Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Đổi mới hoạt động của công đoàn Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (299.71 KB, 74 trang )

Lời cảm ơn !
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo
trường Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy, cô khoa pháp luật
Kinh tế đã giúp đỡ em trong suốt quá trình học tập, rèn luyện tại
trường.
Xin bày tỏ lòng cảm ơn đến cô giáo -Tiến sĩ Đỗ Ngân Bình,
người trực tiếp hướng dẫn và tận tình giúp đỡ em hoàn thành khóa
luận này.
Cuối cùng, em xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến những người thân
trong gia đình, bạn bè - những người luôn ủng hộ, động viên em trong
quá trình học tập, trong cuộc sống.
Sinh viên
Nguyễn Thị Phương Dung


Danh Mục Từ viết tắt
1. Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

: CHXHCN

2. Đảng Cộng sản Việt Nam

: ĐCSVN

3. Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam : TLĐLĐVN


Mục lục
Trang
Phần mở đầu...................................................................................
1


Chương 1. Một số vấn đề cơ bản về công đoàn Việt Nam hiện
3
nay.....................................................................................................
1.1. Vị trí, vai trò của công đoàn Việt Nam hiện nay.................
1.1.1. Vị trí của công đoàn...............................................................
1.1.2.Vai trò của công đoàn..............................................................
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn......................
1.2.1. Chức năng của tổ chức công đoàn.........................................
1.2.2. Nhiệm vụ của tổ chức công đoàn...........................................
1.3. Cơ cấu của tổ chức công đoàn................................................
1.4. Nguyên tắc hoạt động của tổ chức công đoàn......................

3
3
5
6
6
8
9
11

Chương 2. Thực trạng hoạt động của tổ chức công đoàn.........
2.1. Những kết quả đạt được.........................................................
2.2. Những hạn chế trong hoạt động công đoàn thể hiện

16
16

trong một số lĩnh vực cơ bản.........................................................
2.2.1. Hạn chế của công đoàn trong lĩnh vực học nghề và việc


19
19

làm.....................................................................................................
2.2.2. Hạn chế của công đoàn trong việc ký kết và thực hiện thoả

21

ước lao động tập thể..........................................................................
2.2.3. Hạn chế của công đoàn trong lĩnh vực tiền lương................
2.2.4. Hạn chế của công đoàn trong việc đóng và trả bảo hiểm xã

23
25

hội cho người lao động.....................................................................
2.2.5. Hạn chế của công đoàn trong lĩnh vực an toàn vệ sinh lao

27

động...................................................................................................
2.2.6. Hạn chế của công đoàn trong giải quyết tranh chấp lao

39

động và đình công.............................................................................
2.3. Một số nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong hoạt động

31


của tổ chức công đoàn....................................................................


Chương 3. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt

36

động của tổ chức công đoàn..........................................................
3.1. Sự cần thiết phải đổi mới hoạt động của tổ chức công
36
đoàn trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay..........................
3.2. Những yêu cầu cơ bản đặt ra với công đoàn Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế................................................... 40
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả hoạt động của tổ chức công đoàn.......................................... 43
- Phần kết luận................................................................................ 50
- Danh mục tài liệu tham khảo.


-5-

Phần mở đầu
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đã tác động mạnh mẽ đến vị
trí của công đoàn trong đời sống kinh tế – chính trị – xã hội ở Việt
Nam. Cơ chế thị trường với sức mạnh của nó đang có những ảnh
hưởng nhiều mặt đến hoạt động của công đoàn. Do nhiều nguyên
nhân, công đoàn còn nhiều lúng túng về mô hình tổ chức và phương
pháp hoạt động. Vì vậy, có nhiều người cho rằng hiện nay công đoàn
đang mất dần ảnh hưởng trong đời sống xã hội, đặc biệt là đối với

người lao động. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều loại
hình doanh nghiệp đang xuất hiện và ngày càng phát triển. Đó là
“mảnh đất” cho công đoàn hoạt động, nhưng đồng thời cũng đòi hỏi
công đoàn phải đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động cho phù
hợp với xu thế mới, phát huy tích cực vai trò của mình trong xã hội.
Nghiên cứu về hoạt động của công đoàn trong giai đoạn hiện
nay là việc làm thiết thực và có nhiều ý nghĩa, đặc biệt là trong năm
2006 Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương
mại thế giới WTO. Xuất phát từ lý do đó, em đã chọn đề tài “Đổi mới
hoạt động của công đoàn Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế”
là đề tài cho Khoá luận tốt nghiệp của mình.
Mục đích và nhiệm vụ của đề tài là tập trung nghiên cứu hoạt
động của công đoàn hiện nay. Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng hoạt động
của tổ chức công đoàn Việt Nam, rút ra nhận xét và đưa ra một số kiến


-6-

nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động của
công đoàn trong xu thế hội nhập quốc tế.
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mac-Lênin và các quan điểm của Đảng, tư tưởng của Hồ Chí
Minh. Các phương pháp chủ yếu được sử dụng trong đề tài là phân
tích, tổng hợp, quy nạp.
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, Khoá luận được chia là 3
chương:
- Chương 1. Một số vấn đề cơ bản về công đoàn Việt Nam hiện
nay.
- Chương 2. Thực trạng hoạt động của tổ chức công đoàn Việt
Nam.

