúng ta đóng trong suốt cuộc
đời.
+ Vai trò kỳ vọng: là vai trò mà khi cá nhân đóng nhận được nhiều sự mong
đợi, niềm tin và hy vọng từ các cá nhân, nhóm hay cộng đồng, quốc gia vào vai trò đó
và cá nhân phải có trách nhiệm đáp lại sự mong đợi đó. Ví dụ : cá nhân đi học, được
cử đi du học, vai trò đại sứ…
+ Vai trò gán: có được do một tổ chức xã hội chính thức hay một nhóm người
nào đó gán cho qua kết quả của một của một cuộc lựa chọn, bình xét hay tôn vinh. Ví
dụ : hoa hậu…
+ Vai trò lựa chọn: là loại vai trò mà cá nhân có thể lựa chọn theo ý muốn để đi
đến quyết định là đóng hay không đóng.
3. Mối quan hệ giữa vai trò xã hội và vị thế xã hội
Giữa vị trí xã hội và vai trò xã hội khác nhau tương đối.
Vị trí xã hội (hiểu theo nghĩa địa vị xã hội) thường mang tính ổn định khá cao
trong một thời gian dài, thường được một tổ chức xã hội nào đó thừa nhận, thì vai trò
xã hội lại không ổn định, luôn thay đổi theo tình huống và khung cảnh xã hội nhất
định. Nếu vị thế xã hội trả lời câu hỏi : Anh là ai ? thì vai trò xã hội trả lời cho câu
hỏi : Anh cần phải diễn xuất như thế nào ? cần phải làm gì trong tình huống và khung
cảnh đó. Vị thế xã hội có thể xem như là một cái trục định vị cá nhân thì vai trò có thể
xem như những biểu hiện đa dạng phong phú quanh nó.
Câu 13: Phân tích khái niệm bất bình đẳng và phân tầng xã hội?
1. Bất bình đẳng
Bất bình đẳng là một vấn đề trung tâm của xã hội học, nó là cơ sở tạo nên sự
phân tầng xã hội. Bất bình đẳng không phải là hiện tượng tồn tại một cách ngẫu nhiên
giữa các cá nhân mà nó xuất hiện khi có một nhóm xã hội kiểm soát và khai thác các
nhóm xã hội khác.
- Khái niệm bất bình đẳng: bất bình đẳng là sự không ngang bằng nhau về các
cơ hội hoặc lợi ích đối với những cá nhân khác nhau trong một nhóm hoặc nhiều
nhóm.
- Bất bình đẳng xã hội gồm 2 loại:
+ Bất bình đẳng mang tính tự nhiên: đó là sự khác biệt giữa các cá nhân về các
đặc điểm sẵn có như: giới, tuổi, chủng tộc, trí lực, phẩm chất sẵn có…
+ Bất bình đẳng mang tính xã hội: Đó là sự phân công xã hội dẫn đến cá nhân
có sự phân tầng, từ đó tạo ra lợi ích khác nhau giữa các cá nhân.
- Nhìn trên quan điểm của các nhà xã hội học nghiên cứu về cơ cấu xã hội thì:
Bất bình đẳng được xem như là điều kiện để tổ chức xã hội.
Bất bình đẳng là cơ sở cho việc điều chỉnh các quan hệ xã hội.
Bất bình đẳng đảm bảo cho đời sống và phát triển xã hội.
- Cơ sở tạo nên sự bất bình đẳng
Bất bình đẳng thường xuyên tồn tại với những nguyên nhân và kết quả cụ thể
liên quan đến giai cấp xã hội, giới tính, chủng tộc, tôn giáo, lãnh thổ..
Tất cả các nguyên nhân đa dạng của bất bình đẳng được quy về 3 dạng: những
cơ hội trong cuộc sống, địa vị xã hội, ảnh hưởng chính trị.
+ Những cơ hội trong cuộc sống: Gồm tất cả thuận lợi về vật chất có thể cải
thiện chất lượng cuộc sống. Thuận lợi vật chất: của cải, thu nhập, tài sản và những
điều kiện như lợi ích chăm sóc sức khoẻ, an sinh xã hội… Cơ hội trong cuộc sống là
cơ sở khách quan của bất bình đẳng xã hội.
