Tải bản đầy đủ (.pdf) (514 trang)

A Hàm - Mưa Pháp Chuyển Hóa Phiền Não - Tập 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.8 MB, 514 trang )


 

 

 

 
Tập 2

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 



 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

1

2


 

 
 

 
 

Tập 2
(Trọn bộ 2 tập)

Địa chỉ liên lạc:
Huong Sen Buddhist Temple
24615 Fir Avenue, 
Moreno Valley, CA 92553, USA
Tel: 951 601 9659
Web: www.chuahuongsen.com
Email:
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC - 2012

3

4


MỤC LỤC
Lời Đầu .............................................................................7
Chương 1: Những Lời Phật Dạy trong Tạp A-hàm .....13
Chương 2: Những Lời Phật Dạy trong Tăng Nhất A-hàm
..... ................................................................................287
Chương 3: Những Chủ đề Chung trong A-hàm ..........611
Chương 4: Kết Luận ....................................................969

5


6


Tập 2 (Chương 1.Những Lời Phật Dạy trong Tạp Ahàm; 2.Những Lời Phật Dạy trong Tăng Nhất A-hàm;
3.Những Chủ đề Chung trong A-hàm; 4. Kết Luận)

Mưa là một dạng ngưng tụ của hơi nước khi gặp điều
kiện lạnh. Mưa có thể được sử dụng như nước uống và là
nguồn cung cấp nước cho các loại cây trồng cho nên mưa
được xem là nguồn sống cho tất cả các loài sinh vật
trên hành tinh của chúng ta. Dù là mưa rào, mưa phùn hay
mưa ngâu, hương vị của mưa thật là dễ chịu, trong sáng
nên mưa được chúng ta chào đón với một sự vui mừng
thoải mái nhẹ nhàng. Cũng thế, pháp vị A-hàm thật nhẹ
nhàng, dễ hiểu, làm tươi sáng tâm tư của chúng ta. A-hàm
có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt
chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của
chúng ta, vì thế tác phẩm ‘A-hàm: Mưa pháp chuyển hóa
phiền não’ (2 tập) xin được ra mắt với nội dung giới thiệu
A-hàm như một suối nguồn Phật pháp không thể thiếu
trong việc tưới tẩm và nuôi dưỡng nguồn tâm linh của
chúng ta.
Tập 1 (Chương 1. Sự Hình Thành & Cấu Trúc của Ahàm & Nikaya; 2.Ý Nghĩa A-hàm; 3. Những Lời Phật Dạy
trong Trường A-hàm; 4. Những Lời Phật Dạy trong Trung
A-hàm)
7

Bốn bộ A hàm xuất phát từ tiếng Phạn, Hán và
Thượng Tọa Tuệ Sĩ cùng Tỳ Kheo Thích Đức Thắng đã
dịch qua Việt Ngữ. Bốn bộ Nikaya xuất phát từ ngôn ngữ

Pali và Hịa Thượng Thích Minh Châu dịch qua Việt Ngữ.
Vì xuất phát từ ngơn ngữ (Phạn và Pali) khác nhau nên
văn phong chuyển dịch sang Việt Văn có ngắn dài khác
nhau, nhưng nhìn chung nội dung ý tưởng đều giống nhau.
Nên nếu chúng ta hiểu bốn bộ A-hàm thì chúng ta cũng sẽ
hiểu được bốn bộ Nikaya. Đó là lý do trong chương 1, tác
giả có sự so sánh về cấu trúc cả hai bộ A-hàm và Nikaya.
Bốn bộ A-hàm gồm có 2086 bài pháp thoại, nên
chương 3 & 4 của tập 1 và chương 1 và 2 của tập 2 là phần
tóm gọn các bài pháp thoại A-hàm này. Vì tựa đề của tác
phẩm là ‘Mưa pháp’ nên tác giả chỉ chú trọng và sắp xếp
các đoạn văn kinh tóm gọn khơng theo số thứ tự tuần tự
của bốn bộ A-hàm mà theo thứ tự của những đức hạnh,
tánh cách, ý tưởng của từng bộ kinh mà Đức Phật đã tặng
cho chúng ta. Những chủ đề đức hạnh này có khả năng
giúp chúng ta có cái nhìn hướng thượng hơn về cuộc sống,
nhân cách, tánh tình, tập quán và sự tu tập giải thốt. Vì
cách đây 2600 năm, thời của Đức Phật chưa có nghệ thuật
in ấn nên mỗi khi thuyết giảng Đức Phật từ bi, chịu khó
trùng tuyên lại nhiều lần cho các thính chúng dễ nhớ, cịn
bây giờ chúng ta may mắn có nghệ thuật in ấn nên có
8


những đoạn văn, tác giả trích y như chánh văn dịch, nhưng
cũng có những đoạn tác giả lược bỏ những phần phụ và
mẫu văn trùng lập do thời xưa truyền khẩu để đoạn văn
ngắn gọn hơn nhưng vẫn nói lên ý chính của Đức Phật đã
giảng. Tiêu đề của những đoản văn này là do tác giả đặt
dựa theo nội dung để giúp đọc giả dễ theo dõi và nắm ý

chính của những đoạn mà chúng ta sắp đọc. Mỗi đoạn đều
có ghi xuất xứ, sẽ giúp quý độc giả dễ đối chiếu với chánh
văn kinh. Xuất xứ khơng có ghi số trang vì tác giả dựa văn
kinh A-hàm trên wedsite của />kinhdien/aham.
Như vậy, đầu tiên kinh Phật khơng có bản chữ viết mà
chỉ dựa vào truyền khẩu trùng tụng. Sau khi, Đức Phật diệt
độ mấy trăm năm, nhờ bốn kỳ kiết tập mà kinh tạng được
kết tập lại như những sợi chỉ ngũ sắc kết xâu những bài
pháp thoại rải rác của Đức Phật lại thành những chuỗi
ngọc trân bảo quý giá để trang nghiêm đạo tâm của chúng
ta. Theo thời gian các tổ mới dùng ngôn ngữ Ấn độ cổ đại
Pali, Phạn ngữ để viết Tam tạng kinh điển thành bản văn
được khắc trên bản đá, bản đồng, giấy loát, vv... Rồi khi
Phật giáo hưng thịnh, những lời dạy của Đức Phật vượt
khỏi biên giới của Ấn độ để đến khắp năm châu bốn biển
trên thế giới. Tam tạng kinh điển xuất hiện đến đâu thì tùy
theo ngơn ngữ của đất nước đó mà được chuyển dịch ra.
Như tại Việt Nam, các kinh được dịch, xuất xứ từ ngơn
ngữ Pali thì gọi là Kinh tạng Nikaya (Nam truyền) và kinh
được dịch từ tiếng Hán (gốc từ Phạn ngữ) thì gọi là Kinh

9

A Hàm (Bắc truyền). Do đó, có thể nói kinh điển Phật giáo
là văn học phiên dịch tức chúng ta không học thẳng ngôn
ngữ của Đức Phật mà được chuyển ngữ do vì đất nước và
ngơn ngữ giữa chúng ta và Đức Phật vốn khác nhau. Tuy
nhiên, nội dung giáo nghĩa của Đức Phật dạy thì bất cứ
dân tộc nào, ngôn ngữ nào hay tại đất nước nào cũng có
thể ứng dụng để giải thốt vì tất cả lồi người đều có

chung một bịnh tâm là tham sân si và đều bị luân chuyển
trong lửa sanh tử luân hồi thiêu đốt. Nên xâu chuỗi A-hàm
quý giá của Đức Phật có khả năng phục vụ như một
phương thuốc hữu hiệu vô giá để trị bịnh tâm và bịnh sanh
tử của tất cả chúng ta nên ở đâu đều cũng có thể uống và
đều được hữu hiệu cả.
Chương 3 & 4 (tập 1) và chương 1 và 2 (tập 2) đã cho
thấy có vơ sổ chủ đề ẩn hiện trong 2086 bài pháp thoại
như Kiết sử, Nghiệp báo, Luân Hồi, Tinh Tấn, Sáu cõi, Tứ
đế, Sanh tử, Niết Bàn, Duyên Khởi, 37 phẩm Trợ
Đạo,vv… tuy nhiên tác giả xin mạn phép bàn rộng thêm
về các chủ đề chung căn bản mà A-hàm thường đề cập, đó
là lý do có sự xuất hiện của chương 3 (tập 2) để giúp cho
chúng ta hiểu được chân ý nghĩa của Đức Phật dạy. Nhìn
chung, tác phẩm ‘A-hàm: Mưa pháp chuyển hóa phiền
não’ (2 tập) đóng vai trị như là một hội a-hàm, một tòa lâu
đài A-hàm, một cơn mưa A-hàm với 2086 giọt mưa ngâu,
2086 bài pháp thoại giác tỉnh trong sáng.
Mưa từng cơn rớt xuống
Tưới mát lòng con trẻ
10


Rửa sạch trần sáu cõi
Vươn sức sống ngày mai.

kính xin các bậc cao minh chỉ dạy cho những thiếu sót để lần
tái bản sau tác phẩm được hoàn chỉnh hơn.