- Chương 3. Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt
động của tổ chức công đoàn.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng do kiến thức và kinh nghiệm
còn hạn chế, lại là lần đầu làm quen với công tác nghiên cứu khoa học
trong khi đó đề tài đề cập đến vấn đề rất mới và phức tạp vì vậy đề tài
không tránh khỏi những khiếm khuyết. Em rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến chân thành của Quý thầy cô và các bạn để có kết quả tốt
hơn trong những lần nghiên cứu khoa học sau.
Em xin chân thành cảm ơn!


-7-

Chương 1
Một số vấn đề cơ bản về
Công đoàn Việt Nam
1.1. Vị trí, vai trò của công đoàn Việt Nam.
1.1.1. Vị trí của công đoàn Việt Nam
Từ khi ra đời (28/7/1929), công đoàn Việt Nam đã giữ một vị trí
quan trọng trong phong trào đấu tranh bảo vệ quyền lợi của giai cấp
công nhân. Tiền thân của tổ chức công đoàn Việt Nam là tổ chức


-8-

“Công hội đỏ” do Tôn Đức Thắng thành lập đầu những năm 1920
nhằm lãnh đạo công nhân đấu tranh đòi quyền lợi, góp phần đoàn kết
công nhân cùng với giai cấp, tầng lớp khác trong cả nước đấu tranh
giải phóng dân tộc. Cùng với sự phát triển xã hội, quá trình lao động
cũng có nhiều thay đổi. Công đoàn Việt Nam dần chiếm được vị trí

quan trọng trong hệ thống các tổ chức xã hội và trong đời sống của
người lao động.
Theo điều 10 Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992: “Công đoàn là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp
công nhân và người lao động cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công
nhân,viên chức và những người lao động khác; tham gia quản lý nhà
nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan
nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ, công nhân viên chức và
người lao động xây dựng và bảo vệ tổ quốc”.{8, tr7}
Điều 1 Luật Công đoàn cũng ghi nhận: “ Công đoàn là tổ chức
chính trị-xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và người lao động
Việt Nam, tự nguyện lập ra dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, là thành viên của hệ thống chính trị xã hội Việt Nam, là trường
học chủ nghĩa xã hội của người lao động”.{10, tr3}
Như vậy, công đoàn Việt Nam là thành viên của hệ thống chính
trị, là trung tâm tập hợp, đoàn kết, giáo dục, rèn luyện, xây dựng đội
ngũ giai cấp công nhân, lao động. Công đoàn là chỗ dựa vững chắc
của Đảng, là sợi dây nối liền Đảng với quần chúng.


-9-

Với vị trí là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân, của
người lao động, công đoàn luôn cố gắng tập hợp toàn bộ quần chúng,
công nhân, viên chức lao động.
Công đoàn là tổ chức xã hội được hình thành do nhu cầu của
đông đảo người lao động. Công đoàn thu hút sự tham gia đông đảo
của công nhân viên chức, người lao động không phân biệt giới tính,
dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo.

Công đoàn là một tổ chức xã hội có tính chất nghiệp đoàn. Tính
chất này biểu hiện ở thành phần tham gia và mục đích tồn tại của công
đoàn. Các thành viên công đoàn thuộc về lực lượng lao động, đã hoặc
đang làm một công việc nhất định. Do đó, công đoàn có thể coi là tổ
chức nghề nghiệp rộng lớn nhất, thu hút sự tham gia đông đảo nhất
của mọi tầng lớp lao động trong xã hội.
Mặt khác, công đoàn còn là một tổ chức chính trị - xã hội có vị
trí quan trọng trong xã hội, có ảnh hưởng to lớn đến đông đảo quần
chúng nhân dân lao động. Công đoàn là tổ chức đại diện cho người lao
động, tham gia bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp cho họ và tham gia
quản lý kinh tế xã hội.
Công đoàn còn là người tuyên truyền chính sách, pháp luật của
Đảng, nhà nước đến với quần chúng, người lao động. Công đoàn có
trách nhiệm xây dựng Đảng, bồi dưỡng công nhân ưu tú kết nạp Đảng.
Có thể nói, công đoàn là cộng sự đắc lực của nhà nước bởi những hoạt
động của công đoàn đã thực sự góp phần xây dựng chính quyền nhà
nước, vì mục đích tồn tại của nhà nước, vì lợi ích của giai cấp công
nhân.