+ Cơ sở địa vị xã hội: Bất bình đẳng về địa vị xã hội là do những thành viên của
các nhóm trong xã hội tạo nên và thừa nhận chúng. Cơ sở địa vị ở đây có thể là bất cứ
cái gì mà một nhóm xã hội cho là ưu việt và được nhóm xã hội khác thừa nhận.
+ Bất bình đẳng trong ảnh hưởng chính trị: có được do có ưu thế vật chất hoặc
địa vị cao. Thực tế, bản thân chức vụ chính trị là cơ sở đạt được địa vị và những cơ hội
trong cuộc sống. Như vậy, có thể nói gốc rễ của sự bất bình đẳng nằm trong mối quan
hệ kinh tế, địa vị xã hội và quan hệ chính trị.
2. Phân tầng xã hội
- Khái niệm phân tầng xã hội:
Phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của xã hội loài người
(trừ xã hội sơ khai). Đó là sự phân chia xã hội thành các tầng xã hội khác nhau về địa
vị chính trị, kinh tế và xã hội, cũng như những sự khác nhau về trình độ học vấn, nghề
nghiệp, phong cách sinh hoạt, kiểu ăn mặc, nơi cư trú, thị hiếu nghệ thuật, mức độ tiêu
dùng…
Từ định nghĩa trên chúng ta có thể hiểu phân tầng xã hội theo ba đặc trưng:
+ Thứ nhất: phân tầng xã hội là sự phân hoá các cá nhân thành những tầng lớp,
thứ bậc khác nhau trong cơ cấu xã hội (phân chia thành lớp trên, dưới).
+ Thứ hai: phân tầng xã hội luôn gắn với bất bình đẳng xã hội và phân công lao
động.
+ Thứ ba: phân tầng xã hội được lưu truyền qua thế hệ và có sự thay đổi nhất
định.
- Nguyên nhân của hiện tượng phân tầng.
Có thể xác định hiện tượng phân tầng qua hai nguyên nhân:
+ Thứ nhất: đó là do sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của tất cả các chế độ xã
hội (trừ giai đoạn đầu của thời kỳ nguyên thuỷ). Thực tế, mỗi con người trong mỗi một
xã hội luôn có sự khác biệt về thể chất, trí tuệ (có người khoẻ, yếu, thông minh, kém
cỏi, người gặp những cơ may thăng tiến, người chịu rủi ro, thiệt thòi…). Chính sự
khác biệt một cách tự nhiên, khách quan này tạo ra những khả năng chiếm giữ các địa
vị xã hội cao thấp, khác nhau.
+ Thứ hai: do sự phân công lao động đưa đến sự khác nhau về nghề nghiệp, thu
nhập, các điều kiện làm việc… đó cũng là những yếu tố tạo nên sự khác nhau về địa vị
xã hội.
Ngoài ra, còn có những yếu tố chủ quan cá nhân tác động vào quá trình phân
tầng xã hội. Ví dụ: trong xã hội cực quyền, sự lạm dụng và thao túng quyền lực của
các lãnh chúa (xã hội cũ) và giáo hội cũng tạo ra sự phân tầng hoặc làm gay gắt hơn,
làm biến dạng những trật tự vốn có.
- Các loại phân tầng.
Khi xét đến hậu quả của phân tầng ta có thể phân chia phân tầng thành hai loại:
phân tầng xã hội hợp thức, phân tầng xã hội không hợp thức.
+ Phân tầng xã hội hợp thức: dựa trên cơ sở đạo đức, tài năng, mức độ đóng
góp trong thức tế cho xã hội. Sự phân tầng này đưa đến công bằng xã hội, là động lực
thúc đẩy sự phát triển của xã hội, góp phần tạo nên trật tự và ổn định xã hội. Do đó, ta
thừa nhận sự tồn tại và thiết chế hoá sự phân tầng hợp thức.