Sau cơn mưa cảnh trí tưng bừng, hoa lá xanh tươi vui

reo vươn cao lên cùng bát ngát trời xanh. Cũng thế, âm
dương đồng gội ân đức tưới tẩm đượm nhuần của A-hàm
mà được tâm hoa tươi nở, tỏa hương công đức, bước lên
thánh vị. Giữa cảnh đời bơ vơ lạc lõng, biết bao ưu tư
phiền muộn, nhiều nẽo thăng trầm lên xuống, A-hàm như
tiếng chuông thức tỉnh vang vọng ra giữa các nẻo đường
đầy gió bụi mê. Khơng khí sáu cõi nặng nề với những
phiền não lo âu, trời nóng hừng hực với lửa dục tham sân
si thiêu đốt thì chức năng A-hàm như vị cứu tinh tỏa ra
nước mát thanh lương dịu dàng phủi đi lớp bụi ô nhiễm để
làm trong sáng thân tâm chúng ta, đem lại niềm tin và hy
vọng cho chúng ta trong đêm tối mênh mơng. Sau cơn
mưa trời lại sáng! Những thánh thai trí tuệ phá tan mê lầm
được khai nở và vươn cao lên giữa trần gian.

Nguyện cầu mưa pháp A-hàm sẽ thấm nhuần khắp
mn phương, thâu nhiếp vạn loại hữu tình đồng lên thánh
vị, đồng thành chánh giác.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát

Mưa Ngâu Moreno Valley,
Chùa Hương Sen, ngày 14/03/2012
Thích Nữ Giới Hương

Chúng con tha thiết năm vóc sát đất, đầu thành đãnh lễ tri
ân Tôn sư Hải Triều Âm, người đã thương tưởng và truyền trao
cho chúng con biết chân ý nghĩa của đỉnh cao lầu A-hàm. Xin
tạc dạ tri ân quý Thượng Tọa Tuệ Sĩ, Thượng Tọa Đức Thắng các dịch giả A-hàm. Xin tri ân website Quảng Đức và
Buddhismtoday cùng các thiện hữu tri thức, đàn na tín thí hữu
danh, ẩn danh đã giúp cơng sức và tịnh tài để tác phẩm này

được ấn bản. Mưa pháp A-hàm vô cùng vi diệu mà sức giác
tỉnh và khả năng kiến thức của chúng con quá nhỏ bé, sẽ khơng
thể tránh được các thiếu sót khi mạo muội ra mắt tác phẩm này,
11

12


3. AI BỐ THÍ NHIỀU NHẤT

Vua A-dục, đối với Pháp của Như Lai đạt được niềm
tin kính sâu xa. Một hôm, vua hỏi các Tỳ-kheo: Đối trong
pháp của Như Lai, ai là người thực hành bố thí nhất?
Các Tỳ-kheo trả lời vua rằng: Trưởng giả Cấp Cô Độc,
là người thực hành đại bố thí nhất.
 

Vua lại hỏi: Ơng bố thí bao nhiêu vật báu?
Tỳ-kheo đáp: Có đến ức ngàn vàng.

1.

(Tạp A-hàm, Quyển 25, Kinh A-Dục-vương Thí bán
A-ma-lặc Quả Nhân Duyên Kinh, số 641)

A LA HÁN

Tham dục, sân nhuế, ngu si đã trừ sạch khơng cịn sót,
thì gọi là A-la-hán.
Ngoại đạo Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: Có con

đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, để
chứng đắc A-la-hán khơng?
Xá-lợi-phất đáp: Có. Đó là tám Thánh đạo, từ chánh
kiến cho đến chánh định.
(Tạp A-hàm, Quyển 18, Kinh Diêm-Phù-Xa, số 490)

4. ÁI HỶ LÀ SẮC

Sự tập khởi của ái hỷ là sự tập khởi của sắc; sự diệt tận
của ái hỷ là sự diệt tận của sắc.
Sự tập khởi của xúc là sự tập khởi của thọ, tưởng,
hành; sự diệt tận của xúc là sự diệt tận của thọ, tưởng,
hành.
Sự tập khởi của danh sắc là sự tập khởi của thức; sự
diệt tận của danh sắc là sự diệt tận của thức.
(Tạp A-hàm, Quyển 3, Kinh Sanh Diệt, số 59)

2. ÁC KHẨU

Xa lìa lời thơ lỗ
Lời dịu, khơng hại người
Thường nói lời hay tốt
Là con đường sanh Thiên.

5. ÁI KẾT

Kết có chín, đó là ái kết, nhuế kết, mạn kết, vô minh
kết, kiến kết, tha thủ kết, nghi kết, tật kết và xan kết.
Ngoại đạo Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: Có con


(Tạp A-hàm, Quyển 49, Kinh Giới Gì, số 1299)
13

14


đường nào, có sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, thì
có thể đoạn trừ những kết này khơng?
Xá-lợi-phất đáp: Có. Đó là tám Thánh đạo, từ chánh
kiến cho đến chánh định.
(Tạp A-hàm, Quyển 18, Kinh Diêm-Phù-Xa, số 490)
6. ÁI KẾT KHƠNG DỨT

Này các Tỳ-kheo, có lúc, sau một thời gian lâu dài, núi
chúa Tu-di tất phải sụp đổ. Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, vì
vơ minh che khuất, ái kết buộc ràng, nên chúng sanh sống
chết luân hồi. Ái kết không dứt, không chấm dứt được khổ.
(Tạp A-hàm, Quyển 10, Kinh Vơ Tri, số 266)
7. ÁI VÍ NHƯ UNG NHỌT

Nếu các Sa-môn, Bà-la-môn nào, đối với sắc được thế
gian quan niệm là đẹp đẽ, mà khởi tưởng là thường, tưởng
là hằng, tưởng an ổn, tưởng không bệnh; tưởng là ngã, là
ngã sở, thì ở nơi sắc này ái càng tăng trưởng. Khi ái đã
tăng trưởng thì ức-ba-đề tăng trưởng; ức-ba-đề tăng trưởng
thì khổ tăng trưởng. Nếu khổ tăng trưởng thì chắc chắn sẽ
khơng giải thốt khỏi sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ,
não. Ta nói người này đối với khổ khơng giải thốt.
Ví như ao nước trong mát ở bên đường, đầy đủ hương
vị, có người lén lấy chất độc bỏ vào ao. Tháng nắng mùa

xuân, người đi đường bị gió nóng làm bức khát, tranh nhau
muốn đến uống nước. Có người nói rằng: ‘Này các anh,
đây là ao nước trong mát, đầy đủ hương vị sắc màu, nhưng
15

trong ấy có chất độc, các anh chớ uống; nếu uống vào các
anh sẽ chết, hoặc sẽ bị khổ như sắp chết.’ Những người
khát nước này không tin lời, cứ uống; tuy được vị ngon,
nhưng trong chốc lát lại bị chết, hoặc bị khổ đến gần chết.
Cũng vậy, các Sa-môn, Bà-la-môn nào, đối với sắc được
thế gian quan niệm là đẹp đẽ, mà khởi tưởng là thường,
tưởng là hằng, tưởng an ổn, tưởng không bệnh; tưởng là
ngã, là ngã sở… sẽ khơng giải thốt khỏi sanh, già, bệnh,
chết, ưu, bi, khổ, não.
Nếu các Sa-môn, Bà-la-môn nào đối với sắc đẹp đẽ
được thế gian quan niệm là đẹp đẽ, mà quán sát như bệnh,
như ung nhọt, như gai nhọn, như giết hại, là vơ thường,
khổ, khơng, vơ ngã, thì đối với ái này chắc chắn được dứt
lìa. Vì ái lìa nên ức-ba-đề lìa, ức-ba-đề lìa nên khổ lìa, khổ
đã lìa nên sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não lìa.
Ví như bên đường có ao nước trong mát, đầy đủ hương
vị, có kẻ lén dùng chất độc bỏ vào trong nước. Tháng nắng
mùa xuân, người đi đường bị gió nóng làm bức khát, tranh
nhau muốn đến uống nước. Có người nói rằng: ‘Này các
anh, đây là ao nước trong mát, đầy đủ hương vị sắc màu,
nhưng trong ấy có chất độc, các anh chớ uống; nếu uống
vào các anh sẽ chết, hoặc sẽ bị khổ như sắp chết.’ Những
người kia nghĩ thầm: ‘Nước này có chất độc, nếu ta uống
vào thì sẽ chết, hoặc bị khổ đến gần chết. Thôi ta cố chịu
khát, ăn đỡ cơm khô, không dám uống nước.’

