Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Thực trạng quản lý chi tiêu công ở việt nam – nhìn từ vụ pmu18, vinashin,….

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.07 KB, 31 trang )

Trường ĐH kinh tế TP.Hồ Chí Minh
Khoa tài chính doanh nghiệp

Môn học: Tài chính công

Đề tài: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHI TIÊU CÔNG Ở VIỆT NAM – NHÌN
TỪ VỤ PMU18, VINASHIN,….

TP.Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 9 năm 2010

Trang 1


MỤC LỤC
A. Những vấn đề chung về quản lý chi tiêu công ở Việt Nam...........................2
I.Khái quát về tình hình chi tiêu công ở Việt Nam trong thời gian qua.........2
1.Đặc tính chung của chi tiêu công ở Việt Nam............................................2
2. Những khó khăn để ngân sách nhà nước đạt được trạng thái cân bằng.3
3. Một số giải pháp nhằm hướng đến sự cân bằng ngân sách trong dài hạn
ở Việt Nam.........................................................................................................3
3.1 Trên phương diện chi ngân sách nhà nước.........................................4
3.2 Trên phương diện thu ngân sách nhà nước..........................................4
II.Thực trạng quản lý chi tiêu công ở Việt Nam hiện nay..............................5
1.Quản lí chi tiêu công ở việt nam kém năng động:.....................................5
2.Kém hiệu quả trong phân bổ.....................................................................5
3.Tính kém hiệu quả hoạt động......................................................................6
4.Thiếu mối liên kết chặt chẽ ........................................................................6
5.Về phương thức cấp phát các khoản chi tiêu công ....................................6
6.Có nhiều khiếm khuyết trong hệ thống thông tin quản lý chi tiêu công ....7
III.Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu công của Việt nam trong
thời gian tới ....................................................................................................7


1.Xác định mục tiêu chiến lược quản lý chi tiêu công...................................7
2.Quan điểm xây dựng chiến lược quản lý chi tiêu công...............................8
3. Các nội dung đổi mới quản lý chi tiêu công..............................................9
B. Một số dẫn chứng về tính kém hiệu quả trong quản lý chi tiêu công ở Việt
Nam.................................................................................................................10
I. Vụ PMU18.................................................................................................10
1.Khái quát chung về vụ việc.......................................................................10
2. Nguyên nhân............................................................................................11
3. Hậu quả....................................................................................................12
4. Bài học kinh nghiệm.................................................................................12
II. Vụ VINASHIN............................................................................................13
1. Khái quát vụ việc.......................................................................................13
2. Nguyên nhân..............................................................................................14
Trang 2


3. Hậu quả.....................................................................................................16
4. Biện pháp..................................................................................................17
5. Bài học kinh nghiệm..................................................................................18

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHI TIÊU CÔNG Ở VIỆT NAM – NHÌN TỪ VỤ
PMU18 VÀ VINASHIN,…..
A. Những vấn đề chung về quản lý chi tiêu công ở Việt Nam:
I. Khái quát về tình hình chi tiêu công ở Việt Nam trong thời gian qua:
Chi tiêu công là một phạm trù tài chính gắn liền với chức năng quản lý của
Nhà nước và có liên quan đến nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Hiệu quả
quản lý chi tiêu công được đặt ra trong bối cảnh là nguồn lực tài chính của mỗi
quốc gia có sự giới hạn nhất định nhưng làm thế nào để thỏa mãn tốt những nhu
cầu cần thiết nhằm đạt các mục tiêu quản lý kinh tế, chính trị, xã hội của Nhà
nước.


Trang 3


Dù còn tồn tại sự khác biệt về thể chế chính trị ở các quốc gia trên thế giới,
trong thực tế luôn có hai lĩnh vực mà chi tiêu công hướng đến. Việt Nam không
phải là ngoại lệ.
1. Đặc tính chung của chi tiêu công ở Việt Nam
Khu vực thứ nhất là chi tiêu công phục vụ trực tiếp cho phát triển kinh tế.
Những khoản chi chúng ta vẫn thường gọi là chi phát triển kinh tế. Chúng bao
gồm nhiều khoản mục khác nhau và tất cả chúng đều có liên quan trực tiếp đến
việc thiết lập một nền tảng tốt hơn cho phát triển kinh tế. Loại chi tiêu công này
được mong đợi là góp phần nâng cao sản lượng của nền kinh tế. Các khoản chi
tiêu này được biết đến như là các khoản chi cho đầu tư và phát triển. Một số
những khoản chi tiêu này là chi tiêu cho nông lâm nghiệp và phát triển nông
thôn, giao thông vận tải và thông tin, thương mại và công nghiệp, năng lượng,
và một số khoản chi khác.
Bảng 1 : Tổng hợp chi tiêu công của Việt Nam
Năm GDP (tỉ
đồng)

Tổng Tổng chi
chi tiêu tiêu trên
( TCT) GDP %
(tỉ đồng)

2000441.646
2001481.395
2002535.762
2003613.443

2004715.307
2005839.211
2006974.266
20071.143.715
20081.485.038
20091.658.389

108.961
129.773
148.208
181.183
214.176
262.697
308.058
399.402
494.600
-

24,67
26,96
27,66
29,54
29,94
31,30
31,62
34,92
33,31
-

Chi đầu tư Chi sự

phát triển nghiệp
trên TCT kinh tế
%
trên
TCT %
27,19
5,32
31,00
4,58
30,51
5,39
32,91
4,51
30,87
4,81
30,15
4,49
28,68
4,61
28,08
4,04
27,48
4,35
-

Chi
Chi y Chi quản
giáo tế trên lý hành
dục
TCT chínhtrên

trên
%
TCT%
TCT %
11,63 3,17 7,42
11,89 3,24 6,73
12,04 3,14 5,80
12,63 2,96 6,27
11,83 2,81 7,42
10,89 2,90 7,14
12,12 3,74 6,61
13,46 4,11 7,31
12,85 4,03 6,64
-

Trang 4


Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam .
Bên cạnh các khoản chi vào đầu tư và phát triển, còn có một số khoản chi
tiêu biểu là chi cho giáo dục, sức khỏe, những dịch vụ công như luật lệ và trật
tự xã hội, trợ cấp và nhiều khoản chi khác.
Vì Việt Nam vẫn là quốc gia đang phát triển, vì vậy Chính phủ vẫn đang
xem những khoản chi tiêu dùng là ưu tiên nhằm đáp ứng những nhu cầu cần
thiết và cấp bách của người dân trong quá trình phát triển nền kinh tế.
Theo bảng số liệu 1 ta thấy ngân sách chi cho đầu tư phát triển chiếm tỉ
trọng cao so với tổng chi tiêu, nhằm xây dựng cơ sở vững chắc cho nền kinh tế.
2. Những khó khăn để ngân sách nhà nước đạt được trạng thái cân bằng
Về mặt nguyên tắc, tình trạng ngân sách của một quốc gia được xác định là
sự chênh lệch (hay hiệu số) giữa số thu và chi ngân sách nhà nước. Nếu tổng

thu lớn hơn, hoặc ngay cả bằng tổng chi, ngân sách của quốc gia được xem là
trong tình trạng tốt. Nếu điều ngược lại xảy ra, chính phủ đang đối diện với
một bài toán khó – ngân sách nhà nước đang trong tình trạng thâm hụt. Với
mục đích cân bằng ngân sách, chính phủ các nước có thể thực hiện nhiều cách
khác nhau. Chẳng hạn như phát hành tiền cũng là một cách để bù đắp thâm hụt.
Cách khác để hạn chế thâm hụt là đi vay, có thể vay trong nước hoặc vay nước
ngoài.
Điều quan trọng mỗi chúng ta cần lưu ý đó là dù bằng cách nào để hạn chế
thâm hụt ngân sách đi nữa, tài trợ cho chi tiêu trong hiện tại đều được xem là
nguyên nhân làm giảm đi nguồn lực trong xã hội đáng lý ra phải được sử dụng
trong tương lai. Theo số liệu đính kèm, thật hiển nhiên để nhận ra rằng ngân
sách của Việt Nam luôn trong tình trạng thâm hụt. Thực tế này là một rào cản
nhất định đối với Chính phủ trong công tác điều hành và quản lý nền kinh tế.
Bảng 2 : So sánh thu chi ngân sách nhà nước của Việt Nam từ 2000 đến
2009 ( tỉ đồng)
Trang 5