+ Phân tầng xã hội không hợp thức: dựa trên cơ sở sự tham nhũng, làm ăn phi
pháp, lười biếng, thủ đoạn, trộm cướp. Nó đưa đến bất công xã hội, kìm hãm, cản trở
sự phát triển xã hội, tạo ra sự bất bình đẳng xã hội, đưa đến xung đột, mâu thuẫn và
mất ổn định xã hội. Chúng ta không chấp nhận sự tồn tại của hiện tượng phân tầng
này, kiên quyết phê phán, kiểm soát, quản lý, trừng phạt và xoá bỏ chúng.
- Hệ thống phân tầng xã hội:
+ Phân tầng xã hội theo tuổi:
Là hiện tượng phổ biến trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ (thời kỳ tiền giai
cấp). Đến xã hội có giai cấp, vẫn tiếp tục có sự bất bình đẳng về lứa tuổi. Lứa tuổi thể
hiện sự khác nhau về uy tín xã hội và kinh nghiệm. Người cao tuổi có quyền dạy bảo
người ít tuổi hơn (chứ không có sự ngược lại).
Trong xã hội truyền thống (dựa trên kinh tế nông nghiệp với các công xã nông
thôn), quyền lực của các công lão được coi là chuẩn mực. Ở xã hội hiện đại “ sống lâu
lên lão làng” không còn là con đường thăng tiến địa vị xã hội chủ yếu nữa nhưng vẫn
là dấu ấn đậm nét trong nhiều sinh hoạt cộng đồng khác nhau.
+ Phân tầng đóng:
Tồn tại trong xã hội có sự phân chia đẳng cấp. Ở chế độ này con người rất khó
có thể thay đổi địa vị của mình. Vị thế của họ được ấn định bởi dòng dõi, nguồn gốc
của cha mẹ, hầu như là bất biến nếu không có những biến động xã hội to lớn.
Quan hệ hôn nhân mang tính “nội giao”, cấm sự kết hôn giữa những người
thuộc đẳng cấp khác. Sự cấm đoán này diễn ra hết sức nghiêm ngặt, nếu vi phạm điều
này có thể bị trừng phạt rất nặng nề.
Hệ thống phân tầng đóng kìm hãm, níu kéo sự phát triển của xã hội. Hiện nay
vết tích của hệ thống phân tầng đóng vẫn còn ở một số vùng như Bắc Phi, Trung Đông
và Châu Á (vào năm 1981 vẫn còn hơn 1 triệu người sống trong cảnh nô lệ).
+ Phân tầng mở: Đó là hệ thống phân tầng trong xã hội có giai cấp. Địa vị cá
nhân thường phụ thuộc trực tiếp vào nghề nghiệp và thu nhập của họ. Vị thế con người
có được phần lớn là do chủ quan đạt được chứ không phải là vị thế sẵn có.
+ Phân tầng dựa theo trình độ phát triển xã hội gồm có:
Phân tầng xã hội hình chóp: Phản ánh xã hội có sự bất bình đẳng ở mức cao, dù
cho kinh tế rất phát triển hay lạc hậu (Hoa Kì).
Phân tầng xã hội hình thoi: Hai nhóm xã hội giàu và nghèo đều chiếm tỷ lệ nhỏ,
nhóm trung lưu ở giữa chiếm đại đa số (Nhật Bản). Tuy vậy khoảng cách giũa giàu và
nghèo còn rất cao, điều đó cho thấy sự bất bình đẳng còn lớn.
Phân tầng xã hội hình quả trứng: Trung lưu chiếm đa số, bất bình đẳng vẫn còn
cao song không còn những người quá nghèo hoặc tình trạng một số ít nắm tuyệt đại bộ
phận tài sản của xã hội (Bắc Âu)
Phân tầng hình giọt nước: Khoảng cách giàu nghèo vẫn còn nhưng không đáng
kể. Đại bộ phận nhân dân có mức sống trung bình và khá (các nước Đông Âu cũ).
Câu 14: Phân tích khái niệm thiết chế xã hội?
1. Thiết chế xã hội:
Thiết chế xã hội là một tổ chức xã hội đặc thù, tập hợp tương đối bền vững các
giá trị, chuẩn mực, vai trò vị thế các nhóm xã hội vận hành xung quanh một nhu cầu
cơ bản của xã hội, nhằm đảm bảo tính kế thừa và tính ổn định tương đối của những
mối liên hệ trong khuôn khổ nhất định.