Cũng như vậy, Sa-môn, Bà-la-môn nào đối với sắc
được thế gian quan niệm là đẹp đẽ, mà quán sát như bệnh,
16


như ung nhọt, như gai nhọn, như giết hại, là vơ thường,
khổ, khơng, vơ ngã, cho đến… sẽ giải thốt khỏi sanh, già,
bệnh, chết, ưu, bi, khổ, não.

10. AN TRỤ TỊCH DIỆT

Diệt chứ không tăng, tịch diệt mà an trụ.
Lùi chứ không tiến, im lặng lui mà an trụ.

(Tạp A-hàm, Quyển 12, Kinh Xúc, số 29)

Diệt chứ không khởi, tịch diệt mà an trụ.

8. A-LA-HÁN TỲ KHEO

Xả chứ không thủ, khơng sanh ra sự trói buộc.

Nếu Tỳ-kheo nào các lậu đã dứt sạch, việc làm đã
xong, đã trút bỏ gánh nặng, đã lìa các kết sử hữu, bằng
chánh trí tâm khéo giải thốt; vị ấy cũng tu bốn Niệm xứ.
Vì sao? Vì để đắc những gì chưa đắc, chứng những gì
chưa chứng, hiện tại sống an lạc. Tại sao như thế? Vì tơi
cũng đã lìa các hữu lậu, đã đắc quả A-la-hán, việc làm đã
xong, tâm khéo giải thoát, cũng tu bốn Niệm xứ, để đắc
những gì chưa đắc, chứng những gì chưa chứng, đến chỗ

chưa đến,… cho đến hiện tại sống an lạc.

Khơng bị trói buộc, nên tự mình giác ngộ Niết-bàn:

(Tạp A-hàm, Quyển 20, Kinh A-La-hán Tỳ Kheo, số 543)
9. AN TRÚ KHÔNG QUÊN

Sau khi thấy sắc đáng được yêu thích và đắm trước
được nhận thức bởi mắt; Tỳ-kheo này thấy rồi, không vui,
không khen ngợi, không nhiễm, khơng trói đắm vào. Vì
khơng vui, khơng khen ngợi, khơng nhiễm, khơng bị trói
đắm vào, nên nỗ lực tinh tấn, thân tâm an chỉ, tịch tĩnh,
tâm tuyệt đối an trụ không quên, thường định nhất tâm,
pháp hỷ không lường, sớm được tam-muội Chánh thọ đệ
nhất, khơng bao giờ bị thối thất theo nơi mắt và sắc. Đối
với tai, mũi, lưỡi, thân, ý và pháp cũng lại như vậy.

‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập, những việc gì cần
làm đã làm xong, tự biết khơng cịn tái sanh đời sau nữa.’
(Tạp A-hàm, Quyển 2, Kinh Tam Thế Ấm Thế Thực, số 46)
11. ĂN UỐNG CHỪNG MỰC

Tỳ-kheo Đê-xá này là kẻ ngu si, khơng gìn giữ các
căn, ăn uống khơng có chừng mực; đầu đêm, cuối đêm,
tâm khơng tỉnh thức, giải đãi biếng nhác, không nỗ lực
tinh tấn, không khéo quán sát tư duy pháp thiện.
Tỳ-kheo này mà đối với phân biệt pháp, tâm thích tu
phạm hạnh, xa lìa mọi sự ngủ nghỉ và ở trong chánh pháp
mà xa lìa mọi sự nghi hoặc, thì việc này khơng thể xảy ra.
Nếu Tỳ-kheo giữ gìn các căn, ăn uống chừng mực; đầu

đêm, cuối đêm, tỉnh thức tinh tấn, quán sát pháp lành; với
Tỳ-kheo ấy, sự yêu thích pháp phân biệt, ưa tu phạm hạnh,
xa lìa mọi sự ngủ nghỉ, tâm khơng nghi ngờ pháp, điều này
có thể xảy ra.
(Tạp A-hàm, Quyển 10, Kinh Đê Xá, số 271)
12. AN VUI LÀ NIẾT BÀN

(Tạp A-hàm, Quyển 8, Kinh Thế Gian Ngũ Dục, số 212)
17

Tỳ-kheo, sắc là vô thường. Nếu thiện nam tử biết sắc
18


là vô thường, khổ, biến dịch, dục, diệt tận, tịch tĩnh; từ xưa
tới nay tất cả sắc đều là pháp vô thường, khổ, biến dịch;
biết rồi, nếu sắc là nhân duyên sanh ra ưu, bi, khổ, não, thì
nên đoạn trừ chúng. Khi đã đoạn trừ rồi, thì khơng cịn gì
để chấp trước. Vì khơng chấp trước nên sống an vui. Khi
đã sống an vui rồi thì đó gọi là Niết-bàn. Đối với thọ
tưởng, hành và thức lại cũng như vậy.
(Tạp A-hàm, Quyển 2, Kinh Thập Lục Tỳ Kheo, số 36)
13. A-NA-HÀM VÀ A-LA-HÁN

Này Câu-hi-la, sau khi đã chứng được quả Tư-đà-hàm
rồi mà muốn chứng được quả A-na-hàm thì phải tinh cần
tư duy năm pháp thọ ấm này là bệnh, là ung nhọt, là gai
nhọn, là sát hại, là vô thường, khổ, khơng, phi ngã. Vì sao?
Vì đây là chỗ cần tư duy. Nếu Tỳ-kheo nào, đối với năm
thọ ấm này mà tinh cần tư duy thì cũng sẽ chứng được quả

A-na-hàm. Sau khi đã chứng được quả A-na-hàm, mà
muốn chứng được quả A-la-hán, cần phải tinh tấn tư duy
về năm pháp thọ ấm này là bệnh, là ung nhọt, là gai nhọn,
là sát hại, là vô thường, khổ, không, phi ngã. Vì sao? Vì
đây là chỗ cần tư duy. Nếu Tỳ-kheo nào, đối với năm thọ
ấm này mà tinh cần tư duy, thì cũng sẽ chứng được quả Ala-hán.
(Tạp A-hàm, Quyển 10, Kinh Vơ Gián Đẳng, số 259)
14. A-NA-LUẬT BỊNH

Có nhiều Tỳ-kheo thưa Tôn giả A-na-luật: Thưa Tôn
giả A-na-luật, bệnh của Tơn giả nặng hay nhẹ, có chịu
19

đựng được khơng? Bệnh giảm dần dần, không tăng thêm
chăng?
Tôn giả A-na-luật đáp: Bệnh tơi khơng n, thật là khó
chịu đựng, đau đớn tồn thân, càng lúc nặng thêm, khơng
bớt. Nhưng dù thân tôi bị đau đớn như thế này, nhưng tôi
vẫn chịu đựng được, với chánh niệm, chánh tri.
Các Tỳ-kheo hỏi Tôn giả A-na-luật: Tâm an trụ ở chỗ
nào mà có thể chịu đựng được cái khổ lớn như vậy với
chánh niệm, chánh tri?
Tôn giả A-na-luật bảo các Tỳ-kheo: Tâm trụ bốn Niệm
xứ nên mỗi khi tôi cử động, thân thể dù có bị đau đớn,
cũng có thể chịu đựng được với chánh niệm, chánh tri.
Những gì là bốn Niệm xứ? Đó là, niệm xứ quán thân trên
nội thân cho đến niệm xứ quán thọ, tâm, pháp. Đó gọi là
trụ bốn Niệm xứ, có thể chịu đựng tất cả mọi đau đớn nơi
thân, với chánh niệm, chánh tri.
(Tạp A-hàm, Quyển 20, Kinh Sở Hoạn, số 540)