- 10 -

Sự thừa nhận của xã hội, của Nhà nước trên các phương diện
khác nhau đã khẳng định vị trí của công đoàn, đồng thời tạo ra điều
kiện pháp lý xã hội cho hoạt động công đoàn để công đoàn thực hiện
tốt chức năng nhiệm vụ của mình. “Không có một nền móng như các
tổ chức công đoàn thì không thể thực hiện được các chức năng cuả
nhà nước”. {1, tập 38, tr380}
1.1.2. Vai trò của công đoàn.
Nghiên cứu vai trò của công đoàn trong điều kiện hiện nay có ý

nghĩa quan trọng không chỉ về mặt lý luận, thực tiễn, mà cả mặt tư
tưởng.
Lênin nói: “ …Công đoàn có vai trò là trường học quản
lý,trường học kinh tế, trường hoặc chủ nghĩa cộng sản…”{2, tập 42,
tr250}
Ngày nay trong quá trình hội nhập quốc tế vai trò của công đoàn
càng được mở rộng và phát triển trên các lĩnh vực, cụ thể là:
Trong lĩnh vực kinh tế. Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường
hiện nay, công đoàn cần có vai trò tích cực trong việc xây dựng và
thực hiện cơ chế mới. Vai trò của công đoàn trong nền kinh tế thị
trường là tham gia đổi mới cơ chế quản lý, củng cố nguyên tắc tập
trung dân chủ, đẩy mạnh hoạt động công đoàn trong các thành phần
kinh tế song vẫn đảm bảo kinh tế nhà nước giữ vai trò then chốt, chủ
đạo. Một mặt, công đoàn đẩy mạnh hoạt động tại các doanh nghiệp.
Mặt khác, công đoàn hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển đúng
hướng.


- 11 -

Trong lĩnh vực chính trị: Trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu đặt ra
là xây dựng và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị
trong củng cố và giữ vững bộ máy nhà nước. Để nâng cao vị thế chính
trị của mình, công đoàn cần là cầu nối tăng cường mối liên hệ mật
thiết giữa Đảng và nhân dân, đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của
người lao động, từng bước hoàn thiện nền dân chủ, đảm bảo thực thi
pháp luật và để nhà nước thực sự là của dân, do dân, vì dân. Trước
diễn biến phức tạp của đời sống kinh tế - xã hội hiện nay, công đoàn
phải góp phần cùng với nhà nước đảm bảo sự ổn định về chính trị bởi
có tạo được ổn định về chính trị mới tiến hành đổi mới kinh tế có hiệu

quả và hoàn thành tốt các mục tiêu kinh tế đặt ra trong quá trình hội
nhập quốc tế.
Như vậy, công đoàn có trách nhiệm to lớn cùng với các tổ chức
trong hệ thống chính trị của nước CHXHCN Việt Nam hoàn thành tốt
nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Trong lĩnh vực xã hội: Nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi bộ
mặt nước nhà song cũng đem lại không ít những tiêu cực, ảnh hưởng
đến tâm lý, đời sống của người lao động. Vì vậy, công đoàn phải góp
phần xây dựng giai cấp công nhân, bảo đảm sự thống nhất của giai cấp
công nhân Việt Nam, không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ chính
trị, tính tổ chức kỷ luật, trình độ văn hoá, khoa học kỹ thuật để giai
cấp công nhân thực sự đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát
triển đất nước. Công đoàn phải tuyên truyền giáo dục người lao động
chống tiêu cực và tệ nạn xã hội, xây dựng phát triển nền văn hoá tiên


- 12 -

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn,
nghiệp vụ, kỹ thuật và tính sáng tạo cho người lao động.
Công đoàn góp phần củng cố liên minh công - nông và trí thức
xây dựng khối đoàn kết toàn dân. Đây là cơ sở xã hội vững chắc, tăng
cường sức mạnh của nhà nước.
Trong lĩnh vực văn hoá tư tưởng. Nền kinh tế thị trường có
nhiều ưu điểm, tích cực song nền kinh tế này còn là “mảnh đất” làm
nảy sinh những tiêu cực xã hội. Hơn lúc nào hết, công đoàn cần phát
huy vai trò của mình trong việc giáo dục công nhân, viên chức, người
lao động nâng cao lập trường giai cấp, phát huy những giá trị cao đẹp,
truyền thống văn hoá dân tộc và tiếp thu những thành tựu tiên tiến của
văn minh nhân loại. Đó là yếu tố quan trọng làm cho vai trò của công

đoàn ngày càng mở rộng phát triển. Ngày nay, tổ chức công đoàn
đang, đã và sẽ thu hút được đông đảo lực lượng người lao động. Công
đoàn còn có vai trò thúc đẩy người lao động tích cực sáng tạo để trở
thành bộ phận quan trọng của nền kinh tế đất nước.
1.2. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức công đoàn.
1.2.1. Chức năng của tổ chức công đoàn
Chức năng của tổ chức công đoàn được xác định bởi tính chất, vị
trí, vai trò của tổ chức công đoàn. Cụ thể là các chức năng cơ bản sau
đây:
Chức năng đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích của công nhân,
người lao động. Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ chủ - thợ ngày
càng phức tạp, tình trạng bóc lột người lao động diễn ra hàng ngày và


