Tải bản đầy đủ (.doc) (110 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư xây dựng làng quốc tế thăng long của tổng công ty xây dựng hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (453.5 KB, 110 trang )

Lời mở đầu

Đầu tư là một hoạt động kinh tế chủ yếu quyết định sự tăng
trưởng và phát triển của nền kinh tế nói chung và doanh nghiệp nói
riêng. Xu hướng phổ biến và hiệu quả nhất hiện nay là đầu tư theo
dự án. Như vậy, dự án đầu tư có tầm quan trọng đặc biệt với sự
nghiệp phát triển kinh tế nói chung và đối với từng doanh nghiệp
nói riêng. Sự thành bại của một doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào
việc dự án đầu tư được thực hiện có hiệu quả hay không. Đến lượt
mình, chất lượng thực hiện dự án đầu tư lại phụ thuộc vào chất
lượng thẩm định nhất là chất lượng thẩm định tài chính .
Nhận thức được điều đó, trong quá trình thẩm định dự án
trước khi quyết định đầu tư , Tổng công ty xây dựng Hà Nội đã chú
trọng tới khía cạnh tài chính của dự án bởi nếu không thực sự
nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án thì không thể đo
lường được hiệu quả trong xây lắp, trong việc đa dạng hoá sản
xuất kinh doanh và hiệu quả thực hiện dự án không được đảm
bảo theo chiến lược phát triển của Tổng công ty . Tuy nhiên,
trong công tác này hiện nay Tổng công ty đang gặp không ít khó
khăn, chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư vì thế chưa cao,
đặc biệt đối với dự án đầu tư trong lĩnh vực kinh doanh xây dựng .
Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư đang là vấn
1


đề được Tổng công ty rất quan tâm nhằm nâng cao hiệu quả của dự
án.
Trong thời gian thực tập tại Tổng công ty, với mong muốn
góp phần tìm kiếm giải pháp cho vấn đề trên, em đã lựa chọn đề tài
cho luận văn tốt nghiệp
Tên đề tài:


Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu
tư xây dựng làng quốc tế thăng long của tổng công ty xây dựng
hà nội.
Nội dung của Luận văn được trình bày theo ba chương :
Chương 1: Dự án đầu tư và chất lượng thẩm định tài
chính dự án đầu tư của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng chất lượng thẩm định tài chính dự
án đầu tư xây dựng Làng Quốc Tế Thăng Long của Tổng Công
ty xây dựng Hà Nội.
Chương 3 : Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định tài
chính dự án đầu tư xây dựng Làng Quốc Tế Thăng Long.
Do trình độ còn hạn chế, thời gian thực tập còn ít nên vấn đề
nghiên cứu không tránh khỏi thiếu sót, em mong nhận được nhiều ý
kiến đóng góp để sửa chữa và hoàn thiện thêm. Em xin chân thành
2


cám ơn cô giáo TS. Lưu Linh Hương –giảng viên môn tài chính
doanh nghiệp –trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân Hà Nội và tập
thể cán bộ phòng tài chính –kế toán thuộc Tổng công ty xây dựng
Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này.

3


Chương I
Dự án đầu tư và Chất lượng thẩm định
tài chính dự án đầu tư của doanh nghiệp

1.1. Dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư của doanh nghiệp

1.1.1 Khái niệm, đặc điểm và các bước thiết lập dự án đầu tư của
doanh nghiệp
“ Hoạt động đầu tư là quá trình sử dụng các nguồn lực về tài
chính , lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản vật chất
khác nhằm trực tiếp hay gián tiếp sản xuất giản đơn và tái sản xuất
mở rộng các cơ sở vật chất kĩ thuật của nền kinh tế nói chung, của
địa phương , của ngành , của các cơ sở sản xuất kinh doanh , dịch
vụ , các cơ quan quản lí nhà nước và xã hội nói riêng. “
Tầm quan trọng của hoạt động đầu tư , đặc điểm và sự phức
tạp về mặt kĩ thuật , hậu quả và hiệu quả tài chính , kinh tế-xã hội
của hoạt động đầu tư đòi hỏi để tiến hành một công cuộc đầu tư
phải có sự chuẩn bị cẩn thận và nghiêm túc. Có nghĩa là mọi công
cuộc đầu tư phải thực hiện theo dự án thì mới đạt hiệu quả mong
muốn.
Dự án đầu tư có thể được xem xét dưới nhiều góc độ . Theo
nghị định 177/CP ngày 20/10/1994 qui định : “ Dự án đầu tư là
tập hợp đề xuất về việc bỏ vốn để tạo mới , mở rộng hoặc cải
4


tạo những đối tượng nhất định nhằm đạt sự tăng trưởng về số
lượng, cải tiến hoặc nâng cao chất lượng sản phẩm hay dịch vụ
nào đó trong một khoảng thời gian nhất định”.
Như vậy , dù xét theo một góc độ nào , dự án đầu tư đều có
những đặc điểm cơ bản sau:
- Mục tiêu của dự án đầu tư: Đó là những mục tiêu chính cần đạt
được thông qua việc thực hiện dự án đầu tư, đó là những kết
quả và lợi ích mà dự án đem lại cho nhà đầu tư và xã hội.
- Các kết quả : Đó là những kết quả cụ thể , có thể định lượng ,
được tạo ra từ các hoạt động khác nhau của dự án.