15. ÁNH SÁNG BAN ĐẦU

Như khi mặt trời mọc có tiền tướng của nó, là minh
tướng, ánh sáng ban đầu. Cũng vậy, Tỳ-kheo tận cùng biên
tế khổ, cứu cánh biên tế khổ có tiền tướng là chánh kiến.
Chánh kiến này có thể phát khởi lên chánh chí, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh
niệm, chánh định. Vì nhờ phát khởi định chánh thọ, nên
Thánh đệ tử tâm chánh giải thoát tham dục, sân nhuế, ngu
si. Với tâm khéo giải thoát như vậy, Thánh đệ tử đạt được
20


Chánh tri kiến: ‘Ta, sự sanh đã hết, phạm hạnh đã lập,
những việc cần làm đã làm xong, tự biết không tái sanh
kiếp sau’.

bách, chẳng được pháp hơn người, chẳng trụ vào được an
lạc, tri kiến thắng diệu. Ta gọi đây là tự làm khổ thuộc
hạng thấp kém.

(Tạp A-hàm, Quyển 28, Kinh Nhật Xuất, số 748)

Tự làm khổ bằng cách sống khắc khổ. Ban đầu chẳng
phạm giới, chẳng ô nhiễm giới, nhưng tu đủ cách khổ hạnh
cũng chẳng nhờ vậy mà hiện tại xa lìa được nhiệt não bức
bách, chẳng được pháp hơn người, chẳng trụ vào được an
lạc, tri kiến thắng diệu. Ta gọi đây là tự làm khổ thuộc
hạng trung.


16. ÁNH SÁNG CỦA PHẬT LÀ HƠN HẾT

Có ba loại ánh sáng
Luôn soi sáng thế gian
Mặt trời chiếu ban ngày
Ban đêm ánh trăng rọi.

Tự làm khổ bằng cách sống khắc khổ. Ban đầu chẳng
phạm giới, chẳng ô nhiễm giới, nhưng tu đủ cách khổ hạnh
tinh tấn, mà hiện tại vẫn khơng thể xa lìa được nhiệt não
bức bách, được pháp hơn người, trụ vào an lạc, tri kiến
thắng diệu. Ta gọi đó là tự làm khổ thuộc hạng hơn người.

Ánh đèn chiếu ngày đêm
Chiếu soi mọi cảnh tượng
Trên dưới và các phương

(Tạp A-hàm, Quyển 32, Kinh Vương Đảnh, số 912)

Chúng sanh nhờ soi sáng.

18. BA HẠNG NGƯỜI THÍCH HƯỞNG DỤC LẠC

Này thơn trưởng, những gì là ba hạng người thích
hưởng thụ dục lạc, thuộc hàng phàm phu tục tử quê mùa
thấp kém?

Trong ánh sáng Trời, Người
Ánh sáng Phật hơn hết.
(Tạp A-hàm, Quyển 49, Kinh Di-kì-ca, số 1310)

17.

BA HẠNG NGƯỜI TỰ LÀM KHỔ CHÍNH MÌNH

Đó là khổ chẳng phải pháp, bất chính, chẳng có bất cứ
ý nghĩa lợi ích nào. Có một hạng người tự làm khổ bằng
cách sống khắc khổ. Ban đầu mới phạm giới, ô nhiễm giới,
họ tu đủ cách khổ hạnh, nỗ lực tinh tấn trụ ở một chỗ,
nhưng hiện tại họ chẳng thể xa lìa được nhiệt não bức
21

1. Là có kẻ hưởng thụ dục lạc bằng cách lạm chiếm
một cách bất hợp pháp, không mang lại an vui cho chính
mình, cũng chẳng phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp đầy đủ
cho anh em, vợ con, kẻ ở, bà con quyến thuộc, bạn bè quen
biết; cũng không tùy thời cúng dường cho Sa-môn, Bà-lamôn, để cầu quả báo an lạc nơi tốt đẹp, mong đời sau sanh
lên cõi trời. Đây là hạng thấp kém hưởng thụ dục lạc.
22


2. Có kẻ hưởng thụ dục lạc bằng cách dùng pháp lạm
chiếm tài vật một cách bất hợp pháp để tự cung cấp mọi sự
vui sướng cho chính mình, phụng dưỡng cho cha mẹ, cung
cấp đầy đủ cho anh em, vợ con, kẻ làm, bà con quyến
thuộc, bạn bè quen biết; nhưng không tùy thời cúng dường
cho Sa-môn, Bà-la-môn, để cầu quả báo an lạc nơi tốt đẹp,
mong đời sau sanh lên cõi trời. Đây là hạng trung bình thứ
hai hưởng thụ dục lạc.
3. Có kẻ hưởng thụ dục lạc bằng cách dùng pháp tìm
cầu tài vật chứ khơng bằng lạm chiếm để tự cung cấp mọi

sự vui sướng cho chính mình, cung phụng cho cha mẹ,
cung cấp đầy đủ cho anh em, vợ con, kẻ ở, bà con quyến
thuộc, bạn bè quen biết, cũng tùy thời cúng dường cho Samôn, Bà-la-môn, để cầu quả báo an lạc nơi tốt đẹp, mong
đời sau sanh lên cõi trời. Đó gọi là hạng người thứ ba
hưởng thụ dục lạc. Đây là hạng hơn người thứ ba hưởng
thụ dục lạc.
(Tạp A-hàm, Quyển 32, Kinh Vương Đảnh, số 912)
18. BA HƯƠNG THƠM

Có ba loại mùi hương chỉ bay theo chiều gió, khơng
thể bay theo ngược gió. Đó là hương thơm rễ cây, hương
thơm của cây, hương thơm của hoa.
Này A-nan, cũng có mùi hương bay theo chiều gió,
bay theo ngược gió và cũng bay theo thuận gió ngược gió.
Này A-nan, hương bay theo chiều gió, bay theo ngược gió
và cũng bay theo thuận gió ngược gió, đó là:
23

Có thiện nam tử hay người thiện nữ nào sống ở thành
ấp, tụ lạc, thành tựu pháp chân thật, suốt đời không sát
sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ,
không uống rượu. Người thiện nam, người thiện nữ như
vậy đều được người lành trong tám phương, cùng phương
trên, phương dưới, thảy đều tán thán rằng: ‘Ở phương kia,
làng kia, có người thiện nam, người thiện nữ trì giới thanh
tịnh, thành tựu pháp chân thật, suốt đời không sát sanh...
cho đến không uống rượu.’ Này A-nan, đây gọi là thứ
hương hoa bay theo chiều gió, bay theo ngược chiều gió
và cũng bay theo thuận gió ngược gió.
(Tạp A-hàm, Quyển 38, Kinh A-Nan, số 1073)

20. BA KIẾN

Người thiện nam, người thiện nữ có lịng tin vui xuất
gia, tu tập vô tướng tam-muội; tu tập, tu tập nhiều, sẽ trụ
trong cửa cam lộ, cho đến cứu cánh cam lộ Niết-bàn. Ta
khơng nói cam lộ Niết-bàn này y cứ vào ba kiến. Những gì
là ba?
Có một hạng chủ trương như vầy, nói như vầy: ‘Mạng
tức là thân.’
Lại có hạng chủ trương như vầy: ‘Mạng khác thân
khác.’
Lại nói như vầy: ‘Sắc là ngã, không hai không khác,
tồn tại mãi mãi, không biến đổi.’
Đa văn Thánh đệ tử tư duy như vầy: ‘Thế gian có pháp
nào đáng để chấp thủ mà khơng có sai lầm tội lỗi?’ Khi tư
24


duy rồi, họ không thấy một pháp nào khả thủ mà khơng có
sai lầm tội lỗi cả. Nếu ta chấp thủ sắc, tức là có sai lầm tội
lỗi. Nếu chấp thủ thọ, tưởng, hành, thức thì có sai lầm tội
lỗi. Đã biết vậy rồi, thì đối với các pháp thế gian khơng có
gì để chấp thủ, vì khơng có gì để chấp thủ nên tự mình
giác ngộ Niết-bàn: ‘Ta, sự sanh đã dứt, phạm hạnh đã lập,
những gì cần làm đã làm xong, tự biết khơng cịn tái sanh
đời sau nữa.’
(Tạp A-hàm, Quyển 10, Kinh Đê Xá, số 271)
21. BA LẬU