Năm 2000 2001
Tổn
90.749 -g thu
Tổn 108.96 129.77
g chi 1
3
Kết

-18.212 -ngân
sách

2002

123.86
0
148.20
8

2003
152.27
4
181.18
3

2004
190.92
8
214.17
6

2005
228.28
7
262.96
7

2006
279.47
2
308.05
8

2007

315.91
5
399.40
2

2008 2009
416.78
3
-494.60
0
--

-24.348-28.909-23.248-34.680-28.586-83.487-77.817

--

Nguồn: Tổng cục thống kê Việt Nam.
3. Một số giải pháp nhằm hướng đến sự cân bằng ngân sách trong dài
hạn ở Việt Nam
Từ những số liệu của các Bảng 1 và 2 , trên phương diện tổng thu và tổng chi
ngân sách nhà nước, chúng ta thấy rằng: Việt Nam thường xuyên trong tình
trạng thâm hụt ngân sách liên tục trong giai đoạn 2000-2008. Do vậy, giải pháp
đưa ra nên được nhìn nhận trên tầm rộng.
3.1 Trên phương diện chi ngân sách nhà nước
Với các quốc gia, việc gia tăng chi ngân sách nhà nước qua các năm là điều
không thể tránh khỏi và trên một số phương diện, điều này chấp nhận được.
Tuy nhiên, điều cần nhìn nhận là chi tiêu công phải được kiểm soát và quản lý
chặt chẽ để tránh những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Trong hoàn cảnh
của Việt Nam, với những kỳ vọng về sự phát triển kinh tế trong tương lai là có
cơ sở, chắc chắn sẽ có sự gia tăng trong tổng chi tiêu ngân sách nhà nước trong

tương lai.
Trong thực tế, khi có những giới hạn nhất định trong các quyết định chi
tiêu, Chính phủ sẽ gặp khó khăn trong việc hoàn thành nhiệm vụ quản lý nền
kinh tế. Tuy nhiên, khi khả năng thu thuế từ nền kinh tế còn nhiều giới hạn, sẽ
không có gì ngạc nhiên khi phải quản lý chặt chẽ chi tiêu công và đây là công
Trang 6


việc cần thiết và cần được làm ngay. Vì vậy cần đưa ra các giải pháp để giải
quyết vấn đề này như là:
● Cần phải có một chiến lược phát triển kinh tế rõ ràng. Để đạt được tính
hiệu quả, chiến lược phát triển kinh tế phải được xây dựng trên những điều kiện
hiện tại và cụ thể của nền kinh tế quốc gia cũng như là nền kinh tế thế giới với
những dự đoán thuyết phục. Nếu làm được như vậy, chính phủ sẽ dễ dàng hơn
trong công tác hoạch định chi tiêu công và tránh những sự thay đổi không cần
thiết.
● Các khoản chi tiêu công cần hướng đến những lĩnh vực mang tính tiên
phong và có khả năng thúc đẩy các lĩnh vực khác trong nền kinh tế cùng phát
triển.·
● Cần phải có sự chuyển dịch những khoản chi tiêu công từ những lĩnh vực
không hiệu qủa đến những lĩnh vực hiệu quả hoặc hiệu quả hơn để tiết kiệm chi
tiêu góp phần làm giảm sức ép thâm hụt ngân sách.
● Chính phủ phải quản lý chặt chẽ việc sử dụng ngân sách bằng việc quy
định rõ ràng quyền hạn và giới hạn của địa phương trong việc quyết định các
khoản chi.
● Báo cáo về chi tiêu công phải được kiểm tra thường xuyên nhằm đảo bảo
tiền đã đến được điểm chúng cần đến. Trên phương diện này, tham nhũng, cửa
quyền hay chiếm dụng tài sản công sẽ được hạn chế ở mức thấp nhất.
3.2 Trên phương diện thu ngân sách nhà nước
Thực tế là Việt Nam đang đánh thuế mạnh. Trong hoàn cảnh ngân sách đang

thâm hụt liên tục với mức độ ngày càng trầm trọng, giải pháp hạ thuế vì bất kỳ
lý do gì, theo quan điểm của tôi, là không khả thi.
Tuy nhiên, điều cần thấy rõ là trong chính sách thuế, đã đến lúc chúng ta
thực hiện sự chuyển dịch tầm quan trọng từ thuế gián thu sang thuế trực thu
như là một sự chuyển dịch không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế.
Trang 7


Trên ý nghĩa đó, số thu từ thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp
sẽ gia tăng đáng kể trong tổng thuế thu được của ngân sách nhà nước. Thêm
vào đó, điểm quan trọng của hệ thống thuế Việt Nam là trong một thời gian dài,
số thu từ thuế phụ thuộc nhiều vào thuế xuất nhập khẩu trong khi ngay từ bây
giờ, số thu từ loại thuế này sẽ giảm một cách đáng kể khi Việt Nam thực hiện
những cam kết trong CEPT của ASEAN và những cam kết về thuế quan với thế
giới.
Xuất phát từ những thách thức nói trên, Chính phủ phải thực hiện nhiều giải
pháp quan trọng và đồng bộ để tổng số thu ngân sách từ thuế không bị dao
động nhiều trong giai đoạn sắp đến khi đất nước phải đối diện với những thay
đổi như đã phân tích.

II. Thực trạng quản lý chi tiêu công ở Việt Nam hiện nay:
1.Quản lí chi tiêu công ở việt nam kém năng động:
Chi tiêu công ởViệt Nam được quản trị theo phong cách truyền thống, rất
chính tắc nhưng ít năng động và khá hình thức. Cách làm này đang trở nên lỗi
thời, trong bối cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới
với cả quyền lợi lẫn nghĩa vụ đầy đủ của một thành viên;do đó cần phải được
đổi mới.
Quản trị chi tiêu công ở Việt Nam trong thời gian qua đã bộc lộ những tồn
tại yếu kém rất cơ bản, xét theo những tiêu chí quản trị khu vực công hiện đại,
phổ biến trên thế giới như tính công khai minh bạch chưa cao, trách nhiệm giải

trình còn hạn chế, hiệu quả kinh tế - xã hội chưa đạt như mong muốn và đặc
biệt chưa có sự tham gia đáng kể của người chủ đích thực của đồng tiền ngân
sách là nhân dân.
Cách phân bổ vốn đầu tư ngân sách thời gian qua còn theo kiểu bao cấp chia đều, vẫn mang khá nặng dấu ấn của cơ chế xin cho, việc chi tiêu ngân sách
chưa thực sự gắn chặt với trách nhiệm đến cùng; chỉ chịu sự ràng buộc của
những hình thức chế tài có hiệu lực không cao, kèm theo đó là năng lực bộ máy
còn yếu.
Đó chính là căn nguyên của tình trạng “có vấn đề” của hoạt động ngân sách
Nhà nước: như tình trạng tăng trưởng nóng, đầu tư cao nhưng kém hiệu quả,
Trang 8