- 13 -

có xu hướng phát triển. Vì vậy, chức năng bảo vệ lợi ích người lao
động có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Để thực hiện chức năng này, công đoàn tham gia cùng chính
quyền tìm việc làm và tạo điều kiện làm việc tốt hơn cho người lao
động. Bên cạnh đó, công đoàn tham gia ý kiến trong việc xây dựng
thang lương, bảng lương ở các doanh nghiệp, tư vấn và bảo vệ người
lao động trong quá trình ký kết hợp đồng lao động, ký thoả ước lao
động tập thể, giải quyết tranh chấp lao động và tổ chức đình công...
Công đoàn còn tham gia trong việc quản lý và sử dụng quỹ phúc lợi
tập thể, bảo vệ quyền hưởng bảo hiểm xã hội của người lao động.
Trên cơ sở đó, công đoàn đã góp phần phát huy dân chủ, công bằng xã
hội, đặc biệt là bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động.
Chức năng đại diện cho người lao động tham gia quản lý kinh
tế và xã hội, quản lý nhà nước: Trong phạm vi chức năng của mình,

công đoàn thực hiện quyền kiểm tra giám sát hoạt động của các cơ
quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Thực
hiện chức năng quản lý không có nghĩa là công đoàn làm cản trở công
việc của nhà nước. Công đoàn thamgia quản lý chính là bảo vệ lợi ích
trước mắt và lợi ích lâu dài của người lao động, của doanh nghiệp, của
nhà nước một cách căn bản, hiệu quả phát huy vai trò ‘‘trường học
quản lý’’ của công đoàn.
Để thực hiện tốt chức năng quản lý công đoàn cần đẩy mạnh nội
dung hoạt động cụ thể:
Tổ chức phong trào thi đua lao động giỏi trong người lao động.


- 14 -

Vận động tổ chức người lao động tham gia xây dựng và thực
hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhiệm vụ công tác, tham gia quản
lý lao động, tìm việc làm và tạo điều kiện cho người lao động làm
việc.
Công đoàn phải tham gia trong lĩnh vực tiền lương, tiền thưởng,
xây dựng các chính sách liên quan đến người lao động.
Ngày nay, trong điều kiện nền kinh tế phát triển theo xu thế hội
nhập, khi thực hiện chức năng quản lý, công đoàn cần chú trọng đến
việc phát triển tiềm năng lao động, phát huy sáng kiến, cùng chủ
doanh nghiệp tìm nguồn vốn, mở rộng thị trường sản xuất kinh doanh,
giải quyết việc làm cho người lao động. Kiểm tra, giám sát hoạt động
của nhà nước chống nạn tham nhũng, quan liêu.
Chức năng tổ chức giáo dục, vận động công nhân và người lao
động: Một trong những chức năng tiếp theo của công đoàn là tuyên
truyền, giáo dục người lao động vững tin vào đường lối, chính sách
của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới, luôn luôn tỉnh táo,

cảnh giác, đấu tranh với mọi khuynh hướng sai lầm.
Nội dung chức năng giáo dục của công đoàn ngày nay càng
được mở rộng, toàn diện hơn, nhất là giáo dục pháp luật, giáo dục
thẩm mỹ, giáo dục truyền thống đạo đức cho người lao động.
Tóm lại, chức năng của công đoàn là một hệ thống đồng bộ bao
gồm nhiều chức năng khác nhau. Trong đó, chức năng đại diện bảo vệ
các quyền lợi ích hợp pháp của công nhân và người lao động là chức
năng quan trọng nhất, thể hiện mục tiêu hoạt động của tổ chức công
đoàn; chức năng đại diện người lao động tham gia quản lý kinh tế xã


- 15 -

hội, quản lý nhà nước mang có ý nghĩa như là một phương tiện để
biến các chức năng của công đoàn thành hiện thực; chức năng tổ chức
giáo dục, vận động công nhân, người lao động có vai trò hỗ trợ tích
cực để công đoàn đạt được những mục tiêu đề ra.
1.2.2. Nhiệm vụ của công đoàn.
Nhiệm vụ của công đoàn là toàn bộ mục tiêu mà công đoàn cần
đạt tới, là những vấn đề đặt ra mà công đoàn cần giải quyết trong từng
thời kỳ cụ thể. Thực hiện nhiệm vụ công đoàn là đảm bảo cho việc
thực hiện tốt chức năng của công đoàn trong một giai đoạn nhất định,
phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội của giai đoạn đó. Trong giai
đoạn hiện nay, nhằm đảm bảo cho các chức năng của công đoàn được
thực hiện tốt góp phần xây dựng một xã hội “công bằng, dân chủ, văn
minh”, công đoàn có các nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Đại diện cho người lao động tham gia với cơ quan nhà nước
xây dựng và thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, các chính
sách, cơ chế quản lý kinh tế, các chủ trương chính sách liên quan đến
quyền lợi và trách nhiệm của người lao động.