Thế nào là biết như thật về lậu? Có ba thứ lậu: dục

lậu, hữu lậu, vơ minh lậu, đó gọi là lậu. Phải biết như thật
về sự hiện hữu của lậu là như vậy.
Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của lậu? Vô
minh tập khởi là lậu tập khởi. Biết như thật về sự tập khởi
của lậu là như vậy.
Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của lậu? Vô
minh diệt là lậu diệt. Biết như thật về sự diệt tận của lậu là
như vậy.
Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt
tận của lậu? Tám Thánh đạo. Biết như thật về con đường
đưa đến sự diệt tận của lậu là như vậy.
Đa văn Thánh đệ tử như vậy là biết như thật về lậu,
biết như thật về sự tập khởi của lậu, biết như thật về sự
diệt tận của lậu, biết như thật về con đường đưa đến sự
diệt tận của lậu; cho nên đa văn Thánh đệ tử ở trong pháp
25

luật này, có đầy đủ chánh kiến, thành tựu trực kiến; thành
tựu bất hoại tín đối với Phật, thâm nhập Chánh pháp, đạt
được Chánh pháp này, tỏ ngộ Chánh pháp này.
(Tạp A-hàm, Quyển 14, Kinh Câu-hi-la, số 344)
22. BA LOẠI ĐỰNG NƯỚC

1. Giống như loại đồ của người kia không bị thủng,
không bị hư, không bị thấm rỉ, các đệ tử Tỳ-kheo, Tỳkheo-ni của Ta lại cũng như vậy.
2. Giống như loại đồ thứ hai tuy không bị thủng,
không bị hư, nhưng lại bị thấm rỉ, các đệ tử Ưu-bà-tắc,
Ưu-bà-di của Ta lại cũng như vậy.
3. Giống như loại đồ thứ ba vừa bị thủng, bị hư, bị
thấm rỉ; các đệ tử dị học ngoại đạo của Ni-kiền lại cũng

như vậy.
Ta thường vì họ giảng nói Chánh pháp, ban đầu,
khoảng giữa, sau cùng đều thiện, nghĩa thiện, vị thiện,
hoàn toàn thanh tịnh thuần nhất, phạm hạnh thanh bạch,
khai thị rõ ràng, dù nhiều hay ít Ta cũng vì họ mà nói. Nếu
đối với một câu nói pháp của Ta mà họ biết được nghĩa
của nó, thì cũng được sống an ổn, an vui mãi mãi.
(Tạp A-hàm, Quyển 32, Kinh Đạo Sư Thị II, số 915)
23. BA PHÁP AN TÂM ĐỐI VỚI NGƯỜI BỆNH

Phật bảo Nan-đề: Nếu Ưu-bà-tắc trí tuệ, muốn đến chỗ
Ưu-bà-tắc và Ưu-bà-di trí tuệ khác đang bị tật bệnh khốn
khổ, thì đem ba pháp an tâm này mà truyền dạy cho họ;
26


nói rằng: ‘Nhân giả! Hãy thành tựu lịng tin thanh tịnh bất
hoại đối với Phật, đối với Pháp, Tăng.’
Sau khi đem ba pháp an tâm này truyền dạy xong, lại
nên hỏi rằng: ‘Nhân giả có quyến luyến cha mẹ
khơng?’Nếu người kia có quyến luyến cha mẹ, thì nên dạy
bng xả và nên nói rằng: ‘Nếu Nhân giả quyến luyến cha
mẹ mà được sống, thì đáng quyến luyến. Đã khơng do
quyến luyến mà được sống, thì quyến luyến làm gì?’Nếu
kia nói khơng có quyến luyến cha mẹ thì nên tùy hỷ
khuyến thiện và hỏi thêm rằng: ‘Đối với vợ con, nô bộc,
tiền của cùng mọi vật Nhân giả có quyến luyến khơng?’
Nếu nói quyến luyến thì nên khun bng xả, như pháp
xả sự quyến luyến cha mẹ. Nếu nói khơng quyến luyến, thì
tùy hỷ khuyến thiện và hỏi nữa: ‘Đối với ngũ dục thế gian

Nhân giả có luyến tiếc khơng?’ Nếu họ nói luyến tiếc, thì
nên giải thích là ngũ dục thế gian là chỗ xấu xa, bất tịnh,
bại hoại, hôi hám, không giống như ngũ dục thắng diệu cõi
trời. Hãy khuyên kia lìa bỏ ngũ dục thế gian và quyết
mong ngũ dục cõi trời. Nếu người kia nói tâm đã xa lìa
ngũ dục thế gian và trước đã nghĩ đến dục thắng diệu cõi
trời, thì tùy hỷ khuyến thiện và lại nói với họ rằng: ‘Ngũ
dục thắng diệu cõi trời, là pháp vô thường, khổ, không,
biến hoại. Chư Thiên cõi trời có thân tướng thù thắng hơn
ngũ dục cõi trời.’ Nếu kia nói đã bỏ nghĩ đến dục cõi trời
và chỉ nghĩ đến thân tướng hơn ngũ dục, thì cũng tùy hỷ
khuyến thiện và lại nói với rằng: ‘Dục của hữu thân cũng
lại là pháp vô thường, biến hoại, chỉ có sự an lạc của xuất
ly, là Niết-bàn với sự diệt tận của các hành. Nhân giả nên
27

lìa bỏ sự mê luyến nơi hữu thân, mà nên vui cái vui Niếtbàn vắng lặng, tối thượng, thù thắng.’
(Tạp A-hàm, Quyển 41, Kinh Tật Bệnh, số 1122)
24. BA PHÁP CHƯA ĐOẠN

Lại vì có ba pháp chưa đoạn nên khơng thể lìa được
khơng cung kính, nói năng ngang trái, quen theo bạn xấu.
Ba pháp đó là khơng tàm, khơng q, bng lung. Vì ba
pháp này khơng đoạn trừ nên khơng thể lìa được khơng
cung kính, nói năng ngang trái, quen bạn xấu. Vì sao? Vì
do khơng tàm, khơng q nên bng lung; vì bng lung
nên khơng cung kính; vì khơng cung kính nên quen theo
bạn xấu; vì quen theo bạn xấu nên khơng muốn thấy bậc
Thánh, khơng muốn nghe pháp, hay ưa tìm điều dở của
người; vì ưa tìm điều dở của người nên khơng tin, khó dạy,

nói năng ngang trái, lười biếng; vì lười biếng nên dao
động, khơng luật nghi, khơng học giới; vì khơng học giới
nên thất niệm, khơng chánh tri, loạn tâm; vì loạn tâm nên
khơng chánh tư duy, thân cận tà đạo, tâm biếng nhác; vì
tâm biếng nhác nên thân kiến, giới thủ, nghi; vì nghi nên
khơng lìa tham, nhuế, si; vì khơng lìa tham, nhuế, si nên
khơng thể lìa được già, bệnh, chết.
(Tạp A-hàm, Quyển 14, Kinh Tam Pháp, số 346)
25. BA PHÁP KHƠNG U THÍCH

Có ba pháp mà thế gian khơng u thích, khơng nhớ
nghĩ, khơng vừa ý. Những gì là ba? Đó là già, bệnh, chết.
Vì thế gian có ba pháp già, bệnh, chết, khơng đáng yêu
28


thích, khơng đáng nhớ nghĩ và khơng vừa ý này, cho nên
Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác mới xuất hiện ở
thế gian.
(Tạp A-hàm, Quyển 14, Kinh Tam Pháp, số 346)
26. BA THỜI VÔ THƯỜNG

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức quá khứ, vị lai là vô thường
huống chi là sắc, thọ, tưởng, hành, thức hiện tại. Thánh đệ
tử hãy quán sát như vầy: ‘Khơng hồi tưởng sắc q khứ,
khơng tìm cầu sắc vị lai, đối với sắc hiện tại thì nên nhàm
tởm, ly dục, hướng thẳng đến diệt tận.’ Thọ, tưởng, hành,
thức cũng như vậy.
(Tạp A-hàm, Quyển 1, Kinh Quá Khứ Vô Thường, số 8)
27. BA THỨ SỢ HÃI CỦA NGƯỜI CON MẤT MẸ