dẫn tới lạm phát cao và bất ổn kinh tế vĩ mô vài năm gần đây đi liền với xu
hướng gia tăng đầu tư dàn trải, trầm trọng hơn tình trạng lãnh phí, thất thoát,
tham nhũng… chứng tỏ hiệu quả thấp của hoạt động thu chi ngân sách và nhiều
vấn đề gay gắt đang tồn tại trong lĩnh vực này.
Thực tế cũng chứng tỏ căn bệnh nói trên đang khá nghiêm trọng và có
nguồn gốc cơ chế kinh tế, nằm trong chính sự không phù hợp của Luật Ngân
sách Nhà nước với các điều kiện, yêu cầu của nền kinh tế sau hơn 20 năm đổi
mới và hội nhập quốc tế thành công.
2.Kém hiệu quả trong phân bổ
Mặc dù, đã có nhiều cải thiện, quản lý chi tiêu của Việt nam đã bộc lộ
nhiều yếu điểm:
- Lập ngân sách ngắn hạn, chủ yếu ngân sách hàng năm, do đó không được
đánh giá, xem xét sự phân bổ nguồn lực gắn kết với những chương trình phát
triển kinh tế xã hội hàng năm.
- Thiếu vắng hệ thống các tiêu chí thích hợp để xác định thứ tự ưu tiên chi
tiêu. Phân bổ ngân sách theo yếu tố đầu vào đã tạo ra điểm yếu cơ bản là không
khuyến khích đơn vị chi tiết kiệm ngân sách, vì nó không đặt ra yêu cầu ràng
buộc hợp lý, chặt chẽ giữa số kinh phí được phân bổ với kết quả đạt được ở đầu

ra do sử dụng ngân sách đó. Lập ngân sách theo yếu tố đầu vào đã tạo ra những
ưu tiên trong phân bổ bị lệch lạc, méo mó. Nguồn lực của xã hội được đầu tư
vào những dự án, mang lại lợi ích xã hội rất thấp, trong khi ngân sách thiếu
nguồn lực cho những nhu cầu thiết thực như: y tế, văn hóa, giáo dục.
- Tạo ra những quy định đặc biệt, hình thành những quỹ tiền tệ riêng biệt
tách ra khỏi ngân sách để thực hiện những chương trình có tính ưu tiên. Từ đó
giảm đi rất nhiều vai trò của ngân sách và vi phạm những nguyên tắc thống
nhất trong quản lý ngân sách.
3. Tính kém hiệu quả hoạt động
-Cho đến nay, ở Việt Nam chưa đạt được nhiều tiến bộ trong việc cải cách
hành chính công, tinh giảm biên chế trong khu vực công. Biên chế tiếp tục tăng

Trang 9


lên (đơn vị ngàn): 1995: 3,053; 1996: 3,138; 1997: 3,267; 1998: 3,339; 1999:
3,363; và năm 2000 3,421. Hiệu suất trong khu vực công giảm, công chức
không thực sự cố gắng, trình độ và năng suất không cải thiện, thêm vào đó điều
kiện làm việc nghèo nàn làm suy yếu hiệu quả hoạt động.
- Nguồn lực hiện hữu của ngân sách chưa đáp ứng đủ cho hoạt động công,
thậm chí ngay sau khi ngân sách đã được phê chuẩn. Người quản lý luôn bị
động, không nắm chắc nguồn lực để chủ động cân đối cho nhu cầu trong ngắn
hạn lẫn dài hạn.
Về mặt luật pháp, kiểm soát ngân sách được thiết lập theo hướng tập trung
cao độ với nhiều quy định rất chi tiết về mua sắm tài sản, định mức chi tiêu…
Thế như trên thực tế sự kiểm soát chính thức không được thực hiện có hiệu quả,
do thiếu thông tin về tổ chức quản lý.
Cách thức quản lý không chính thức tồn tại song song cùng với những quy
định chính thức. Chẳng hạn, sự tuyển chọn cán bộ công chức, chi tiêu mua
sắm…mặc dù luật pháp quy định rất chặt chẽ nhưng trên thực tế dường như lại

được thực hiện theo những quy định không chính thức. Một khi những quy định
chính thức không được thực hiện thì tham nhũng có xu hướng gia tăng, gây
phương hại đến nguồn lực tài chính quốc gia.
4. Thiếu mối liên kết chặt chẽ
Quy trình phân bổ nguồn lực tài chính nhà nước thiếu mối liên kết chặt chẽ
giữa kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trung hạn (3- 5 năm) với nguồn lực
trong một khuôn khổ kinh tế vĩ mô được dự báo.
Nói cách khác, nguồn tài trợ cho những kế hoạch nói trên không được quan
tâm đúng mức dẫn đến sự hụt hẫng về tài chính nên nhiều công trình phải chờ
kinh phí hoặc bỏ dở. Thêm vào đó, kinh phí đầu tư dàn trải cho nhiều dự án
khiến những ưu tiên của Chính phủ không được tài trợ tương xứng với tầm
quan trọng của chúng.
Trong quá trình soạn lập ngân sách, kiểm soát các yếu tố đầu vào được coi
trọng hơn là sự cải thiện kết quả hoạt động của ngành thông qua thực thi các

Trang 10


mục tiêu và nhiệm vụ của ngành. Các thông số về đầu ra cũng như về kết quả
thường ít được quan tâm, nên ngân sách thiếu thực tế dễ bị điều chỉnh và có thể
tạo ra một kết quả ngoại ý. Ngân sách được lập hàng năm vừa tốn thời gian,
nhân lực và tiền bạc vừa không dự liệu hết mọi biến cố trung hạn có thể ảnh
hưởng đến dự toán. Ngân sách chi thường xuyên và ngân sách chi đầu tư phát
triển được soạn lập một cách riêng rẽ làm giảm hiệu quả sử dụng nguồn lực
công.
5. Về phương thức cấp phát các khoản chi tiêu công
Hiện nay, nhà nước thực hiện cấp phát kinh phí và vốn từ ngân sách nhà
nước theo 2 phương thức chủ yếu đó là hạn mức kinh phí và lệnh chi tiền.
- Phương thức cấp phát theo hạn mức kinh phí đã bám sát dự toán chi
NSNN được duyệt cả về tổng số cũng như cơ cấu các mục chi; tạo điều kiện

thuận lợi cho Kho bạc nhà nước, cơ quan tài chính trong việc kiểm soát chi .
- Phương thức cấp phát theo lệnh chi tiền chỉ áp dụng đối với các khoản chi
đột xuất, không kế hoạch hóa được hoặc áp dụng đối với những đơn vị ít có
quan hệ với NSNN, song trong cả một thời gian khá dài, hình thức cấp phát này
được áp dụng cho hầu hết các dự án đầu tư xây dựng cơ bản và các chương
trình mục tiêu.
Cả hai phương thức cấp phát nói trên, được cơ quan tài chính sử dụng để
kiểm soát và chủ động điều hòa NSNN. Tuy nhiên, hiện nay với xu hướng phân
công nhiệm vụ rõ ràng, chuẩn hóa quy trình ngân sách, điều hành ngân sách
theo luật; đặc biệt trong điều kiện hội nhập tài chính quốc tế và khu vực ở lĩnh
vực tài chính công, để thích ứng với những chuẩn mực quản lý NSNN của các
nước thì việc áp dụng các hình thức cấp phát trên cần nghiên cứu và sửa đổi lại
cho phù hợp.
6. Có nhiều khiếm khuyết trong hệ thống thông tin quản lý chi tiêu
công
Những chuẩn mực kế toán công chưa được quan tâm đúng mức và do vậy, dẫn
đến tình trạng không thể thống nhất và so sánh đánh giá sự phân bổ và sử dụng