- Tập hợp, giáo dục và tuyên truyền pháp luật để người lao động
hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, của các cơ quan tổ chức.
- Tham gia các quan hệ trong nước và quốc tế nhằm xây dựng
các mối quan hệ đối nội, đối ngoại rộng rãi, góp phần thực hiện đường
lối chính sách của Đảng và nhà nước, tạo điều kiện tốt cho môi trường
lao động.
Trong quá trình hoạt động để đạt kết quả cao, công đoàn cần có
điều kiện nhất định như: quyền tự do công đoàn; có tư cách pháp nhân


- 16 -

độc lập; được sự bảo trợ của nhà nước và các điều kiện khác... Các
điều kiện trên có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của công đoàn
vì nó là những nhân tố quyết định hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ do
tổ chức công đoàn đặt ra trong giai đoạn hiện nay.{14, tr81,82}
1.3. Cơ cấu tổ chức của công đoàn Việt Nam
Cơ cấu tổ chức là vấn đề cơ bản nhất trong công tác tổ chức. Cơ
cấu tổ chức phản ánh sự phân công lao động trong một tổ chức, hoặc
là sự phân bổ nhiệm vụ của bộ máy tổ chức cho các cơ sở tổ chức trực
thuộc. Khi nhìn vào cơ cấu bộ máy tổ chức đó có thể thấy được các
nhiệm vụ chủ yếu của tổ chức, trên cơ sở đó mà phân biệt tổ chức này
với tổ chức khác.
Cơ cấu tổ chức còn phản ánh mối quan hệ công tác giữa các bộ
phận cấu thành, thông qua nghiên cứu cơ sở của hệ thống tổ chức. Bảo
đảm số nhân sự cần thiết trong các đơn vị cấu thành. Cơ cấu tổ chức
phải bảo đảm, tạo điều kiện cho việc luân chuyển và xử lý thông tin
giữa các đơn vị trực thuộc.
Theo quy định của pháp luật, tổ chức công đoàn Việt Nam gồm
4 cấp cơ bản sau: i) Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam

(TLĐLĐVN); ii) Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương(gọi là liên đoàn lao động tỉnh, thành phố) và công đoàn ngành
trung ương; iii) Công đoàn cấp trên cơ sở; iv) Công đoàn cơ sở và
nghiệp đoàn{7, tr10}. Trong đó, mỗi cấp công đoàn có nhiệm vụ khác
nhau.
Đối tượng chỉ đạo trực tiếp của TLĐLĐVN là các liên đoàn lao
động tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, công đoàn ngành trung


- 17 -

ương và cơ quan tổng liên đoàn lao động, các đơn vị trực thuộc.
TLĐLĐVN là cơ quan cao nhất quyết định phương hướng, chủ
trương, nội dung, chương trình hoạt động của công đoàn nhằm thực
hiện nghị quyết đại hội công đoàn toàn quốc và nghị quyết của
ĐCSVN, chỉ đạo công tác tổng kết thực hiện và nghiên cứu lý luận
công đoàn.
Liên đoàn lao động tỉnh, thành phố có đối tượng chỉ đạo trực
tiếp là các liên đoàn lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh, các công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn đóng trên địa bàn không
phân biệt cấp quản lý và thành phần kinh tế. Chỉ đạo trực tiếp công
đoàn tổng công ty (thuộc tỉnh); công đoàn khu công nghiệp, khu chế
xuất, các công đoàn ngành địa phương, công đoàn cơ sở trung ương
(những công đoàn cơ sở không có công đoàn ngành trung ương). Liên
đoàn lao động tỉnh, thành phố quyết định thành lập các công đoàn và
nghiệp đoàn thuộc địa phương quản lý, thảo luận với công đoàn ngành
trung ương trước khi quyết định thành lập hoặc giải thể các công đoàn
ngành địa phương. Chỉ đạo các cấp công đoàn ở địa phương tổ chức
đại hội, quyết định công nhận ban chấp hành và uỷ ban kiểm tra công
đoàn ngành địa phương, các công đoàn trực thuộc địa phương quản lý.

Hướng dẫn công tác phát triển đoàn viên, xây dựng công đoàn cơ sở
và nghiệp đoàn vững mạnh, công nhận và đề nghị TLĐLĐVN khen
thưởng những công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn vững mạnh. Ngoài ra,
liên đoàn lao động tỉnh còn quản lý các cán bộ công đoàn chuyên
trách liên đoàn lao động tỉnh, thành phố, công đoàn ngành địa phương,
liên đoàn lao động quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, công