- Các hoạt động : Là những nhiệm vụ hoặc hành động được thực
hiện trong dự án để tạo ra các kết quả nhất định.
- Các nguồn lực : Là các nguồn về tài chính, vật chất và con người
cần thiết để tiến hành các hoạt động của dự án.
- Thời gian : Là vòng đời của dự án đầu tư, bắt đầu từ nghiên cứu
cơ hội đầu tư cho đến khi dự án chấm dứt hoạt động.
Tuỳ theo mục đích nghiên cứu và thuận tiện cho việc quản lí ,
giám sát , dự án đầu tư có thể được phân chia theo các tiêu thức
sau:
- Theo qui định của Nhà Nước : Có hai loại dự án
+ Dự án tiền khả thi : Là dự án có qui mô lớn , giải pháp đầu tư
phức tạp và thời gian đầu tư dài.

5


+ Dự án khả thi : là dự án chi tiết, giải pháp có tính căn cứ và
hợp lí, có thể thực hiện được, khả năng tạo ra kết quả như dự tính
và đạt được mục tiêu đề ra có thể được xem là chắc chắn.
- Theo lĩnh vực hoạt động có dự án đầu tư, phát triển sản xuất ,
kinh

doanh , dự án đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật, dự án

đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng..
- Theo giai đoạn hoạt động có dự án đầu tư thương mại, dự án đầu
tư sản xuất.
- Theo nguồn vốn có dự án đầu tư có vốn huy động trong nước
(vốn tích luỹ của ngân sách, của doanh nghiệp, tiết kiệm từ dân cư.
) , dự án đầu tư có vốn huy động từ nước ngoài (vốn đầu tư gián

tiếp, vốn đầu tư trực tiếp.)
Trong thực tế, dự án đầu tư còn được phân chia theo nhiều tiêu
thức để đáp ứng các yêu cầu khác nhau nhưng dù đựoc phân chia
như thế nào thì bản chất đó cũng là một sự chuẩn bị cẩn thận và
nghiêm túc cho hoạt động đầu tư, nó đóng vai trò quan trọng đối
với mọi chủ thể đầu tư : Nhà nước, doanh nghiệp hay các thể chế
tài chính.
Một dự án đầu tư khi bắt đầu tiến hành đến khi kết thúc thường
phải trải qua ba giai đoạn:
• Giai đoạn tiền đầu tư: Đây là quá trình chuẩn bị cho dự án
đầu tư bao gồm các hoạt động chính:

6


- Nghiên cứu cơ hội đầu tư: Sản phẩm của bước này là báo
cáo kinh tế kĩ thuật về cơ hội đầu tư.
- Nghiên cứu tiền khả thi : Đây là bước sơ bộ lựa chọn khả
năng đầu tư chủ yếu từ cơ hội đầu tư. Lựa chọn này dựa
trên một số tiêu chuẩn sau :
 Dự án phải phù hợp với chính sách phát triển của Đảng và
Nhà nước.
 Sản phẩm của dự án có thị trường tiêu thụ và khả năng
cạnh tranh.
 Khả thi về mặt tài chính .
 Phù hợp về khả năng tài chính của chủ đầu tư.
- Nghiên cứu và xây dựng dự án khả thi : Sản phẩm của bước
này là luận chứng kinh tế kĩ thuật.
- Thẩm định và ra quyết định đầu tư: sau bước này dự án đầu
tư hoặc bị bác bỏ hoặc được tiến hành đầu tư.

• Giai đoạn đầu tư : Là việc cụ thể hoá nguồn hình thành vốn
đầu tư và triển khai dự án dự án đầu tư.
• Giai đoạn đi vào hoạt động : Giai đoạn này bao gồm các nội
dung:
- Sản xuất thử : Sản phẩm của bứoc này cùng để rút kinh
nghiệm thực hiện .
- Đưa công trình vào hoạt động để chính thức đưa sản phẩm ra
thị trường tiêu thụ.
7


- Đánh giá dự án : Đánh giá để rút kinh nghiệm cho giai đoạn
đầu tư tiếp theo hoặc cho dự án tiếp theo.
Dự án đầu tư được chuẩn bị chu đáo, đầy đủ sẽ làm hạn chế
đến mức thấp nhất những rủi ro có thể xảy ra đối với chủ đầu tư
và mang lại nguồn lợi ích to lớn. Vì vậy có thể thấy rằng dự án
đầu tư đóng vai trò quan trọng đối với mọi chủ thể : Nhà Nước ,
các thể chế tài chính và đặc biệt là doanh nghiệp.