Này Tỳ-kheo, có ba thứ sợ hãi của con khơng mẹ mà
Ta tự mình giác ngộ thành đạo vơ thượng đã ký thuyết.
Những gì là ba? Này Tỳ-kheo, khi người con già, khơng
có người mẹ nào có thể nói: ‘Con, con chớ già, để mẹ sẽ
thay con!’ Hoặc khi người mẹ già, cũng khơng có người
con nào bảo: ‘Mẹ, mong mẹ chớ già! Con già thay mẹ
cho!’ Đó gọi là cái sợ hãi của con không mẹ thứ nhất mà
Ta tự mình giác ngộ thành đạo Vơ thượng đã ký thuyết.
Lại nữa, Tỳ-kheo, khi người con bị bệnh, người mẹ
khơng thể nói: ‘Con đừng bệnh! Mẹ sẽ thay con!’ Hoặc
khi mẹ bị bệnh, con cũng không thể bảo: ‘Mẹ đừng bệnh,
để con bệnh thay mẹ!’ Đó gọi là cái sợ hãi của con không
29

mẹ thứ hai mà Ta tự mình giác ngộ thành đạo Vơ thượng
đã ký thuyết.
Lại nữa, khi người con chết, người mẹ khơng thể nói:
‘Con, đừng chết! Nay mẹ sẽ thay con!’ Hoặc khi người mẹ
chết, người con cũng không thể bảo: ‘Mẹ, đừng chết! Con
sẽ thay mẹ!’ Đó gọi là cái sợ hãi của con khơng mẹ thứ ba
mà Ta tự mình giác ngộ thành đạo Vơ thượng đã ký
thuyết.
Các Tỳ-kheo bạch Phật: Có đạo lộ nào, có hành trì nào
để tu tập, tu tập nhiều, dẫn đến đoạn trừ được ba thứ sợ hãi
của con có mẹ ở trước và đoạn trừ được ba thứ sợ hãi của
con không mẹ ở sau không?
Phật bảo các Tỳ-kheo: Có đạo lộ, có hành trì dẫn đến
đoạn trừ được ba sự sợ hãi này. Những gì là đạo lộ?
Những gì là hành trì mà tu tập, tu tập nhiều, dẫn đến đoạn

trừ được ba thứ sợ hãi của con có mẹ ở trước và đoạn trừ
được ba thứ sợ hãi của con không mẹ ở sau? Đó là tám
Thánh đạo phần: Chánh kiến, chánh chí, chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng, chánh phương tiện, chánh niệm,
chánh định.
(Tạp A-hàm, Quyển 28, Kinh Úy, số 758)
28. BA BẬC TÔN SƯ

1. Có một hạng tơn sư thấy đời hiện tại chân thật là
ngã, rồi theo chỗ biết ấy mà thuyết, nhưng khơng thể biết
những việc sau khi chết. Đó là hạng thầy thứ nhất xuất
hiện ở thế gian.
30


2. Lại nữa, này Tiên-ni có một hạng tơn sư, thấy đời
hiện tại chân thật là ngã, sau khi chết cũng thấy là ngã, rồi
theo chỗ biết ấy mà thuyết.
3. Lại nữa, này Tiên-ni có một hạng tơn sư, khơng
thấy đời hiện tại chân thật là ngã, sau khi mạng chung
cũng lại không thấy chân thật là ngã.
Này Tiên-ni, hạng tôn sư thứ nhất thấy đời hiện tại
chân thật là ngã, rồi theo chỗ biết ấy mà thuyết, thì đó gọi
là đoạn kiến.
Hạng tôn sư thứ hai, thấy đời hiện tại và đời vị lai chân
thật là ngã, rồi theo chỗ biết ấy mà thuyết, thì đó gọi là
thường kiến.
Hạng tôn sư thứ ba, không thấy đời hiện tại chân thật
là ngã và sau khi chết cũng không thấy ngã, thì đó là Như
Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác nói, hiện tại cắt đứt ái,

ly dục, diệt tận, chứng Niết-bàn.
Đây là chỗ sâu xa khó thấy khó biết, cần phải quán
chiếu sâu xa, vi diệu mới thấu đáo được, chỉ có bậc thơng
tuệ mới hiểu rõ, cịn loại chúng sanh thường tình thì chưa
có khả năng biết được. Vì sao? Vì chúng sanh lâu đời có
những kiến giải dị biệt, nhẫn thọ dị biệt, sự mong cầu dị
biệt, những ước muốn dị biệt.
(Tạp A-hàm, Quyển 5, Kinh Tiên Ni, số 105)
29. BÀN TAY SẠCH

Nếu có Tỳ-kheo nào được vơ lượng tam-muội, tự thân
31

tác chứng, thành tựu và an trú, đối với sự diệt tận của hữu
thân, Niết-bàn, này khi hoại diệt mà tâm sanh ra tin vui,
không luyến tiếc hữu thân. Giống như người dùng bàn tay
khô ráo, sạch sẽ, vịn vào cành cây, thì tay sẽ khơng bị dính
theo cây. Vì sao? Vì bàn tay sạch.
Cũng vậy, nếu Tỳ-kheo nào được vô lượng tam-muội,
tự thân tác chứng, thành tựu và an trú, đối với sự diệt tận
của hữu thân, Niết-bàn này khi hoại diệt mà tâm sanh ra
tin vui, không luyến tiếc hữu thân; ngay trong đời này tùy
thuận giáo pháp, cho đến khi mạng chung khơng cịn sanh
lại cõi này nữa.
(Tạp A-hàm, Quyển 18, Kinh Nê Thủy, số 492)
30. BẤT HẠI

Tâm từ không tưởng hại
Không hại các chúng sanh
Tâm thường khơng ốn kết

Là con đường sanh Thiên.
(Tạp A-hàm, Quyển 49, Kinh Giới Gì, số 1299)
31. BẤT THIỆN NHƯ TRĂNG CUỐI THÁNG

Như trăng cuối tháng, ánh sáng mất, màu sắc cũng
mất, sở hệ cũng mất, ngày đêm càng lúc càng tiêu giảm
cho đến khơng cịn xuất hiện. Cũng vậy, có người đối với
Như Lai mà tín tâm tịch tĩnh, thọ trì tịnh giới, khéo học,
nghe nhiều, nhường bớt phần mình để bố thí, chánh kiến
chân thật; nhưng sau đó lại thối thất, tín tâm thanh tịnh
32


đối với Như Lai, đối với sự trì giới, bố thí, nghe nhiều,
chánh kiến chân thật ngay thẳng; đối với sự bố thí, trì giới,
đa văn, chánh kiến, tất cả đều bị đánh mất; ngày đêm càng
lúc càng tiêu giảm, cho đến trong khoảnh khắc tất cả đều
bị quên mất.
Lại nữa, này Bà-la-môn, nếu người thiện nam nào, mà
không thân quen gần gũi thiện tri thức, không thường xuyên
nghe pháp, không suy nghĩ chân chánh, thân làm các hành
vi ác, miệng nói lời ác, ý nghĩ về những điều ác, thì vì
những nhân duyên ác đã tạo ra này, nên khi thân hoại mạng
chung sẽ bị đọa vào trong đường ác, địa ngục. Như vậy, này
Bà-la-môn, người nam bất thiện được ví như trăng.

Sau khi nghe Phật thuyết pháp, bà hoan hỷ, tùy hỷ, làm
lễ ra về.
Sau đó người con thứ bảy của Ưu-bà-di Bà-tứ-tra này
đột nhiên lại qua đời. Nhưng bà Ưu-bà-di này khơng cịn

ưu bi, khổ, não, khóc lóc nữa. Lúc này, chồng của bà Ưubà-di Bà-tứ-tra làm kệ nói với bà rằng:
Những đứa con trước chết
Nhớ thương sanh ưu khổ
Ngày đêm không ăn uống
Cho đến phát cuồng điên
Nay chôn đứa thứ bảy
Sao không sanh ưu khổ?

(Tạp A-hàm, Quyển 4, Kinh Mặt trăng, số 94)

Ưu-bà-di Bà-tứ-tra liền nói kệ đáp lại cho chồng rằng:

32. BẢY ĐỨA CON BỊ CHẾT

Con cháu có cả ngàn
Nhân dun hịa hợp sanh
Đã lâu thành q khứ
Tơi và ơng cũng vậy.