- 18 -

đoàn cơ sở, thực hiện quy hoạch kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ,
thực hiện chế độ chính với cán bộ thuộc diện quản lý.
Công đoàn ngành trung ương có đối tượng chỉ đạo là công đoàn
tổng công ty, công đoàn trong các cơ quan bộ, công đoàn trong các
ban của Đảng, đoàn thể trung ương và các công đoàn cơ sở trực thuộc.
Công đoàn ngành trung ương có trách nhiệm phối hợp với liên đoàn
lao động tỉnh, thành phố chỉ đạo hướng dẫn công đoàn ngành, địa
phương các nội dung thuộc ngành, nghề. Đối tượng chỉ đạo, nhiệm vụ
của công đoàn ngành trung ương được quy định cụ thể trong điều lệ
của công đoàn Việt Nam và trong các nghị quyết được ban hành ở các
nhiệm kỳ đại hội công đoàn Việt Nam.
Công đoàn cấp trên cơ sở bao gồm liên đoàn lao động quận,
huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và các công đoàn tổng công ty,
công đoàn ngành địa phương, công đoàn công ty, khu chế xuất, khu
công nghiệp tập trung chịu sự chỉ đạo trực tiếp (hoặc phối hợp) của
liên đoàn lao động tỉnh, thành phố (trung ương) và công đoàn ngành
trung ương. Đối tượng chỉ đạo trực tiếp của công đoàn cấp này là các
công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn đã được phân cấp quản lý theo điều lệ
công đoàn Việt Nam.
Công đoàn cơ sở và nghiệp đoàn có đối tượng chỉ đạo trực tiếp

là các công đoàn bộ phận; tổ công đoàn. Công đoàn cơ sở và nghiệp
đoàn ra quyết định thành lập và công nhận ban chấp hành công đoàn
bộ phận và tổ công đoàn; chỉ đạo công đoàn bộ phận và tổ công đoàn,
thực hiện có hiệu quả công tác chính trị, tư tưởng, phát triển đoàn


- 19 -

viên, xây dựng công đoàn bộ phận tổ công đoàn và công đoàn cơ sở
vững mạnh{15, tr67}.
Với một cơ cấu chặt chẽ thống nhất như vậy, công đoàn có điều
kiện thuận lợi trong hoạt động chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích của
người lao động và đưa chính sách pháp luật vào đời sống, giúp cho đại
bộ phận người lao động và người sử dụng lao động thực hiện tốt chính
sách của nhà nước vì sự phát triển của doanh nghiệp và của xã hội.
1.4. Nguyên tắc hoạt động của tổ chức công đoàn.
Nguyên tắc hoạt động của công đoàn là những chuẩn mực để
hướng dẫn nội dung, phương pháp, hình thức hoạt động của công
đoàn. Các nguyên tắc này bao gồm:
Một là, đảm bảo sự lãnh đạo của ĐCSVN đối với hoạt động của
tổ chức công đoàn.
ĐCSVN là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị xã hội của nước
CHXHCN Việt Nam. Tất cả những thành viên hệ thống chính trị trong
đó có công đoàn đều đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Hoạt động của công đoàn Việt Nam dựa trên cơ sở đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng và góp phần thực hiện nhiệm vụ
chính do Đảng đề ra trong mọi thời kỳ. Ngay từ những ngày đầu thành
lập, Công đoàn Việt Nam đã đặt hoạt động của mình dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Điều lệ công đoàn Việt Nam năm 2003 đã ghi rõ: “Dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, kể từ ngày thành lập đến nay,

công đoàn Việt Nam đã tổ chức, vận động công nhân, viên chức lao
động đi đầu trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của tổ quốc,
vì hạnh phúc của người lao động.”{7, tr3}


- 20 -

Hoạt động công đoàn đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng là một tất
yếu khách quan và đây cũng là nguyên tắc hoạt động ở mọi cấp công
đoàn. Nếu phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận công đoàn về bản
chất cách mạng. Nguyên tắc này còn đóng vai trò thúc đẩy hiệu quả
của hoạt động công đoàn và làm cho tổ chức công đoàn ngày càng
vững mạnh, có vị trí vững chắc trong hệ thống chính trị - xã hội.
Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong hoạt động tức là đảm bảo
hoạt động công đoàn luôn theo đúng chủ trương, đường lối, chính
sách, công tác tổ chức cán bộ của Đảng. Đồng thời, công đoàn còn
vận dụng chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng vào chương
trình hoạt động của mình và thường xuyên tranh thủ sự lãnh đạo của
Đảng thông qua việc thông báo tình hình và kết quả hoạt động.
Các cấp công đoàn cần kiện toàn bộ máy tổ chức của mình, cơ
cấu ban chấp hành công đoàn cần có người là đảng viên có uy tín, có
năng lực công tác. Cần có cán bộ công đoàn là đảng viên ưu tú tham
gia cấp uỷ. Như vậy, tổ chức công đoàn mới nâng cao hiệu quả công
tác và luôn đi đúng đường lối của Đảng, thực hiện tốt các chức năng
của mình, đồng thời làm tốt vai trò là sợi dây nối liền Đảng với quần
chúng.
Trong điều kiện hiện nay, khi nền kinh tế vận hành theo hướng
mở rộng liên kết, hợp tác liên doanh với nước ngoài, tổ chức và hoạt
động công đoàn ở các cơ sở liên doanh đã mang màu sắc mới. Song,
không thể tách rời sự lãnh đạo của Đảng, mà ngược lại cần tăng cường