1.1.2. Tầm quan trọng của dự án đầu tư đối với doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường.
Thực tế phát triển kinh tế ở tất cả các nước trên thế giới đều
cho thấy rằng một doanh nghiệp muốn thành công trong hoạt động
sản xuất - kinh doanh và thực hiện được các mục tiêu đã đề ra đều
phải giải quyết được ba vấn đề cơ bản: Quyết định đầu tư vào
đâu , đầu tư như thế nào, và việc đầu tư đó phục vụ cho ai.
Trong giai đoạn nền kinh tế nước ta theo con đường kế hoạch
hoá tập trung bao cấp , Nhà nuớc giao chỉ tiêu pháp lệnh cho các
ngành địa phương và các cơ sở kinh doanh đồng thời Nhà nước cấp
phát vốn vật tư để các cơ sở thực hiện nhiệm vụ . Hoàn thành

nhiệm vụ các cơ sở phải giao nộp sản phẩm và chỉ tiêu pháp lệnh
đã ban hành. Với mô hình này , doanh nghiệp thường chờ đợi , ỷ lại
vào Nhà nuớc , thiếu năng động , sáng tạo thiếu trách nhiệm trước
kết quả sản xuất - kinh doanh của mình. Chính mô hình kinh tế này
8


đã làm cho các doanh nghiệp Việt nam không phát triển lên được ,
hoạt động thường xuyên lỗ , không quan tâm dến việc cải tiến kĩ
thuật công nghệ mà chỉ dựa dẫm hoàn toàn vào Nhà nước.
Sau đại hội đảng thứ VI , Nhà nước đã thực hiện quỳên giao
vốn cho các doanh nghiệp và các doanh nghiệp đã thực hiện nhiệm
vụ nhận và sử dụng có hiệu quả, hạch toán kinh doanh độc lập ,
chịu trách nhiệm trước hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Chính vì vậy, các doanh nghiệp đã phải thay đổi tư duy và nếp nghĩ
truyền thống , ỷ lại để chuyển hướng sang hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường.
Như đã khẳng định ngay ở trên, doanh nghiệp phải tính toán
khả năng sản xuất của nền kinh tế và của bản thân doanh nghiệp để
lưạ chọn đầu tư vào đâu để đạt được mục tiêu mà nhà quản lí
doanh nghiệp đề ra. Nhu cầu trên thị trường thì đa dạng và phong
phú, ngày càng tăng về số lượng và chất lượng nhưng trên thực tế
nhu cầu có khả năng thanh toán lại thấp hơn vì vậy doanh nghiệp
phải sáng suốt tính toán , cân nhắc quyết định lựa chọn sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó, để đứng vững và cạnh tranh thắng lợi trên thị
trường ,
các doanh nghiệp phải luôn đổi mới kĩ thuật và công nghệ , nâng
cao trình độ công nhân và quản lí nhằm tăng hàm lượng chất xám
trong hàng hoá và dịch vụ. Chất lượng hàng hoá, dịch vụ là vấn đề
9



có ý nghĩa quýêt định sống còn trong cạnh tranh và chiếm lĩnh thị
trường , chất lượng cao bảo đảm chữ tín của doanh nghiệp với bạn
hàng, chiếm lĩnh được thị trường và cạnh tranh thắng lợi. Động cơ
tối đa hoá giá trị của chủ sở hữu hay của nhà quản trị doanh nghiệp
đã khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm, lựa chọn đầu tư như
thế nào.
Quyết định đầu tư cho ai là việc xác định của doanh nghiệp
về khách hàng thường xuyên , đặc biệt là khách hàng tiềm năng.
Với hoạt động này đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư nghiên
cứu thị trường và trên thực tế các doanh nghiệp chỉ tiến hành đầu tư
một lần. Bên cạnh đó , trong môi truờng cạnh tranh của nền kinh tế
thị trường, doanh nghiệp phải luôn nâng cao chất lượng sản phẩm,
hạ giá thành sản xuất nhưng vẫn đem lại hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh. Đây là một nhiệm vụ không dễ dàng mà để tồn tại
và phát triển đòi hỏi doanh nghiệp phải tiến hành đầu tư.
Quyết định đầu tư có một tầm quan trọng đặc biệt bởi nó có
tính chiến lược, quyết định tương lai của doanh nghiệp. Một quyết
định đầu tư khôn ngoan sẽ mang lại lợi ích lâu dài của doanh
nghiệp, ngược lại sẽ buộc doanh nghiệp phải gánh chịu hậu quả
trong thời gian không ngắn.Vì vậy, để đảm bảo cho mọi cuộc đầu
tư phát triển được tiến hành thuận lợi, đạt mục tiêu mong muốn thì
trước khi bỏ vốn phải làm công tác chuẩn bị. Có nghĩa là, phải xem
xét tính toán toàn diện các khía cạnh kinh tế- tài chính - kĩ thuật ,
10