2. Đặc điểm của thiết chế xã hội:
- Tính bền vững và ổn định
- Các thiết chế có xu hướng phụ thuộc vào nhau, do tính đồng bộ của hệ thống
xã hội khi một thiết chế thay đổi dẫn đến các thiết chế khác cũng thay đổi theo.
Do thiết chế xã hội được thiết lập trên nhu cầu xã hội cơ bản nên bất kỳ một
thiết chế nào suy yếu đổ vỡ đều trở thành những vấn đề nghiêm trọng của xã hội.
3. Chức năng của thiết chế:
Điều chỉnh, điều hòa, khuyến khích hành vi của con người sao cho phù hợp với
chuẩn mực, quy định của thiết chế đồng thời ngăn chặn, kiểm soát, giám sát hành vi
sai lệch hệ giá trị chuẩn mực do thiết chế quy định.
Câu 15: Phân tích các thiết chế cơ bản và mối quan hệ giữa chúng?
1/ Thiết chế gia đình:
Điều chỉnh hành vi tình dục và giới;
Duy trì và tái sản xuất xã hội;
Chăm sóc và bảo vệ trẻ em;
Xã hội hóa trẻ em và thanh thiếu niên;
Gắn vai trò và thiết lập vị thế đã được kế thừa từ gia đình;
Bảo đảm cung cấp kinh tế gia đình.
2/ Thiết chế giáo dục:
Chuẩn bị cho cá nhân nghề nghiệp xã hội;
Truyền bá và chuyển giao di sản văn hóa qua các thế hệ;
Giúp cá nhân làm quen với các giá trị xã hội;
Chuẩn bị cho các cá nhân tiếp nhận vai trò xã hội và đảm nhiệm các vai trò phù
hợp với sự mong đợi của xã hội;
Tham gia kiểm soát và điều chỉnh hành vi của cá nhân và các quan hệ xã hội.
3/ Thiết chế kinh tế:
Sản xuất trao đổi hàng hóa và dịch vụ; Phân phối hàng hóa và dịch vụ; Tiêu
dùng sản phẩm và sử dụng dịch vụ.
4/ Thiết chế nhà nước:
Thể chế hóa hiến pháp, bộ luật hoặc các quy định; Thực thi các điều luật đã
được thông qua; Giải quyết xung đột giữa các nhóm xã hội; Thiết lập và duy trì các
dịch vụ an ninh xã hội: sức khỏe, giáo dục, phúc lợi…; Bảo vệ chủ quyền quốc gia và
trật tự xã hội , bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của công dân.
5/ Thiết chế tôn giáo:
Hình thành và giúp đỡ các cá nhân tìm kiếm niềm tin, đạo đức thống nhất; Thúc
đẩy sự hòa đồng và đoàn kết xã hội.
Câu 16: Phân tích mối quan hệ giữa chuẩn mực XH, sai lệch XH và kiểm
soát XH?
1/ Chuẩn mực XH
Chuẩn mực xã hội là yếu tố không thể thiếu được trong việc quản lý xã hội, là
một trong những phương tiện định hướng hành vi của cá nhân hay nhóm xã hội trong
những điều kiện nhất định và là phương tiện kiểm tra của xã hội đối với hành vi của
họ.
Như vậy, chuẩn mực của xã hội quy định những mục tiêu cơ bản, những giới
hạn, những điều kiện và các hình thức ứng xử trong những lĩnh vực quan trọng nhất
của đời sống xã hội, hoặc đối với nhóm xã hội. Nó góp phần củng cố các hành vi thể
hiện các mối quan hệ xã hội điển hình – những hành vi này tiêu biểu cho đa số đại biểu
cho một nhóm xã hội, một tầng lớp xã hội nhất định, được họ tán thành và hoan
nghênh nhất.
Vì vậy ta có thể coi chuẩn mực xã hội là những quy tắc, yêu cầu của xã hội đối
với cá nhân quy định khối lượng, tính chất và giới hạn của cái có thể và được phép
trong hành vi của mỗi cá nhân, xã hội.