Trang 11


nguồn lực tài chính nhà nước. Hiện tại, ít nhất có 3 hệ thống kế toán đang tồn
tại bên trong Chính phủ, đó là: kế toán ngân sách nhà nước, kế toán kho bạc
nhà nước, kế toán của các đơn vị sử dụng ngân sách. Cơ quan tài chính hạch
toán chi NSNN theo chế độ hạch toán riêng dựa trên nguyên tắc ghi sổ đơn và
mang đậm tính chất thống kê với tiêu thức lũy kế theo mục lục NSNN. Kho
bạc nhà nước hạch toán kế toán chi NSNN theo nguyên tắc ghi sổ kép, có theo
dõi chi tiết theo mục lục NSNN do Bộ tài chính ban hành. Các đơn vị hành
chính sự nghiệp thực hiện kế toán theo chế độ kế toán đơn vị hành chính sự
nghiệp và cũng theo dõi các khoản chi tiêu của mình theo mục lục NSNN. Ba

chế độ hạch toán kế toán do ba đầu mối thực hiện, đương nhiên khó mà có sự
tương đồng, đặc biệt trong điều kiện các chuẩn mực về kế toán chi tiêu công
chưa được nghiên cứu thấu đáo và áp dụng. Đây là một trong những tồn tại gây
cản trở cho công tác quản lý và điều hành chi NSNN và áp dụng công nghệ
thông tin.
III.Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý chi tiêu công của Việt nam trong
thời gian tới :
1. Xác định mục tiêu chiến lược quản lý chi tiêu công
Với tư cách là một công cụ trọng tâm của chính sách tài chính quốc gia, liên
quan đến việc thực hiện phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính công, nên
vấn đề xuyên suốt của quản lý chi tiêu công phải thực hiện các mục tiêu Đại
hội Đảng lần thứ IX của Việt Nam đề ra, đó là:
● Giữ kỷ luật tài chính tổng thể. Đảm bảo quy mô chi ngân sách nhà nước
vào khoảng 24-25% GDP, trong đó chi đầu tư phát triển chiếm 25-25%, chi trả
nợ 17-18% và chi thường xuyên 57-58%. Theo đó, khống chế bội chi ngân
sách nhà nước 4-5%GDP; bù đắp bội chi ngân sách bằng nguồn vốn trong nước
khoảng 3-5% GDP và vay nước ngoài 1-1,5% GDP.
● Phân phối nguồn lực tài chính phù hợp với những ưu tiên chiến lược về
tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo; đảm bảo công bằng phù hợp với thể chế
kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trang 12


● Nâng cao tính trách nhiệm, minh bạch, dân chủ trong chi tiêu công; đảm
bảo tính hiệu quả và hiệu lực của những chương trình và cung cấp hàng hóa,
dịch vụ công cho xã hội; chi tiêu công thực sự trở thành thước đo năng lực,
hiệu lực quản lý kinh tế xã hội của nhà nước.
2.Quan điểm xây dựng chiến lược quản lý chi tiêu công
Cải cách quản lý chi tiêu công phải đặt trong bối cảnh cải cách hành chính

công tổng thể và nâng cao năng lực quản lý của Chính phủ.
Với quan điểm này, yêu cầu Nhà nước phải làm cho vai trò quản lý của
mình phù hợp với năng lực đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, cụ thể là phải
xây dựng các thể chế nhằm tạo ra một khu vực công năng động, bao gồm tăng
cường xây dựng các thể chế về chính sách; chính quyền có khả năng xây dựng
và phối hợp chính sách trong việc lựa chọn mục tiêu chiến lược; phân bổ nguồn
lực gắn kết với kế hoạch và chính sách; thực hiện, kiểm soát và đánh giá kết
quả các hoạt động; công chức phải có động cơ và năng lực quản lý tốt; ngăn
chặn nạn tham nhũng ...
Quản lý chi tiêu công cần dựa trên hệ thống các nguyên tắc lập ngân sách
và quản lý tài chính tốt. Những nguyên tắc đó là:
● Tính tổng thể và tính kỷ luật: Tính tổng thể đòi hỏi một sự tiếp cận đối
với những vấn đề chi tiêu công đang tồn tại, hiểu biết tất cả những mối liên kết
và đánh giá những trở lực thuộc về định chế và sau đó tìm ra những điểm tiếp
cận thích hợp để đẩy mạnh quá trình cải cách chi tiêu công theo từng giai đoạn.
Ngân sách phải bao quát tất cả những hoạt động tài chính của Chính phủ. Trong
ngân sách, những quyết định tài chính mà Chính phủ đưa ra cần phải dựa vào
cơ sở giới hạn cứng của ngân sách và có sự cạnh tranh, đánh đổi giữa các nhu
cầu và mục tiêu. Tính kỷ luật, đi đối với nó là tính tiết kiệm, hàm ý rằng ngân
sách chỉ nên tập trung những nguồn lực vừa đủ ở mức cần thiết để thực hiện tốt
những chính sách Chính phủ.
● Tính linh hoạt:. Tính linh hoạt có liên quan đến vấn đề đưa những quyết
định đến tất cả các nơi mà thông tin hợp lý có thể có. Thuộc về hoạt động,
những người quản lý cần có quyền lực đối với những quyết định quản lý; thuộc
Trang 13


về chương trình, các cá nhân Bộ trưởng cần được trao thêm quyền lực đối với
những quyết định chương trình. Những vấn đề này phải được đi kèm tính minh
bạch và tính trách nhiệm, đồng thời đòi hỏi phải một chiến lược chặt chẽ.

● Tính tiên liệu: Trong quản lý chi tiêu công, tính tiên liệu đóng vai trò
quan trọng trong việc thực hiện chính sách và chương trình có hiệu quả và hiệu
lực. Ở những quốc gia mà có sự ổn định kinh tế vĩ mô và chính sách chiến lược
thì ở đó khu vực công sẽ thực hiện tốt hơn chức năng cung cấp hàng hóa, dịch
vụ. Vấn đề này đòi hỏi cần chú ý đến sự cân đối giữa ngắn hạn và dài hạn.
Chính sách tài khóa phải chú ý đến nhu cầu để làm chắc chắn dòng chảy của
các quỹ tiền tệ đến các chương trình, dự án đúng lúc. Điều này đòi hỏi phải
cách tiếp cận trung hạn đối với việc điều chỉnh những mất cân đối ngân sách và
đánh giá chương trình.
● Tính trung thực: Tính trung thực yêu cầu ngân sách nên xuất phát từ
những dự toán không có sự thiên vị cả thu lẫn chi. Sự thiên vị này có thể bắt
nguồn từ những vấn đề thuộc về chính trị lẫn kỹ thuật. Những dự toán quá lạc
quan sẽ làm mềm đi giới hạn ngân sách và dẫn đến sự thất bại trong việc thực
hiện những chiến lược chính sách ưu tiên .
●Thông tin: Thông tin tốt sẽ làm vững chắc thêm tính trung trực và đưa ra
quyết định tốt. Thông tin chính xác và kịp thời về chi phí, đầu ra và kết quả là
rất cần thiết trong quản lý chi tiêu công.
● Tính minh bạch và tính trách nhiệm: Tính minh bạch và tính trách nhiệm
yêu cầu các quyết định, cùng với cơ sở kết quả và chi phí của nó có thể tiếp cận
rõ ràng và được thông tin rộng rãi cho công chúng. Tính minh bạch đòi hỏi
những người ra quyết định phải có tất cả những dữ liệu và thông tin thích hợp.
Người ra quyết định phải có trách nhiệm về thực thi quyền lực đã được trao.
Quản lý chi tiêu công cần đặt trong khuôn khổ chi tiêu trung hạn.
Với việc thiết lập khuôn khổ chi tiêu trung hạn sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả quản lý chi tiêu công:

Trang 14


● Tăng cường năng lực của Chính phủ trong soạn lập ngân sách, đặc biệt là

khả năng dự báo khi phân bổ ngân sách.
● Tăng cường kỷ luật ngân sách và tính minh bạch cũng như trách nhiệm
giải trình trong sử dụng nguồn lực công.
● Tăng cường chất lượng những thông tin ngân sách, tính rõ ràng của các
mục tiêu chính sách.
Hướng sự tập trung của các quan chức chính phủ vào thời kỳ trung hạn chứ
không chỉ một năm ngân sách hiện hành.
● Cho phép Chính phủ tập trung nhiều hơn vào những ưu tiên mang tính
chiến lược mà vẫn làm cho quy trình ngân sách toàn diện hơn.
3. Các nội dung đổi mới quản lý chi tiêu công
- Xác lập lại vai trò và cấu trúc của Nhà nước. Nội dung chiến lược này là
nhằm hướng vào xác lập lại quy mô khu vực công và phạm vi can thiệp của
Nhà nước vào nền kinh tế cho phù hợp với năng lực quản lý, thông qua các
chính sách cổ phần hóa DNNN, tự do hóa kinh tế, xã hội hóa các hoạt động
dịch vụ công .
- Nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan quản lý và đơn vị sử dụng
ngân sách. Cung cách quản lý tập trung, quan liêu là đặc tính của hệ thống lập
ngân sách theo truyền thống mà kết quả của nó là nguồn lực tài chính công sử
dụng kém hiệu quả và hiệu lực, các cơ quan nhà nước không chịu trách nhiệm
về hàng hóa, dịch vụ công cung cấp cho xã hội. Những người quản lý và sử
dụng ngân sách hoạt động trong một môi trường bị kiểm soát hết sức cứng.
Những công cụ truyền thống để thực hiện kiểm soát là định mức và khoản mục
hóa các khoản chi tiêu, mua sắm đầu vào. Thế nhưng, chính sự kiểm soát đầu
vào đã gây ra tính kém hiệu quả trong hoạt động bởi vì nó không khuyến khích
tiết kiệm, không tạo ra sự gắn kết giữa khối lượng chi tiêu với khối lượng đầu
ra. Từ những hạn chế đó, để nâng cao tính hiệu quả trong hoạt động, quản lý
chi tiêu công đòi hỏi:

Trang 15



● Những người quản lý được trao quyền tự chủ trong việc điều hành hoạt
động của họ và nâng cao tính tự chịu trách nhiệm của họ về kết quả. Những kết
quả cần được chi tiết hóa trong ngân sách và trong những kế hoạch tài chính có
liên quan, qua đó tạo điều kiện cho những người quản lý thấy trước kết quả
thực hiện và giúp cho chính phủ so sánh được kết quả mục tiêu và kết quả thực
tế.
● Những người quản lý có năng lực đủ mạnh trong việc chủ động đề ra
những giải pháp để giảm bớt chi phí hoạt động và nâng cao khối lượng hoặc
chất lượng đầu ra.
● Tạo ra những đòn bẩy kinh tế khuyến khích những người quản lý cải
thiện và nâng cao chất lượng hoạt động.
- Chuyển sang lập kế hoạch dài hạn với những giới hạn ngân sách bằng
việc xây dựng khuôn khổ chi tiêu trung hạn nhằm ràng buộc các cấp chính
quyền từ trung ương đến địa phương sử dụng các nguồn lực tài chính phải gắn
liền với các ưu tiên tổng thể của quốc gia. Trong năm 2002, dưới sự hỗ trợ của
UNDP (dự án VIE/96/028) Chính phủ đã bắt đầu thực hiện thí điểm xây dựng
khuôn khổ chi tiêu trung hạn trong ngành giáo dục - đào tạo. Trên cơ sở kinh
nghiệm tích lũy được từ việc thực hiện thí điểm này, Chính phủ cần triển khai
rộng rãi cho các ngành khác.
- Từng bước chuyển quản lý ngân sách theo đầu vào sang quản lý ngân
sách theo đầu ra. Một khi đã thay đổi quy trình lập ngân sách theo khuôn khổ
chi tiêu trung hạn, thì phương thức quản lý ngân sách cũng phải có những thay
đổi nhất định cho tương hợp. Quản lý ngân sách theo kết quả đầu ra là một hoạt
động quản lý dựa vào cách tiếp cận thông tin đầu ra qua đó giúp cho chính phủ
và các cơ quan sử dụng ngân sách phân bổ và sử dụng nguồn lực tài chính hiệu
quả và hiệu lực hơn. So với phương quản lý ngân sách theo đầu vào, quản lý
ngân sách theo đầu ra có nhiều ưu điểm.
Trong năm 2002, Chính phủ đã thực hiện mở rộng thí điểm khoán biên chế
và kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan hành chính nhà nước (theo

QĐ 192/2001 ngày 17.12.2002). Cũng cần thấy rằng, cơ chế khoán chi này chỉ
là bước đi ban đầu của quá trình chuyển đổi cung cách quản lý ngân sách theo
Trang 16


đầu vào sang quản lý ngân sách theo đầu ra. Do đó, việc thiết lập hoàn chỉnh
một quy trình quản lý ngân sách theo đầu ra trong thời gian tới là rất cần thiết
(bao gồm quy trình lập, đánh giá, hệ thống báo cáo).
- Phát triển hệ thống thông tin quản lý tài chính và hệ thống kế toán công.
Những vấn đề này là trong số các yếu tố cơ bản góp phần làm nâng cao năng
lực của chính phủ để phân phối và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả và hiệu
lực.
B. Một số dẫn chứng về tính kém hiệu quả trong quản lý chi tiêu công ở Việt
Nam:
I. Vụ PMU18:
1.Khái quát chung về vụ việc
PMU-18 nguyên là một đơn vị đặt ra từ năm 1993 để điều hành một số dự
án xây cất cầu cống cho Bộ Giao thông Vận tải. Trong thời gian 13 năm từ
1993 đến 2006, đơn vị này quản lý khoảng 2 tỷ Mỹ kim do Ngân hàng Quốc tế
(World Bank), Nhật Bản và một số quốc gia Âu châu tài trợ và nhà nước Việt
Nam góp vốn, tuy nhiên PMU18 đã lạm dụng nguồn vốn này phục vụ cho mục
đích cá nhân, gây thất thoát lượng lớn NSNN.
Vụ PMU 18 (PMU viết tắt theo tiếng Anh cho Project Management Unit,
có nghĩa là Đơn vị quản lý dự án),liên quan đến tham nhũng trong Bộ Giao
thông Vận tải (GTVT) đầu năm 2006, gây xôn xao dư luận tại Việt Nam cũng
như các nước và tổ chức cung cấp viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho
Việt Nam, đã khiến Bộ trưởng Bộ GTVT Đào Đình Bình phải từ chức và Thứ
trưởng Thường trực Nguyễn Việt Tiến bị bắt giam.
Liên quan đến vụ việc này,nhiều quan chức cấp cao bị tố cáo tham gia
chạy án cho các bị can. Trong đó phải kể đến Thiếu tướng công an Cao Ngọc

Oánh (Tổng cục phó Tổng cục Cảnh sát Nhân dân, Thủ trưởng cơ quan điều tra
Bộ Công an) và ông Nguyễn Văn Lâm (Phó chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ).
Chính vì việc này mà ông Cao Ngọc Oánh mất cơ hội vào Trung ương cũng
như thăng chức lên Thứ trưởng Bộ Công an.