môi trường xã hội , pháp lí...có liên quan đến quá trình thực hiện
đầu tư đến sự phát huy tác dụng và hiệu quả đạt được của công
cuộc đầu tư. Mọi sự xem xét, tính toán và chuẩn bị này được thể

hiện trong dự án đầu tư và thẩm định dự án đầu tư. Có thể nói , dự
án đầu tư được soạn thảo tốt là kim chỉ nam, là cơ sở vững chắc, là
tiền đề cho việc thực hiện các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả mong
muốn. Trên góc độ doanh nghiệp,

doanh nghiệp phải tiến hành

xây dựng tốt dự án đầu tư, thẩm định tất cả những yếu tố liên quan
đến dự án và đặc biệt phải chú trọng vào thẩm định tài chính bởi
chất lượng thẩm định tài chính ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc vào
hoạt động đầu tư của doanh nghiệp.
1.1.3 Quá trình thẩm định dự án đầu tư của doanh nghiệp.
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức, xét duyệt một cách
khách quan có cở khoa học và toàn diện các nôị dung cơ bản ảnh
hưởng trực tiếp tới tính khả thi của dự án, từ đó ra quyết định đầu
tư và cho phép đầu tư.
Thẩm định dự án đầu tư nhằm đánh giá được tính hiệu quả của dự
án thông qua việc xem xét đánh giá:
 Thứ nhất, tính khả thi của dự án : Nếu tính hiệu quả của dự
án là điều kiện cần cho một dự án được thực hiện thì tính khả
thi của dự án là điều kiện đủ. Tính khả thi của dự án chủ yếu
thể hiện tính khả thi về công nghệ, về thị trường, về năng lực
quản lí, về nguyên vật liệu. Nếu các kết quả thẩm định cho
11


thấy dự án sẽ không thể huy động đủ số vốn thực tế cần dùng
(nếu khẳng định là có hiệu quả) thì không thực hiện dự án hay
hoãn thực hiện chắc chắn là cáh làm tối ưu hơn cả.
 Thứ hai, tính hợp lí của dự án : Tính hợp lí của dự án thể

hiện ở việc lập hồ sơ đầy đủ về số lượng, đúng qui định về
mặt pháp lí, mục tiêu của dự án phải phù hợp với ngành nghề
kinh doanh và thực trạng với tiềm lực của doanh nghiệp. Các
thông số tài chính, kĩ thuật, công nghệ và môi trường phải
theo sát các tiêu chuẩn định mức.
 Thứ ba, tính hiệu quả của dự án: Hiệu quả của một dự án
đem lại thường được đánh giá trên nhiều góc độ, phân chia
thành hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh tế – xã hội. Hiệu
quả của một dự án phải được tính toán trên cơ sở doanh thu
trừ chi phí hợp lí và các nghĩa vụ mà dự án phải đóng góp sao
cho vừa có thể thực sự đem lại một khoản thu cho chủ đầu tư
và đảm bảo sự phát triển bền vững. Dự án chỉ được chấp nhận
phê duyệt nếu các kết quả thẩm định cho thấy dự án thực sự
có hiệu quả.
Việc xem xét và đánh giá các mặt của dự án phải được tiến hành
theo một trình tự biện chứng và đâỳ đủ cơ sở pháp lí từ tổng quan
đến chi tiết , từ kết luận trước làm tiền đề cho kết luận sau:
- Thẩm định các văn bản pháp lí :

12


Trước hết cần xem xét hồ sơ trình duyệt đã đủ hay chưa, có
hợp lệ hay không? Thành phần các hồ sơ trình duyệt phải đúng
theo qui định của Nhà Nước đối với từng loại dự án. Tiếp theo mới
thẩm định tư cách pháp nhân và năng lực của chủ đầu tư. Ngoài ra
có thể thẩm định thêm các văn bản pháp lí khác tuỳ thuộc vào từng
loại dự án như các văn bản liên quan đến phần vốn góp của các
bên, các văn bản nêu ý kiến của các cấp chính quyền, các ngành
chủ quản, các văn bản liên quan đến địa điểm..

- Thẩm định về thị trường:
Đây là các qui trình tìm hiểu để kiểm tra tính toán về nhu cầu
thị trường, khả năng chiếm lĩnh thị trường và cạnh tranh. Liệu dự
án khi đưa vào thực hiện sẽ được công chúng và khách hàng quan
tâm, đón nhận như thế nào, lợi ích mà dự án đem lại cũng phụ
thuộc rất lớn vào nhu cầu thị trường trong thời điểm khai thác dự
án.
Tiếp theo là việc xem xét vùng thị trường. Nếu cần qui định
vùng thị trường cho dự án (thị trường trong nước) để đảm bảo cân
đối với các khu vực khác.
- Thẩm định về kĩ thuật:
Đó là công việc kiểm tra các phép tính toán, tính phù hợp của
công nghệ, thiết bị đối với từng dự án, đối với điều kiện Việt nam
(trình độ, khí hậu), khả năng phát triển trong tương lai, tỉ lệ phụ
tùng thay thế, điều kiện vận hành bảo trì.
13