Có thiếu phụ Bà-la-mơn tên là Bà-tứ-tra, có sáu người
con qua đời liên tiếp. Vì nhớ con nên phát cuồng, trần
truồng, xõa tóc, cứ theo đường mà chạy, đến trong vườn
Am-la, Di-hy-la. Bấy giờ, Thế Tôn đang thuyết pháp cho
vô lượng đại chúng đang vây quanh. Từ xa, thiếu phụ Bàla-môn Bà-tứ-tra trông thấy Thế Tôn. Vừa thấy, bỗng tỉnh
tâm lại, thẹn thùng xấu hổ nép mình ngồi xổm xuống.

Con cháu và dịng họ
Số này không hạn lượng
Sanh nơi này, nơi kia
Tàn sát, ăn thịt nhau.


Bấy giờ, Thế Tôn bảo Tôn giả A-nan lấy y đưa cho bà
khốc vào. Thế Tơn vì bà thuyết pháp, khai thị, chỉ giáo,
soi sáng, làm cho hoan hỷ. Như thường lệ, Đức Phật
thuyết pháp theo thứ lớp cho đến khi tín tâm thanh tịnh,
thọ tam tự quy.
33

Nếu biết cuộc sống ác
Sanh ưu khổ làm gì
34


Tơi đã biết xuất ly
Sự sống chết, cịn mất.

Do có sắc, sanh khởi sắc, hệ lụy, đắm đuối sắc, nơi sắc
thấy ngã, cho nên, ưu, bi, khổ, não chưa khởi thì khiến cho
khởi; ưu, bi, khổ, não đã khởi, thì khiến tăng trưởng rộng
thêm. Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.

Khơng cịn sanh ưu khổ
Do nhập Chánh pháp Phật.

(Tạp A-hàm, Quyển 7, Kinh Thất Thân, số 161)
34. BẢY THỌ

(Tạp A-hàm, Quyển 44, Kinh Bà-Tứ-Tra, số 1178)
33. BẢY THÂN


Do có cái gì, do khởi cái gì, do hệ lụy cái gì, do đắm
đuối cái gì, do thấy ngã nơi cái gì, khiến cho chúng sanh
thấy như vầy, nói như vầy: ‘Có bảy thân, chẳng phải tạo
tác, chẳng phải là được tạo tác; chẳng phải biến hóa, chẳng
phải là được biến hóa, là chắc thật, khơng dao động, khơng
giết.
Những gì là bảy? Đó là: thân đất, thân nước, thân lửa,
thân gió, khổ, lạc, mạng.
Bảy loại thân này chẳng phải tạo tác, chẳng phải là
được tạo tác; chẳng phải biến hóa, chẳng phải là được biến
hóa, là chắc thật, khơng dao động, không giết, không
chuyển, không biến, không bức bách nhau; hoặc phước,
hoặc ác, hoặc phước ác; hoặc khổ, hoặc vui, hoặc khổ vui;
hoặc người bị bêu đầu, hoặc người chém đầu, cũng không
bức bách thế gian; hoặc mạng, hoặc thân, trong khoảng
bảy thân, chịu đựng đao đâm qua lại cũng không hại
mạng; ở đây không giết, không người giết; khơng trói
buộc, khơng người trói buộc; khơng nhớ nghĩ, khơng
người nhớ nghĩ; không dạy dỗ, không người dạy dỗ?
35

Nếu người nào có khả năng thọ trì bảy thọ chỉ nhờ
nhân duyên này, người ấy sẽ được sanh lên cõi Thiên đế
Thích. Thiên đế Thích xưa kia lúc cịn làm người thường,
phụng dưỡng cha mẹ cùng các bậc tôn trưởng trong gia
tộc, với gương mặt hài hịa, lời nói mềm mỏng, khơng nói
dữ, khơng nói hai lưỡi, thường nói chân thật. Đối với thế
gian keo kiệt, người này tuy ở tại gia, nhưng khơng keo
lẫn; thực hành giải thốt thí, siêng bố thí, thường ưa hành
bố thí, mở hội bố thí cúng dường, bố thí bình đẳng tất cả.

(Tạp A-hàm, Quyển 40, Kinh số 1104)
35. BỊ SÂN GIẬN THÌ CHỚ LẤY SÂN GIẬN ĐÁP LẠI

Vào đời quá khứ, có một con quỷ Dạ-xoa xấu xí, ngồi
trên chỗ ngồi trống của Đế Thích. Khi chư Thiên Tam thập
tam thấy quỷ xấu xí này ngồi trên chỗ ngồi trống của Đế
Thích rồi, mọi người đều nổi sân. Lúc chư Thiên nổi sân
như vậy, thì cứ theo cái sân như vậy, như vậy, con quỷ kia
dung mạo dần dần trở nên xinh đẹp. Khi ấy chư Thiên
Tam thập tam đến chỗ Đế Thích, tâu Đế Thích rằng: Kiềuthi-ca, nên biết cho, có một con quỷ xấu xí ngồi trên chỗ
ngồi trống của Thiên vương. Khi chư Thiên chúng tôi thấy
36


con quỷ xấu xí ngồi trên chỗ ngồi trống của Thiên vương
thì nổi giận vơ cùng và tùy theo sự nổi giận của chư Thiên
chúng tôi, con quỷ kia theo đó càng trở nên xinh đẹp.
Thích Đề-hồn Nhân bảo chư Thiên Tam thập tam:
Chính sự sân nhuế kia có thể đối trị con quỷ.
Bấy giờ, Đế Thích tự đến chỗ con quỷ kia, sửa lại y
phục, bày vai hữu, chắp tay xưng tên ba lần rằng: Nhân
giả, tơi là Thích Đề-hồn Nhân.
Theo sự cung kính khiêm hạ như vậy của Thích Đềhồn Nhân, mà con quỷ kia cũng tùy thuộc vào như vậy,
như vậy, dần dần trở lại xấu xí, liền biến mất. Khi ấy,
Thích Đề-hồn Nhân tự an tọa rồi nói kệ:
Người chớ nên sân nhuế
Bị sân chớ đáp sân
Đối ác chớ sanh ác
Nên phá hoại kiêu mạn.


Chẳng phải người cầm dây.
(Tạp A-hàm, Quyển 40, Kinh Dạ Xoa, số 1107)
36. BỊ MA CHI PHỐI

Nếu có Sa-mơn, Bà-la-mơn nào tập cận với sắc, bị ma
chi phối, rơi vào tay ma, theo ước muốn của ma, bị ma trói
buộc, khơng thốt ra khỏi sợi dây trói của ma. Đối với thọ,
tưởng, hành, thức lại cũng như vậy. Nếu Sa-môn, Bà-lamôn nào khơng tập cận sắc, thì những Sa-mơn, Bà-la-mơn
ấy khơng bị ma chi phối, không rơi vào tay ma, không
chạy theo ước muốn của ma, sẽ khơng bị ma trói buộc,
thốt sợi dây trói của ma.
Đối với thọ, tưởng, hành, thức lại cũng như vậy.
(Tạp A-hàm, Quyển 6, Kinh Tiếp Cận, số 131)
37. BIÊN TẾ CỦA HỮU THÂN

Thế nào là biên tế của hữu thân? Là chỉ cho năm thọ
ấm, đó là: Sắc thọ ấm; thọ, tưởng, hành, thức thọ ấm.
(Tạp A-hàm, Quyển 3, Kinh Thật Giác, số 70)

Không sân cũng không hại
Gọi là chúng Hiền thánh
Tội ác khởi sân hận
Trụ vững như núi đá.

38. BIÊN TẾ CỦA KHỔ

Chúng sanh từ vô thỉ sanh tử luân chuyển mãi, mà
không biết biên tế tối sơ của khổ. Này các Tỳ-kheo, các
ông thấy các chúng sanh mà sanh lòng sợ hãi, dựng đứng
chân lông; nên nghĩ rằng: ‘Quá khứ chúng ta chắc chắn đã

từng sát sanh, đã từng làm tổn thương, đã từng làm hại, đã
từng làm ác tri thức, mãi mãi ở trong sanh tử luân hồi vô

Nên giữ cơn giận lại
Như điều xe ngựa sổng
Ta nói người khéo điều
37

38


thủy, không biết biên tế tối sơ của khổ.’