hơn nữa sự lãnh đạo cuả Đảng đối với tổ chức công đoàn. Tuy nhiên,


- 21 -

trong khi vận dụng nguyên tắc này không nên máy móc mà cần có sự
sáng tạo để đảm bảo sự thành công trong hoạt động công đoàn.
Hai là, công đoàn phải giữ liên hệ mật thiết với quần chúng.
Công đoàn là tổ chức quần chúng rộng lớn của công nhân viên
chức và người lao động, ngược lại công nhân viên chức lao động là cơ
sở xã hội của công đoàn. Sức mạnh của công đoàn là mối liên hệ mật
thiết với quần chúng để thu hút, tập hợp, thống nhất ý chí hành động.
Nếu rời xa quần chúng công đoàn sẽ không có môi trường hoạt động.
Văn kiện đại hội ĐCSVN lần thứ X đã khẳng định: “Vai trò và
sức mạnh của các đoàn thể chính là ở khả năng tập hợp quần chúng,
hiểu rõ tâm tư và nguyện vọng của quần chúng, nâng cao giác ngộ xã
hội chủ nghĩa cho quần chúng, khởi động tinh thần tự giác, tích cực,
chủ động, sáng tạo của quần chúng...”{3, tr15}. Vì vậy, cán bộ công
đoàn cần nhận thức đầy đủ về vai trò quyết định của quần chúng, tăng
cường mối quan hệ với quần chúng, giành được niềm tin của quần
chúng, hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của họ để hướng hoạt động của
công đoàn đáp ứng được yêu cầu càng mới, càng cao của nhiệm vụ
công đoàn trong thời kỳ mới. Cán bộ công đoàn cần hiểu quần chúng
là chủ thể sáng tạo nên lịch sử, sức sáng tạo của quần chúng là vô tận,
từ đó đặt niềm tin vào quần chúng. Mối liên hệ mật thiết với quần
chúng của công đoàn phải được cụ thể hoá bằng sự tiếp cận, đi lại
thăm hỏi trong những dịp hiếu, hỉ, lễ, tết, tổ chức các hoạt động quần
chúng, chia sẻ lắng nghe ý kiến của quần chúng đúng như lời dạy của
Lênin: “Phải sống sâu vào đời sống công nhân, biết xác định một
cách chắc chắn, bất cứ vấn đề nào, trong lúc nào tâm trạng của quần



- 22 -

chúng, nhu cầu, nguyện vọng, những ý nghĩ thực sự của họ...Biết
chiếm được lòng tin cậy vô bờ bến của quần chúng bằng một thái độ
hữu ái đối với họ bằng cách quan tâm thoả đáng những nhu cầu của
họ.” {2, tập 42, tr 300}
Ba là, đảm bảo tính tự nguyện của quần chúng.
Tính tự nguyện của quần chúng trong hoạt động công đoàn thể
hiện ở chỗ người đoàn viên tự nguyện gia nhập tổ chức công đoàn,
tham gia hoạt động, thực hiện các nhiệm vụ được giao trên cơ sở nhận
thức được trách nhiệm và lợi ích công việc của mình.
Đảm bảo tính tự nguyện của quần chúng trong hoạt động công
đoàn có nghĩa là không nên gò ép đoàn viên tham gia hoạt động. Vấn
đề này trở thành nguyên tắc hoạt động của công đoàn vì công đoàn là
tổ chức do viên chức và người lao động tự nguyện tham gia và hoạt
động vì lợi ích của chính họ. Nếu phủ nhận nguyên tắc này là phủ
nhận vấn đề hết sức cơ bản thuộc về bản chất của tổ chức công đoàn.
Trong hoạt động công đoàn, tính tự nguyện của quần chúng là động
lực thực sự để khơi dậy lòng nhiệt tình tham gia hoạt động của đoàn
viên. Để phát huy được tính tự nguyện của quần chúng, người cán bộ
công đoàn cần có lòng tin thực sự ở mỗi người lao động. Trước khi
làm việc gì dù lớn hay nhỏ, cũng cần phải có sự giải thích hay giáo
dục, thuyết phục làm cho mỗi đoàn viên hiểu ý nghĩa và trách nhiệm
trong mỗi công việc mà họ có nghĩa vụ hoàn thành.
Trong hoạt động công đoàn hiện nay, nguyên tắc này càng được
đề cao. Bởi lẽ, xã hội càng phát triển thì trình độ nhận thức của người
lao động ngày càng được nâng lên. Một khi họ đã nhận thức được vấn