Việc kiểm tra kĩ thuật công nghệ phải có ý kiến của chuyên
ngành kĩ thuật trên tất cả các yếu tố kể cả thẩm định các khoản chi
phí dự toán, đối chiếu với các công trình tương tự.
-Thẩm định về tài chính:
Thẩm định tài chính liên quan trực tiếp đến quyền lợi của chủ
đầu tư và một phần quyền lợi chung của đất nước và xã hội nên cần
phải xem xét kĩ về các khía cạnh như phương pháp tính toán, xác
định tổng vốn, cơ cấu vốn và độ an toàn về tài chính….
-Thẩm định về kinh tế xã hội:
Thẩm định kinh tế- xã hội là việc xác định và so sánh các
chi phí và lợi ích của dự án. ở đây lợi ích của dự án được xem xét
bằng sự đóng góp cho các mục tiêu phát triển của nền kinh tế.

Ngoài việc xác định tính phù hợp của mục tiêu dự án đối với
các phương hướng phát triển kinh tế quốc dân, ngành, vùng lãnh
thổ, thứ tự ưu tiên, tác dụng của dự án đối với việc phát triển các
ngành khác tuỳ theo từng loại dự án còn cần phải kiểm tra, đối
chiếu một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội như tỉ lệ sinh lời xã hội, mức
độ sử dụng lao động, tỉ lệ mức đóng góp cho ngân sách, các chỉ tiêu
góp phần phát triển các ngành, thoả mãn nhu cầu của nhân dân.
Thẩm định dự án đầu tư là một việc làm đầy ý nghĩa. Thẩm
định dự án ở bất kì khía cạnh nào cũng cần thiết đối với công tác
thẩm định dự án đầu tư nhưng thẩm định dự án trên khiá cạnh tài
chính luôn là một công việc được nhà đầu tư quan tâm và mất
14


nhiều công sức nhất. Đây là sự kết hợp của trình độ cán bộ thẩm
định , sụ nhạy bén và cả tính tỉ mỉ , năng động, linh hoạt trong từng
môi trường cụ thể.
1.2 Thẩm định tài chính dự án đầu tư và chất lượng thẩm định
tài chính dự án đầu tư của doanh nghiệp.
1.2.1 Nội dung thẩm định tài chính dự án đầu tư .
Thẩm định tài chính dự án đầu tư là việc xem xét đánh giá và
đưa ra những con số cụ thể về khả năng sinh lợi của vốn đầu tư.
Thẩm định tài chính dự án đầu tư cho phép nhà đầu tư đánh giá tính
khả thi về mặt tài chính của dự án đầu tư. Do đó, có thể đưa ra
được kết luận cuối cùng về tính khả thi cuả dự án đầu tư phải xem
xét khả năng sinh lợi của vốn đầu tư, tính toán các giá trị biểu hiện
khả năng này được dựa trên dòng tiền ròng của dự án. Cụ thể hơn,
nhà đầu tư phải tiến hành thẩm định các khía cạnh liên quan đến
gía trị dòng tiền vào và dòng tiền ra của dự án.
Điều quan trọng trong thẩm định tài chính dự án đầu tư là

phải xây dựng được một hệ thống định mức tiêu chuẩn các chỉ tiêu
thông qua việc nghiên cứu kĩ thị trường cũng như mặt bằng hàng
hoá , dịch vụ cung ứng ở thời điểm tiến hành triển khai dự án.
1.2.1.1 Thẩm định việc tính toán tổng vốn đầu tư, cơ cấu vốn
và tiến độ bỏ vốn :
Về cơ bản, đây là việc xem xét tính toán tổng vốn đầu tư cho
dự án có đầy đủ, chính xác và phù hợp hay không. Vốn đầu tư cho
15


dự án thường bao gồm vốn đầu tư cơ bản, vốn lưu động và các chi
phí khác.
Vốn đầu tư cơ bản là toàn bộ lượng vốn cần thiết để hoàn
thành công trình sẵn sàng đưa vào sử dụng bao gồm vốn đầu tư ,
xây lắp ; vốn đầu tư thiết bị ; chi phí chuẩn bị mặt bằng.
Vốn lưu động là toàn bộ chi phí cần thiết để khai thác và sử
dụng công trình. Vốn lưu động thường bao gồm : nguyên vật liệu,
tiền lương, phụ tùng, thành phẩm tồn kho, hàng hoá bán chịu, chi
phí đột xuất.
Việc xác định đúng chi phí khác như chi phí thành lập, chi
phí trả lãi vay có chú ý đến giá trị thời gian của tiền, chi phí dự
phòng…cũng là yếu tố rất quan trọng trong quyết định bỏ vốn đầu
tư.
Các khoản tài chính dài hạn phải trang trải đủ các chi phí đầu
tư của dự án bao gồm vốn cố định và vốn lưu động cần thiết cho
việc vận hành bình thường. Các khoản tài chính có thể huy động
dưới dạng vốn cổ phần và vốn vay dài hạn. Việc giải quyết nhu cầu
của dự án không những quyết định khả năng sinh lợi trong tương
lai mà cả những cân đối thu chi của nó. Bởi vậy, trong quá trình
đánh giá dự án, cơ cấu vốn do chủ đầu tư dự tính sẽ được xem xét

một cách chặt chẽ trên cơ sở xét đoán khả năng sinh lợi trong tương
lai của doanh nghiệp.