Trang 17


2. Nguyên nhân
- Cơ chế quản lý chi tiêu công, và ngân sách nhà nước thiếu khoa học. Việc
sử dụng vốn để đầu tư xây dựng kém hiệu quả. Đặc biệt là việc sử dụng các
nguồn vốn vay từ nước ngoài và nguồn vốn ODA rất kém hiệu quả.
Xét về mặt tài chính công thì việc xuất chi tiền ngân sách nhà nước
(NSNN) tại nước ta nói chung còn theo cách quản lý thủ công, nhà thầu đến
kho bạc lấy tiền quá dễ dàng, chưa thiết lập các rào cản khoa học pháp lý và
khoa học quản lý mà các quốc gia phương Tây đã làm hơn 100 năm. Cụ thể,tiền
NSNN và vốn vay ODA được giao về Bộ giao thông vận tải rồi Bộ này đưa cho
Ban quản lý công trình (PMU) để từ đây xuất chi cho nhà thầu, quy trình quản
lý tài chính công vô cùng thô sơ, lộ rõ những thiếu sót, sơ hở của việc quản lý
và cấp phát tiền NSNN, còn tính thủ công cao độ, chưa thấy xuất hiện các cánh
cửa pháp lý và quản lý khoa học và hoàn toàn xa lạ với hiểu biết và tầm nhìn
của các nhà tài chính quốc tế. Vì đối với họ, khi nhà thầu muốn lấy được tiền
tại kho bạc, phải qua nhiều cánh cửa quản lý như: giám sát thi công, biên bản
nghiệm thu hạng mục đã làm xong theo điều kiện sách( cahier des charges),
duyệt chi của Ordonnateur và sau cùng là viên chức kho bạc xem xét lại, ký tên
trên tờ ủy phiếu (Mandat) trước khi trả tiền. Vì thế nên nhóm PMU 18 mới có
cơ hội ăn chặn (từ 5% - 15%) tiền của nhà thầu được nhận. Những thiếu sót này
Bộ tài chính có phần trách nhiệm không nhỏ trong quản lý NSNN.
- Nguyên nhân của mọi nguyên nhân đó là sự yếu kém của hệ thống, tức là
lỗi ở hệ thống chính trị.Việc quản lý các nguồn vốn đầu tư rất lỏng lẻo, kém

chặt chẽ, thiếu minh bạch, tạo điều kiện cho tham nhũng hoành hành.
Theo một số nguồn tin, bất chấp nhiều lần kiểm tra, giám sát của thanh tra
Bộ Giao thông - vận tải, Thanh tra tài chính, Thanh tra Chính phủ, kiểm toán,
quyết toán hằng năm, quyết toán công trình, quyết toán dự án, những sai phạm
nghiêm trọng như vậy vẫn có thể diễn ra ở mức độ, phạm vi và khoảng thời
gian rất dài. Hiệu lực của các công cụ sắc bén này đến đâu và tại sao lại để cả
một con voi chui qua lỗ kim được nhiều lần đến như vậy? Có lẽ đây chính là
điểm chưa được rõ ràng trong việc kiểm tra giám sát các hoạt động chi tiêu
công. Do vậy, vụ PMU 18 xảy ra không chỉ là một trường hợp sai phạm cá biệt
của con người mà là một hiện tượng phản ánh những khuyết tật của hệ thống,
Trang 18


thể hiện sự quản lý yếu kém về nhiều mặt chứ không chỉ ở lĩnh vực chi tiêu
công. Những khuyết tật về tổ chức hoạt động quản lý đã làm cho vụ PMU 18
không chỉ là một sai phạm nghiêm trọng ở cấp vi mô mà đã bộc lộ những bất
cập, yếu kém ở cấp vĩ mô, về tổ chức, cơ chế, phương thức, trách nhiệm lãnh
đạo, quản lý nền kinh tế.
3. Hậu quả
Vụ việc này đã làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến nhiều lĩnh vực: kinh tế,
chính trị, xã hội... của Việt Nam.
- Làm thất thoát một lượng rất lớn NSNN (ước chừng vài chục ngàn tỉ
đồng).
- Làm mất niềm tin trong nhân dân và các nhà đầu tư về hệ thống chính trị
cũng như về cách quản lý nền kinh tế, dẫn đến những khó khăn trong việc điều
hành
nền
kinh
tế.
- Mất lòng tin và uy tín với cộng đồng thế giới. Tất cả các nước viện trợ và

cho vay vốn đều nghi ngờ và chỉ trích chính phủ. Vì vậy Đại sứ Nhật Bản tại
Việt Nam nói: “ODA là nguồn vốn cần thiết cho sự phát triển của VN và đã
đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của VN. Trách
nhiệm hàng đầu trong việc sử dụng ODA thuộc về Chính phủ VN”.
- Gây ra gánh nặng nợ nần thế hệ mai sau. Theo Bộ Tài chính, trong giai
đoạn 2006 - 2010, VN phải trả nước ngoài 10 -11 tỉ đô la nợ quốc gia. Mỗi năm
phải trả 2 tỉ đô la. Được biết, tổng nợ nước ngoài hiện vào khoảng 20 tỉ đôla,
mà khoản nợ này tất nhiên là do 86 triệu người dân Việt Nam phải trả.
4. Bài học kinh nghiệm
Vụ án tham nhũng cực kỳ nghiêm trọng ở PMU18 Bộ Giao thông Vận tải
đã gây nên bất bình lớn trong Đảng, trong nhân dân cả nước, gây ảnh hưởng
xấu đến uy tín và quan hệ quốc tế của nước ta. Vụ PMU18 cho thấy “giặc nội
xâm” đã tấn công vào một cơ quan quản lý khối lượng tiền bạc, của cải lớn của
Trang 19


nhân dân, vào một Đảng bộ lớn của Đảng. Những kẻ tham nhũng đã gây trọng
tội: Biển thủ một số tiền bạc, tài sản lớn của quốc gia và nguy hiểm hơn là xây
dựng những công trình kém chất lượng, gây tổn thất lớn và lâu dài cho đất
nước.
- Cần xây một cơ chế kiểm tra, giám sát hiệu quả , minh bạch, nâng cao
hiệu quả hoạt động của các cơ quan thanh tra, cơ quan kiểm toán nhà nước.
- Cần thiết lập ra cơ chế quản lý chi tiêu công khoa học.
- Quản lý hoạt động nguồn vốn ODA và các nguồn vốn vay một cách chặt
chẽ, tránh việc lạm dụng, sử dụng nguồn vốn này không hiệu quả, nếu không đây
chính là khoản nợ khổng lồ mà thế hệ tương lai phải gánh chịu.
Theo Bộ Tài chính, từ vụ Pmu18, trong giai đoạn 2006 - 2010, VN sẽ phải
trả nước ngoài 10 -11 tỉ$
nợ quốc gia. Mỗi năm phải trả 2 tỉ đô la. Được biết, tổng nợ nước ngoài hiện vào
khoảng 20 tỉ đôla.