Những quy tắc và yêu cầu của xã hội có thể được ghi vào trong các văn bản có
tính pháp quy như văn kiện chính trị, đạo luật, điều lệ, văn bản tôn giáo…. có thể được
nêu ra và phản ánh trong sách báo, văn học… đồng thời chuẩn mực được thể hiện ra
bên ngoài quy định hành vi của cá nhân thông qua dư luận, cách nhìn của cá nhân
hoặc xã hội, thông qua mẫu mực ứng xử được lặp đi lặp lại từ thế hệ này sang thế hệ
khác như phong tục truyền thống hoặc được tái hiện một cách tương đối thường xuyên
trong phạm vi phổ biến.
2/ Sai lệch xã hội (lệch chuẩn xã hội)
Người ta gọi bất kỳ hành vi nào không phù hợp với mong đợi của một nhóm
hoặc của xã hội là hành vi lệch chuẩn. Nói cách khác, hành vi lệch chuẩn là hành vi
lệch khỏi các quy tắc chuẩn mực của nhóm hay xã hội. Nó là hậu quả của quá trình xã
hội hoá không hoàn toàn. Các ví dụ điển hình về hành vi lệch chuẩn trong xã hội ta
hiện nay: giết người, trộm cắp, điên loạn, tâm thần, tham ô, nghiện nghập, mãi dâm…
Để xác định một hành vi có lệch chuẩn hay không, trước hết phải xác định các
quy tắc văn hoá của xã hội (nhóm) mà chủ thể hành vi đang sống. Trên cơ sở đó xác
định mức độ phù hợp giữa hành vi của cá nhân, nhóm với quy tắc đó. Một hành vi cá
nhân, nhóm bao giờ cũng là một hành vi xã hội. Nó có thể là bình thường hay lệch
chuẩn, tuỳ thuộc vào giá trị của nó đối với xã hội. Nó có thể được thừa nhận là đúng
đắn trong nền văn hoá xã hội này nhưng lại bị coi là lệch chuẩn so với văn hoá xã hội
khác.
3/ Kiểm soát xã hội
Kiểm soát xã hội là các kỹ thuật hay chiến lược nhằm mang lại sự đảm bảo cho
mỗi cá nhân được quyền thực hiện các quy tắc xã hội, duy trì sự tuân thủ các quy tắc
đó, phát hiện và ngăn chặn, điều chỉnh các hành vi lệch chuẩn và các nguyên nhân dẫn
đến hành vi đó.
4/ Mối quan hệ giữa chuẩn mực xã hội, sai lệch xã hội và kiểm soát xã hội
………………………
Câu 17: Biến đổi xã hội là gì? Trình bày 1 số đặc trưng của biến đổi xã
hội?
1/ Khái niệm
Biến đổi xã hội là quá trình mà qua đó các khuôn mẫu của hành vi, quan hệ,
thiết chế xã hội và các hệ thống phân tầng xã hội được thay đổi theo thời gian.
2/ Đặc trưng của biến đổi xã hội
- Diễn ra trong những môi trường, không gian xã hội khác nhau;
- Tốc độ, tính chất khác nhau;
- Biến đổi xã hội diễn ra trên nhiều phương diện khác nhau;
- Vừa có tính chất tự giác vừa có tính phi kế hoạch;
- Vừa mang kết quả tốt hoặc mang hậu quả;
- Có biến đổi diễn ra trong thời gian dài nhưng có khi chỉ diễn ra trong thời gian
ngắn.
Câu 18: Vấn đề xã hội là gì? Phân tích 1 vài vấn đề xã hội ở Việt Nam hiện
nay?
1/ Vấn đề xã hội: Vấn đề xã hội tồn tại khi một nhóm có ảnh hưởng khẳng
định rằng, một điều kiện xã hội cụ thể tác động đến một nhóm dân cư là một vấn
đề có thể được chữa trị bằng các hành động tập thể.
2/ Liên hệ
- Vấn đề ly hôn tăng cao;
- Vấn đề về giảm nghèo bền vững;
- Vấn đề việc làm;
- Vấn đề an toàn giao thông;
- Vấn đề giáo dục;
- Vấn đề y tế; ….