16


Chỉ tiêu áp dụng phổ biến nhất biểu thị cơ cấu vốn của doanh
nghiệp được gọi là tỉ lệ giữa vốn vay dài hạn (L) trên vốn cổ phần
(Q)
R dc =

L
Q

Ngoài ra, ta còn có các cách kiểm tra theo các phân loại cơ
cấu vốn theo công dụng, bằng nội tệ hay ngoại tệ.
Việc xác định đúng lượng vốn cần thiết cho một vòng đời của
dự án là chưa đủ nếu không xem xét tiến độ bỏ vốn. Tiến độ bỏ vốn
được căn cứ theo tiến độ triển khai đầu tư dự án, các điều kiện về
tạm ứng vốn hoặc thanh toán khối lượng trong các hợp đồng giao
nhận thầu cũng như khả năng tham gia của các nguồn vốn đầu tư
vào dự án.
1.2.1.2. Thẩm định việc xác định dòng tiền vào, dòng tiền ra và
LNST (DTST) của dự án.
• Dòng tiền vào của dự án:
Bao gồm các khoản sau đây:
- Doanh thu của dự án : Là tổng giá trị hàng hoá và dịch vụ
được tiêu thụ trong năm dự kiến. Để tính toán, cần xác định
được tổng khối lượng sản phẩm dự kiến đưa vào lưu thông và
giá bán một đơn vị sản phẩm.

Để xác định được tổng sản phẩm dự kiến đưa vào lưu thông cần
căn cứ vào công suất thiết bị đưa vào hoạt động, chu kì của dự án,
17


thời gian đưa sản phẩm vào lưu thông, các đại lí và tiêu thụ sản
phẩm, chất lượng thành phẩm và kế hoạch tiêu thụ sản phẩm của
công ty.
Để xác định giá bán một đơn vị sản phẩm phải căn cứ vào gía thành
sản phẩm, giá cùng loại sản phẩm trên thị trường, các chi phí phát
sinh trong quá trình lưu thông hàng hoá để xác định một mức gía
hợp lí. Dự kiến biến động về giá của các yếu tố đầu vào, cung cầu
thị trường.
- Lợi nhuận ròng ( Dòng tiền hoạt động sau thuế )
Dòng tiền này được xác định dựa vào số chênh lệch giữa
doanh thu dự án nhận được và những chi phí đã chi tiêu. Việc tính
toán dòng tiền của một dự án đầu tư cần phải xác định những
khoản thu, chi ở thời điểm ghi nhận nó và dựa trên dòng tiền sau
thuế .
Dòng tiền ròng = Lợi nhuận sau thuế + Khấu hao.
Trong kế toán, khấu hao là một loại chi phí làm giảm giá trị
TSCĐ được sử dụng để sản xuất ra sản phẩm, vì thế khấu hao được
khấu trừ vào chi phí để xác định lợi nhuận trong kì. Tuy nhiên,
khấu hao là loại chi phí không xuất quĩ nên không được tính như
một dòng tiền đi ra, khấu hao chỉ là một yếu tố của chi phí làm
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Do vậy, khấu hao được coi là
một nguồn thu nhập của dự án .
- Khoản thu hồi vốn lưu động ròng
18



Trong dòng tiền đầu tư, chúng ta đề cập đến đến khoản đầu tư
vào tài sản lưu động ròng. Khi dự án kết thúc, hàng tồn kho được
bán hết và không được thay thế, các khoản phải thu được chuyển
thành tiền mặt, doanh nghiệp sẽ thu được các khoản đã đầu tư vào
tài sản lưu động ròng ban đầu. Dòng tiền thu hồi vốn lưu động ròng
này được cộng vào dòng tiền ròng cuối cùng.
- Thu hồi giá trị tài sản cố định:
Phần lớn các dự án đều có giá trị thu hồi tài sản cố định, các
phương tiện, thiết bị sản xuất, nhà xưởng đầu tư cho dự án, khi dự
án kết thúc còn có một giá trị thị trường nhất định. Khi chúng được
bán sẽ xuất hiện một dòng tiền thu cho dự án. Dòng tiền này cũng
được cộng vào dòng tiền cuối cùng.
• Dòng tiền ra của dự án: Dòng tiền này được thể hiện trong các
khoản sau:
- Chi phí đầu tư tài sản cố định :
Đây là loại đầu tư nhằm mua sắm, cải tạo mở rộng tài sản cố
định , phục vụ cho quá trình hoạt động . Loại này có thể bao gồm:
Đầu tư xây lắp, đầu tư máy móc thiết bị, đầu tư TSCĐ khác. Chi
phí cho lọai này không chỉ đơn giản tính là chi phí đầu tư qua giá
mua mà phải tính thêm vào đó tất cả những chi phí liên quan cho
đến khi đưa thiết bị vào hoạt động (chi phí vận chuyển , bảo hiểm,
lắp đặt, vận hành thử.)
- Chi phí đầu tư vào tài sản lưu động ròng:
19