Hiện nay, ngoài vốn ODA, quản lý vốn ngân sách của chúng ta cũng đang có
vấn đề. Thủ tục quản lý
của chúng ta rất nhiều nhưng vẫn không chặt và chưa đạt được hiệu quả. Đó là
mặt yếu kém, không hoàn chỉnh và chưa hội nhập quốc tế trong việc quản lý tài
chính công tại nước ta hiện nay. Vậy thì Bộ tài chính phải làm gì để khắc phục, để
giảm thiểu những tiêu cực do các mặt yếu kém đó gây ra, như vụ PMU 18?
== Rút kinh nghiệm từ PMU18,các Bộ, Ngành có liên quan cần tích cực cải
cách hành chánh về quản lý tài chính công, học hỏi cách làm của các thành viên
WTO, để tránh xảy ra sự cố sử dụng tiền NSNN và vốn ODA rất bừa bãi, thiếu
đạo đức như vụ PMU 18.
II.Vụ Vinashin:
1. Khái quát chung về vụ việc
Tập đoàn Kinh tế Vinasin (tên giao dịch tiếng Anh: Vinashin Business
Group, viết tắt là VINASHIN) là một tập đoàn kinh doanh của Việt Nam
chuyên về hoạt động đóng tàu do Nhà nước Việt Nam nắm quyền sở hữu chi
Trang 20


phối. Tập đoàn được thành lập năm 2006 trên cơ sở tổ chức và sắp xếp lại Tổng
công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam là một tổng công ty 91 được thành lập
từ năm 1996.
Tổng Công ty Công nghiệp tàu thuỷ Việt nam là một trong 17 Tổng công
ty lớn nhất Việt Nam.
Lịch sử hình thành: Manh nha thành lập tổng công ty đã có từ lâu trên cơ
sở chỉ đạo của trung ương về tổ chức lại ngành công nghiệp tàu thuỷ Việt nam Một ngành đã có truyền thống rất lâu đời ở Việt nam. Tiền thân của tập đoàn là
Tổng Công ty 91 được thành lập từ năm 1996.
Tổng Công ty 91 được thành lập vào ngày 31 tháng 1 năm 1996. Căn cứ
vào Quyết định số 69/TTg ngày 31 tháng 1 năm 1996 của Thủ tướng Chính phủ
về việc thành lập Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam.
Ngày 15 tháng 5 năm 2006, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số

103/2006/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án thí điểm hình thành Tập đoàn kinh
tế, đa sở hữu, trong đó sở hữu Nhà nước chi phối, trên cơ sở sắp xếp tổ chức lại
Tổng Công ty Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin). Và ngày 15 tháng 5
năm 2006, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Quyết định số 104/2006/QĐ-TTg
về việc thành lập Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam. Theo
Quyết định này, Công ty mẹ - Tập đoàn Công nghiệp tàu thuỷ Việt Nam được
thành lập trên cơ sở tổ chức lại cơ quan quản lý, điều hành và các đơn vị thành
viên hạch toán phụ thuộc của Tổng Công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam. [3]
Sự kiện này đánh dấu chính thức tập đoàn Vinashin ra đời.
Như vậy tập đoàn Vinashin ra đời căn cứ vào các văn bản pháp luật của
nhà nước trên cơ sở chỉ đạo của trung ương về việc tổ chức lại ngành công
nghiệp tàu thuỷ của Việt Nam để đáp ứng yêu cầu hội nhập hiện nay.
Cơ cấu tổ chức : Tập đoàn được tổ chức theo mô hình cơ cấu công ty mẹ con; công ty mẹ hoạt động theo dạng công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên do chính phủ làm chủ sở hữu 100% vốn điều lệ.

Trang 21


Công ty mẹ: Tên đầu đủ là: Tập đoàn Công nghiệp tàu thủy Việt Nam. Đây
một doanh nghiệp nhà nước có chức năng đầu tư bằng vốn của Nhà nước. Công
ty mẹ có hệ thống tổ chức bài bản, chặt chẽ bao gồm: Văn phòng, các Ban,
Trung tâm chuyên môn, nghiệp vụ. Văn phòng đại diện của Công ty mẹ ở trong
nước và nước ngoài. Các chi nhánh trực thuộc Công ty mẹ như: Công ty Xuất
Nhập khẩu Vinashin; Trung tâm hợp tác đào tạo lao động với nước ngoài;
Trung tâm Tư vấn đầu tư và Kiểm định xây dựng Vinashin. Đơn vị sự nghiệp
có thu gồm: Trường Cao đẳng nghề Vinashin;Trường Trung cấp nghề Công
nghiệp tàu thủy III; Trường Trung cấp nghề Công nghiệp tàu thủy VI; Tạp chí
Công nghiệp tàu thủy
Các công ty con: Các công ty con thuộc công ty mẹ: Công ty cổ phần
Thương mại và Dịch vụ văn phòng Vinashin (Công ty mẹ nắm giữ 51% vốn

điều lệ); Các công ty con có vốn điều lệ do công ty mẹ cung cấp 100% gồm 14
công ty.
Ngoài ra tập đoàn còn có 22 Công ty cổ phần; 13 đơn vị hạch toán phụ
thuộc; 11 Công ty liên doanh; 7 Đơn vị sự nghiệp có thu; 7 Đơn vị phụ thuộc;
30 Công ty cổ phần do tập đoàn giữ cổ phần chi phố.
Trong thời gian gần đây, tập đoàn đã có chiến lược phát triển và dự kiến
thực hiện việc xắp xếp, tổ chức lại về mặt nhân sự và cơ cấu tổ chức để nâng
cao hiệu quả họat động, gia tăng khả năng cạnh tranh.
Hoạt động kinh doanh: Hoạt động kinh doanh chính yếu của tập đoàn là
kinh doanh trong nghề đóng tàu. Tập đoàn VINASHIN không những bao trùm
gần như toàn bộ các đơn vị đóng tàu trong nước mà còn hoạt động trên các lĩnh
vực khác như: Vận tải, chế tạo máy móc, thiết bị hàng hải... Đến năm 2010,
VINASHIN đã đặt cơ quan đại diện ở Đức, Hà Lan, Ba Lan, Úc, Iraq và Hoa
Kỳ.
Tổng nợ thực của Vinashin là bao nhiêu?
Con số nợ của Vinashin là hơn 80.000 tỷ đồng. Tổng nguồn vốn của công
ty mẹ và các công ty con tính đến 31-12-2009 là 95.148 tỷ 182 triệu đồng.
(Nguồn: báo Đại Đoàn kết ngày 06/7/2010 ).

Trang 22


Ngày 14 tháng 7 năm 2010, thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã ra
quyết định đình chỉ chức vụ Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Công nghiệp
Tàu thủy Việt Nam với ông Phạm Thanh Bình, phân công ông Nguyễn Hồng
Trường, Thứ trưởng Bộ Giao thông Vận tải kiêm nhiệm chức vụ.
Khoảng 19h tối 4/8, Cơ quan An ninh Điều tra, Bộ Công an đã tống đạt
quyết định khởi tố bị can, lệnh khám xét và bắt tạm giam thời hạn 4 tháng đối
với ông Phạm Thanh Bình, nguyên Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Công
nghiệp Tàu thủy Việt Nam (Vinashin). Ông Bình bị bắt để điều tra về hành vi

"Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế, gây hậu quả
nghiêm trọng" theo Điều 165
Bộ Luật Hình sự. (Nguồn: />Do vậy, , Chính phủ Việt Nam đã cho tái cơ cấu Vinashin, một số dự án sẽ
chuyển về Tập đoàn Dầu khí (PVN) và Tổng công ty Hàng hải Việt Nam
(Vinalines).
2. Nguyên nhân
Trình độ cán bộ lãnh đạo, quản lý của Công ty mẹ và các đơn vị thành
viên của Vinashin chưa đáp ứng được yêu cầu quản trị một tập đoàn kinh tế
lớn, đặc biệt là người đứng đầu còn hạn chế về năng lực, có biểu hiện thiếu
trách nhiệm, tùy tiện, cá nhân, báo cáo không trung thực, cố ý làm trái, vi phạm
pháp luật trong việc chấp hành các quy định của Nhà nước, quyết định của Thủ
tướng khi chỉ đạo các hoạt động đầu tư, dự án, vốn cho sản xuất kinh doanh, sử
dụng vốn và bố trí cán bộ. Ðồng chí Phạm Thanh Bình (Bí thư Ðảng ủy, Chủ
tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn Vinashin) còn bổ nhiệm con trai và em ruột
làm đại diện phần vốn Nhà nước, đảm nhiệm nhiều chức vụ quan trọng trái quy
định của Ðảng và Nhà nước.
Bộ máy quản lý vốn Nhà nước tại nhiều đơn vị thuộc tập đoàn thiếu năng
lực,các khoản nợ lớn, mất khả năng thanh toán, đến nay, nợ quá hạn và đến hạn
không có khả năng thanh toán lên tới hàng chục nghìn tỷ đồng, hơn 5.000 lao
động không có việc làm; các khoản nợ lương và bảo hiểm xã hội lên đến 234 tỷ
đồng.