- 23 -

đề thì họ sẽ tự nguyện, tự giác tham gia các hoạt động do công đoàn tổ
chức. Muốn vậy, những hoạt động của công đoàn phải có nội dung sát
thực với những vấn đề mà quần chúng quan tâm, hình thức thể hiện
phong phú và đa dạng, lôi cuốn quần chúng tham gia.
Tuy nhiên, khi thực hiện nguyên tắc này người cán bộ công đoàn
cần nhận thức rõ việc đảm bảo tính tự nguyện của quần chúng không
có nghĩa hoàn toàn chiều theo ý quần chúng. ý muốn của quần chúng
chỉ phù hợp khi dựa trên quyền lợi của tập thể, cộng đồng, xã hội. Vì
thế, bên cạnh việc đảm bảo nguyên tắc này công đoàn cần gắn với
việc nâng cao trình độ tư tưởng, văn hoá, nghiệp vụ cho đoàn viên và
người lao động, đồng thời cần chống tư tưởng nóng vội, mệnh lệnh gò
ép quần chúng trong hoạt động công đoàn.
Bốn là, nguyên tắc tập trung dân chủ.
Trong hoạt động công đoàn, tập trung dân chủ là một trong
những nguyên tắc cơ bản của công đoàn Việt Nam đảm bảo sự thống
nhất giữa ý chí và hành động chống lại sự “tập trung quan liêu” và
“dân chủ vô tổ chức’’. Phủ nhận nguyên tắc này trong tổ chức và hoạt
động sẽ phủ nhận về mặt bản chất cách mạng của tổ chức công đoàn.
Tập trung dân chủ là xây dựng chế độ làm chủ dựa trên sáng kiến của
quần chúng, tạo mọi điều kiện thu hút quần chúng tham gia hoạt động.
Công đoàn Việt Nam tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ thể hiện ở nội dung cơ bản sau:
- Cơ quan lãnh đạo của các cấp công đoàn đều do bầu cử lập ra.
- Cơ quan lãnh đạo cao nhất của mỗi cấp công đoàn là đại hội
công đoàn cấp đó. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo là ban chấp



- 24 -

hành do đại hội cấp đó bầu ra. Trường hợp đặc biệt công đoàn cấp trên
có quyền chỉ định ban chấp hành lâm thời nhiệm kỳ không quá 12
tháng. Ban chấp hành công đoàn các cấp thực hiện nguyên tắc tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách, nghị quyết thông qua đa số.
- Nghị quyết của công đoàn cấp trên phải được thi hành nghiêm
chỉnh. Thiểu số phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên.
- Ban chấp hành công đoàn các cấp có trách nhiệm báo cáo về
hoạt động của mình với đại hội công đoàn cùng cấp và với công đoàn
cấp trên, thông báo kết quả hoạt động với công đoàn cấp dưới. Công
đoàn cơ sở định kỳ thông báo công việc với các công đoàn bộ phận,
các tổ công đoàn trực thuộc{16, tr20}.
Như vậy, tập trung dân chủ trong hoạt động công đoàn là sự kết
hợp đúng đắn giữa người cán bộ với đoàn viên công đoàn, giữa chủ
trương và hành động. Đảm bảo sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, đồng
thời phát huy tính tích cực sáng tạo của mỗi thành viên trong tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu của mình với mục tiêu xây dựng tổ
chức công đoàn ngày càng vững mạnh.
Chương 2
Thực trạng hoạt động
của tổ chức Công đoàn Việt Nam
2.1. Những kết quả đạt được.
Hoà chung với xu thế hội nhập của đất nước, trong những năm
qua Công đoàn Việt Nam đã có nhiều đổi mới rõ rệt về tổ chức, nội


- 25 -

dung, phương hướng hoạt động. Dưới sự chỉ đạo của TLĐLĐVN,

nhiều phong trào thi đua đã mang lại hiệu quả thiết thực góp phần
quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Công tác
tuyên truyền, giáo dục được đẩy mạnh ở tất cả các cấp của tổ chức
công đoàn. Các hoạt động xã hội diễn ra sôi nổi, rộng khắp với nhiều
hình thức phong phú, đa dạng thu hút được sự chú ý của người lao
động.
Trong công tác nghiên cứu tham gia góp ý, xây dựng các văn
bản luật và dưới luật. Trong những năm qua, TLĐLĐVN trên cơ sở ý
kiến của đoàn viên ở các cấp công đoàn, đã nghiên cứu và tham gia
góp ý xây dựng hàng loạt các dự án luật có liên quan đến lĩnh vực lao
động-xã hội. Gần đây nhất, trong năm 2006, công đoàn đã tham gia
nhiều ý kiến trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật lao động, trong quá trình xây dựng và ban hành Luật bảo hiểm xã
hội, Luật dạy nghề, Luật đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng, Luật bình đẳng giới, Pháp lệnh dân chủ cơ sở... Đồng
thời, công đoàn cũng lấy ý kiến sửa đổi Luật công đoàn cho phù hợp
với sự phát triển của đất nước.
Công tác tư vấn pháp luật và trợ giúp pháp lý của 10 trung tâm,
31 văn phòng và 87 tổ tư vấn pháp luật của công đoàn các cấp đã góp
phần đưa chính sách pháp luật của nhà nước vào đời sống người lao
động, nâng cao sự hiểu biết và thực hiện tốt việc bảo vệ quyền lợi ích
hợp pháp cho người lao động.
Dưới sự chỉ đạo của công đoàn, việc thực hiện pháp luật ở khu
vực doanh nghiệp nhà nước đã có nhiều chuyển biến tích cực. Năm


×