Hầu hết các dự án không những đòi hỏi đầu tư vào TSCĐ mà
còn đòi hỏi đầu tư vào tài sản lưu động ròng. Vốn lưu động ròng
được xác định bằng Tổng TSCĐ- nguồn vốn ngắn hạn . Như vậy,

vốn lưu động ròng ở đây là phần vốn đầu tư vào tài sản lưu động
(các khoản phải thu và hàng tồn kho) đòi hỏi nguồn tài trợ từ bên
ngoài.
- Chi phí cơ hội :
Trong nhiều trường hợp, doanh nghiệp đã sở hữu sẵn một tài sản
hữu dụng cho việc thực hiện dự án, điều đó có nghĩa là, doanh
nghiệp không phải bỏ tiền ra để mua những tài sản này . Tuy nhiên
khi sử dụng tài sản này vào dự án, doanh nghiệp đã từ bỏ cơ hội
khác sử dụng tài sản đó tạo ra thu nhập .
Do vậy, giá trị thị trường của tài sản đó tại thời điểm đầu tư phải
được đưa vào chi phí đầu tư, nó phản ánh chi phí cơ hội chứ không
phải chi phí xuất quĩ.
Cần chú ý rằng khi tính toán giá trị của dòng tiền đầu tư không
được tính chi phí chìm vào dòng tiền đầu tư. Chi phí chìm là chi
phí đã xuất hiện từ trước đó mà không thể bù đắp được cho dù dự
án có được chấp nhận hay không. Ví dụ điển hình của chi phí chìm
là chi phí khảo sát địa điểm xây dựng dự án và chi phí tư vấn, thiết
kế dự án.
• Dòng tiền ròng của dự án
20


Dòng tiền ròng của dự án =
Dòng tiền vào của dự án - Dòng tiền ra của dự án.
Thông thường dòng tiền ròng của dự án có gía trị âm trong những
năm đầu dự án khi các khoản đầu tư ban đầu đã được thực hiện và
dự án chưa thu được nhiều lợi ích từ việc bán các sản phẩm hàng
hoá, dịch vụ của dự án. Sau một thời gian, khi sản phẩm hàng hoá ,
dịch vụ, của dự án đã được tiêu thụ rộng rãi trên thị trường, dòng
tiền thu của dự án sẽ lớn hơn dòng chi phí bỏ ra và dòng tiền của

dự án sẽ dương. Dòng tiền ròng của dự án có xu hướng tăng dần
trong những năm tiếp theo của dự án.
Dựa trên việc xác định dòng tiền ròng của dự án, có các tiêu
chuẩn tài chính mà các tiêu chuẩn này là căn cứ để đánh giá chất
lượng tài chính và lựa chọn dự án đầu tư có hiêu quả tài chính cao
nhất trong các dự án được đưa ra thẩm định.
ST

Khoản mục

Năm 0

T
1

Vốn

2
3
4
5

TSCĐ
Khoản vay ngân hàng
Doanh thu thuần
Chi phí biến đổi
Chi phí cố định chưa

6
7


kể KH và lãi vay
Khấu hao TSCĐ
Lợi nhuận trước lãi

Năm 1

Năm n1

đầu



vào

vay và thuế .
21

Năm n


8
9
10

Lãi vay
Lợi nhuận trước thuế
Thuế thu nhập doanh

11

12
13
14
15

nghiệp
Lợi nhuận sau thuế
Thu hồi vốn LĐ ròng
Thu hồi TSCĐ
Hoàn trả gốc
Dòng tiền ròng của
dự án

Đứng về mặt lí thuyết, thẩm định các tiêu chuẩn tài chính là dễ
dàng tuy nhiên trên thực tế việc xác định các chỉ tiêu này là không
đơn giản. Việc xác định doanh thu qua các năm khi dự án đi vào
hoạt động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như khuynh hướng tăng
trưởng kinh tế, giá cả, thái độ của người tiêu dùng, phản ứng đối thủ
cạnh tranh. Sai lầm trong xác định dòng tiền cụ thể sẽ dẫn đến
những kết luận sai về chất lượng tài chính dự án đầu tư và hậu quả
sẽ là một quyết định đầu tư sai lầm. Chính vì vậy, để công tác thẩm
định chất lượng tài chính dự án đầu tư có hiệu quả, cán bộ thẩm
định không chỉ đơn thuần xem xét, đánh giá và tính toán các chỉ tiêu
trên phương diện tài chính mà còn tiến hành xem xét, đánh giá các
yếu tố thuộc phương diện thị trường, kĩ thuật có ảnh hưởng đến
dòng tiền của dự án.
• Thẩm định thị trường
22