Trang 23


Một số cơ quan tham mưu liên quan thuộc Chính phủ, một số địa phương
và một số cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát ở Trung ương có thiếu sót,
khuyết điểm trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước và chức năng đại
diện chủ sở hữu nhà nước đối với Tập đoàn; chưa sát sao giám sát, kiểm tra
chặt chẽ và đánh giá đúng, kịp thời về công tác tổ chức, cán bộ và tình hình

hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện định hướng chiến lược phát triển của
Tập đoàn theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3 (khoá IX) và Kết luận số 45KL/TW, ngày 10/4/2009 của Bộ Chính trị về việc thí điểm mô hình tập đoàn
kinh tế; đến nay vẫn chưa phê duyệt được Điều lệ tổ chức, hoạt động và Quy
chế quản lý tài chính của Công ty mẹ - Tập đoàn Vinashin.
Vinashin đã hào phóng mở rộng sản xuất ở hầu khắp các lĩnh vực liên
quan và phải nói rằng nhiều địa phương, doanh nghiệp đã nhiệt tình mời gọi
Vinashin hợp tác đầu tư, nhiều doanh nghiệp đang mấp mé bờ vực phá sản
được Vinashin "bơm" vốn lại trở nên "sống khỏe". Cung cách đầu tư của
Vinashin thời điểm đó giống như một anh nhà nghèo bất chợt trúng vé xổ số
độc đắc, tiêu tiền vung tàn tán không cần nghĩ tới ngày mai. Năm vừa qua,
Vinashin buộc phải đình, hoãn 49 dự án không thật sự cần thiết, với nguồn vốn
khoảng 6.500 tỷ đồng nhằm mục tiêu kiềm chế lạm phát theo chỉ đạo của Thủ
tướng. Tập đoàn đã chậm xây dựng Điều lệ hoạt động và các quy định quản lý
tài chính khác, như: quy chế quản lý tài chính, quy chế quản lý đầu tư xây
dựng, các định mức kinh tế kỹ thuật…
Ðóng tàu là một ngành công nghiệp tổng hợp, một con tàu với hàng nghìn
thiết bị, linh kiện tinh vi, đòi hỏi kỹ thuật cao, không chỉ đơn thuần muốn là
làm được. Ðiều nguy hiểm nhất của Vinashin đã được các chuyên gia nhiều lần
cảnh báo, đó chính là tổ chức sản xuất khép kín. PGS, TS Phan Ðăng Tuất,
Viện trưởng Viện Chiến lược chính sách công nghiệp (Bộ Công thương) nhiều
lần phải kêu lên xót xa: Thời buổi mở cửa nền kinh tế, từng chi tiết, linh kiện
được tổ chức theo chuỗi giá trị toàn cầu. Vinashin không thể tự mình "làm tất
ăn cả" từ que hàn, sơn, nội thất đến tôn thép, máy thủy,... mà phải xác định
ngành nào là ngành sản xuất chính yếu để phát triển, nếu cái gì cũng tự làm thì
hiệu năng sẽ rất thấp. Trên thực tế, hiện nay tỷ lệ nội địa hóa của công nghiệp
tàu thủy chỉ khoảng 18 - 20%. Xét cho cùng, việc phát triển công nghiệp hỗ trợ
ngành đóng tàu là một thách thức rất lớn, vượt quá khả năng, tầm tay của
Trang 24



Vinashin. Sau 15 năm, ngành đóng tàu trong nước có khả năng đóng được
những gam tàu lớn, phức tạp, nhưng gần như chỉ mang tính gia công, giá trị gia
tăng trên mỗi sản phẩm rất thấp. Có người đã ví von ngành công nghiệp đóng
tàu nước ta là "công nghiệp may tàu", chẳng khác gì da giày, dệt may, từ việc
thiết kế, phân cấp tàu, đến chế tạo tôn thép, nghi khí hàng hải hầu như do các
hãng nước ngoài cung cấp, trong nước chỉ đơn thuần là nhân công và một số
vật tư, thiết bị giản đơn. Nói như vậy để thấy tham vọng, mục tiêu đưa tỷ lệ nội
địa hóa lên 70 - 75% giá trị con tàu của Vinashin chỉ là viễn cảnh xa vời. Theo
các nhà quản lý kinh tế, nếu như Vinashin tập trung nghiên cứu thị trường, ưu
tiên đầu tư sản xuất thiết bị, linh kiện nào đó của sản phẩm tàu thủy, được đăng
kiểm quốc tế công nhận, để trở thành nhà cung cấp thiết bị đó trên toàn thế giới,
đó mới thật sự là tham gia chuỗi giá trị cung ứng toàn cầu và cũng là cách nâng
cao tỷ lệ nội địa hóa một cách bền vững. Một chuyên gia kinh tế nước ngoài
từng nhận định và cảnh báo: Việc sử dụng nguồn vốn của Vinashin thời gian
vừa qua không hiệu quả. Ðể xây dựng một nhà máy đóng tàu 120 nghìn tấn
hiện đại ở Ấn Ðộ có chi phí 90 triệu USD, trong khi Vinashin phải cần tới 150
triệu USD. Kế hoạch đầu tư ba tỷ USD vào các nhà máy đóng tàu, thép và các
ngành công nghiệp cung ứng khác đã đặt ra quan ngại về khả năng kỹ thuật
cũng như trình độ quản lý của Vinashin với nguồn vốn rất lớn này bởi từ khi
thành lập, vốn điều lệ của Vinashin chỉ vỏn vẹn hơn 100 tỷ đồng.
Đầu tư mở rộng quá nhanh, quy mô lớn, một số dự án trái với quy hoạch
được phê duyệt, dàn trải trên nhiều lĩnh vực, địa bàn... Theo số liệu ban đầu,
ước tính dư nợ hiện đang rất lớn, lên tới khoảng 86.000 tỉ đồng; nợ đến hạn
phải trả khoảng trên 14.000 tỉ đồng; tỉ lệ nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu gấp
gần 11 lần, khó có khả năng tự cân đối dòng tiền…
Một khó khăn nữa là Vinashin phát triển trên cơ sở nguồn vốn vay.Nếu
như một số ngành công nghiệp khác được vay ưu đãi với lãi suất 3%/năm thì
Vinashin phải vay chủ yếu với lãi suất 7,5%, thậm chí 9%/năm.
Với tham vọng nhanh chóng xây dựng Vinashin đủ sức cạnh tranh trên thế
giới, hướng tới nội địa hóa sản phẩm.Để đạt được mục tiêu đó cần có các nhà

máy chế tạo, sản xuất. Khi đó có uy tín, việc phát hành trái phiếu thuận lợi và
Vinashin có kế hoạch táo bạo là xây dựng các dự án nhanh chóng, lấy đất đai
Trang 25


×