Mục đích của thẩm định thị trường là nhằm phân tích, đánh giá
khả năng tiêu thụ sản phẩm để từ đó xác định được doanh thu dự
tính của dự án. Trong nội dung thẩm định này ta xem xét các khía
cạnh sau đây:
- Cung cầu của sản phẩm:
Đó là xem xét tình hình tiêu thụ trong thời gian qua của sản
phẩm cùng loại trên thị trường mà dự án dự kiến xâm nhập. Đồng
thời dự báo nhu cầu trong tương lai và mức độ đáp ứng của các
nguồn sản phẩm tương tự, sản phẩm thay thế. Từ cơ sở này, sẽ dự
tính được mức độ tiêu thụ của sản phẩm dự án.

- Khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án:
Nhà đầu tư phải tìm hiểu xu hướng cạnh tranh cũng như các đối
thủ cạnh tranh chủ yếu trên thị trường. Nghiên cứu khả năng cạnh
tranh trực tiếp là
xem xét, đánh giá, so sánh sản phẩm của dự án với sản phẩm cùng
loại hiện
có trên thị trường về qui cách , chất lượng, giá cả...để thấy được ưu
thế của sản phẩm dự án.
Bên cạnh đó, nghiên cứu khả năng cạnh tranh gián tiếp là đánh
giá so sánh uy tín, kinh nghiệm của doanh nghiệp với các đối thủ
cạnh tranh trên thị trường.
23


Khi đánh giá được khả năng cạnh tranh của sản phẩm dự án
cùng với các quá trình nghiên cứu khác sẽ có thể dự tính được mức
tiêu thụ sản phẩm của dự án.
- Các biện pháp marketing:
Đây cũng là một yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến sức

tiêu thụ sản phẩm. Nhà đầu tư sẽ tiến hành xem xét, đánh giá các
chính sách Marketing như chính sách giá cả, quảng cáo, khuyếch
trương... để đánh giá mức độ hấp dẫn của sản phẩm đối với khách
hàng nhất là đối với những sản phẩm lần đầu xuất hiện trên thị
trường.
Với việc thẩm định các khía cạnh trên đây cho phép nhà đầu tư
có thể dự tính được mức tiêu thụ sản phẩm trong năm hoạt động và
từ đó sẽ giúp nhà đầu tư đưa ra những giá trị doanh thu hợp lí và
khá chính xác cho các năm hoạt động của dự án.
• Thẩm định kĩ thuật
Thẩm định kĩ thuật là việc xem xét các yếu tố kĩ thuật và công
nghệ của dự án có tác động trực tiếp đến dòng tiền cuả dự án: Các
yếu tố của thẩm đinh dự án là:
- Thẩm định về địa điểm xây dựng dự án:
Thông thường, các dự án đầu tư cải tạo nhà xưởng , đổi mới
thiết bị công nghệ trên cơ sở doanh nghiệp đang hoạt động thì
không cần xem xét đến yếu tố địa điểm xây dựng dự án. Ngược
lại, đối với các dự án đầu tư xây dựng
24


mới hoặc mở rộng qui mô sản xuất lớn, mới thì mới cần phải tiến
hành thẩm định địa điểm được lựa chọn. Sự thẩm định này sẽ giúp
nhà đầu tư dự tính được một số chi phí của dự án như chi phí vận
chuyển bốc dỡ, chi phí đền bù giải phóng mặt bằng hoặc thuê
đất...thậm chí cả chi phí lương bởi giá cả lao động ngoài phụ thuộc
vào ngành nghề còn phụ thuộc vào cả thị trường lao động địa
phương.
Ngoài ra địa điểm xây dựng dự án cũng là một yếu tố ảnh
hưởng tới khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án nhất là đối với

những dự án cung cấp sản phẩm dịch vụ .
- Thẩm định về dây chuyền công nghệ và thiết bị được lựa chọn:
Trên cơ sở dây chuyền công nghệ và thiết bị cho dự án đã được
lựa chọn, nhà đầu tư sẽ tính toán được số tiền đầu tư vào trang thiết
bị và dây chuyền công nghệ.
- Thẩm định nguyên liệu cung cấp và các yếu tố đầu vào khác :
Dựa vào loại nguyên liệu và yếu tố đầu vào được cung cấp cho
dự án, nhà đầu tư sẽ tiến hành phân tích và tính toán số lượng
nguyên vật liệu tiêu dùng và dự trữ hàng năm và cũng từ đó sẽ dự
tính được dòng tiền chi mua nguyên vật liệu cho dự án.
Sau khi thẩm định các yếu tố thuộc phương diện tài chính đặc
biệt là các chỉ tiêu tài chính quan trọng để đánh giá tính khả thi
thực hiện dự án cũng như thẩm định các yếu tố thuộc phương diện
thị trường và kĩ thụât có liên quan đến dòng tiền của dự án có thể
25


×