43. BIẾT NHƯ THẬT VỀ TƯỞNG

Thế nào là biết như thật về tưởng?

(Tạp A-hàm, Quyển 34, Kinh Khủng Bố, số 944)
39. BIÊN TẾ DIỆT TẬN HỮU THÂN

Thế nào là biên tế diệt tận của hữu thân?
Tức là ái này, ái về hữu đương lai đi đôi với tham hỷ,
đắm trước cái này hay cái kia, tất cả đều được đoạn trừ,
diệt tận khổ khổ, ly dục, tịch diệt, tĩnh chỉ.

Có sáu tưởng thân. Tưởng phát sanh từ xúc của mắt;
tưởng phát sanh từ xúc của tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Đó gọi
là sự hiện hữu của tưởng.
(Tạp A-hàm, Quyển 2, Kinh Bảy Thiện Xứ, số 42)
44. BIẾT VỀ SẮC


(Tạp A-hàm, Quyển 3, Kinh Thật Giác, số 70)

Thế nào là như thật tri về sắc?

40. BIÊN TẾ TẬP KHỞI CỦA HỮU THÂN

Những gì là sắc là tất cả bốn đại và sắc do bốn đại
sanh ra. Đó gọi là sắc.

Thế nào là biên tế tập khởi của hữu thân?
Đó là ái, ái về hữu đương lai đi đôi với tham hỷ, đắm
trước cái này hay cái kia.

(Tạp A-hàm, Quyển 2, Kinh Ngũ Chuyển, số 41)
45. BỐN BẤT HOẠI TỊNH

(Tạp A-hàm, Quyển 3, Kinh Thật Giác, số 70)
41. BIẾN TRI

Đối với sắc mà ưu, bi, khổ, não hết, ly dục, diệt, tịch
tĩnh; thì đó gọi là biến tri sắc. Đối với thọ, tưởng, hành,
thức mà ưu, bi, khổ, não hết, ly dục, diệt, tịch tĩnh; thì đó
gọi là biến tri thọ, tưởng, hành, thức.
(Tạp A-hàm, Quyển 6, Kinh Hữu Lưu, số 111)
42. BIẾT ĐỦ

Tỳ-kheo nên biết, phàm phu vì quen đắm nhiễm ngũ
dục nên khơng biết chán và đủ; cịn Thánh nhân vì đã
thành tựu được trí tuệ đầy đủ nên thường biết đủ.

(Tạp A-hàm, Quyển 10, Kinh Tiểu Thổ Đồn, số 264)
39

Các ơng nên khởi lòng thương mến và lòng từ bi. Đối
với những gì các ơng nói, nếu có người nào thích nghe,
thích lãnh thọ thì các ơng hãy vì họ mà nói về bốn bất hoại
tịnh, khiến cho chứng nhập, khiến cho an trụ. Những gì là
bốn? Bất hoại tịnh đối với Phật; bất hoại tịnh đối với Pháp;
bất hoại tịnh đối với Tăng; thành tựu Thánh giới. Vì sao?
Dù bốn đại: đất, nước, lửa, gió có sự thay đổi tăng giảm,
bốn bất hoại tịnh này chưa từng có sự tăng giảm biến khác.
Chúng không tăng giảm biến khác, cho nên đa văn Thánh
đệ tử đã thành tựu được đối với Phật, mà nếu bị đọa vào
địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, thì điều này khơng thể có
được. Cho nên, các Tỳ-kheo nên học như vầy: ‘Tôi sẽ
thành tựu bất hoại tịnh đối với Phật; sẽ thành tựu bất hoại
40


tịnh với Pháp, Tăng và thành tựu Thánh giới và sẽ thiết lập
cho người khác cũng được thành tựu.’
(Tạp A-hàm, Quyển 30, Kinh Tứ Bất Hoại Tịnh, số 836)
46. BỐN HẠNG NGƯỜI TRONG CHÁNH PHÁP

1. Hàng thiện nam khi nghe những người nam người
nữ chịm xóm láng giềng khác bị tật bệnh khốn khổ cho
đến sắp chết; nghe vậy liền phát sanh lòng sợ hãi với
chánh tư duy, như con ngựa tốt kia chỉ cần nhìn bóng roi
là điều khiển nó được.
2. Có hàng thiện nam khơng do nghe những người

nam người nữ chịm xóm láng giềng khác bị khổ vì lão
bệnh tử sanh lịng sợ hãi với chánh tư duy, nhưng phải
thấy những người nam người nữ chịm xóm láng giềng
khác bị khổ vì lão bệnh tử thì mới sanh lòng sợ hãi với
chánh tư duy, như con ngựa tốt kia cần chạm vào lơng
đi của nó, thì có thể nhanh chóng điều phục theo ý
người điều khiển.
3. Có hàng thiện nam không do nghe, thấy những
người nam nữ chịm xóm láng giềng khác bị khổ vì lão
bệnh tử mà sanh lòng sợ hãi với chánh tư duy; nhưng vì
thấy thành ấp chịm xóm có những người quen biết, thân
thuộc bị khổ vì lão bệnh tử nên sanh lịng sợ hãi với chánh
tư duy. Như con ngựa tốt kia, phải bị roi chạm vào da thịt,
sau đó mới chịu theo ý điều phục người điều khiển.
4. Có hàng thiện nam khơng do nghe thấy những
người nam nữ chịm xóm láng giềng khác và những người
41

thân thuộc bị khổ vì lão bệnh tử nên sanh lòng sợ hãi với
chánh tư duy; nhưng chính tự thân bị khổ vì lão bệnh tử
mới sanh lòng nhàm tởm sợ hãi với chánh tư duy. Như con
ngựa tốt kia, phải bị đâm vào da thịt thấu xương cốt, sau
đó mới chịu theo ý điều phục của người điều khiển, thì đó
gọi là hàng thiện nam thứ tư ở trong Chánh pháp luật có
thể tự điều phục.
(Tạp A-hàm, Quyển 33, Kinh Tiên Ảnh, số 922)
47. BỐN LOẠI THỨC ĂN

Có bốn loại thức ăn: thức ăn nắm thô, thức ăn tế xúc,
thức ăn bởi ý tư và thức ăn của thức.

Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của thức ăn?
Khát ái đối với hữu tương lai, đi đôi với hỷ tham, tham
đắm hệ lụy nơi này nơi kia; đó gọi là sự tập khởi của thức
ăn. Biết như thật về sự tập khởi của thực là như vậy.
Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của thức ăn?
Khát ái đối với hữu tương lai, đi đôi với hỷ tham, tham
đắm hệ lụy nơi này nơi kia, thảy đều dứt bỏ không cịn sót,
xả bỏ, nhả ra, đoạn tận, ly dục, diệt, tịch tĩnh; đó gọi là sự
diệt tận của thức ăn. Biết như thật về sự diệt tận của thức
ăn là như vậy.
Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt
tận của thức ăn? Tám Thánh đạo: Chánh kiến, chánh tư
duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh tinh
tấn, chánh niệm, chánh định; đó gọi là con đường đưa đến
sự diệt tận của thức ăn. Biết như thật về con đường đưa
42


đến sự diệt tận của thức ăn là như vậy.
Đa văn Thánh đệ tử như vậy là biết như thật về thức
ăn, biết như thật về sự tập khởi của thức ăn, biết như thật
về sự diệt tận của thức ăn, biết như thật về con đường đưa
đến sự diệt tận của thức ăn; cho nên đa văn Thánh đệ tử ở
trong pháp luật này, có đầy đủ chánh kiến, thành tựu trực
kiến; thành tựu bất hoại tín đối với Phật, thâm nhập Chánh
pháp, đạt được Chánh pháp này, tỏ ngộ Chánh pháp này.
(Tạp A-hàm, Quyển 14, Kinh Câu-hi-la, số 344)
48. BỐN LOẠI THỨC ĂN AN LẠC

Giống như bốn loại thức ăn đối với tứ đại, để an lập

chúng sanh, giúp ích và duy trì. Những gì là bốn? Đồn
thực, xúc thực, ý tư thực và thức thực.
Cũng vậy, có bốn thứ thức ăn an lạc vốn thấm nhuần
bởi phước đức, thấm nhuần bởi pháp lành. Những gì là
bốn? Đó là đối với Phật thành tựu tâm thanh tịnh bất
hoại, là thức ăn an lạc vốn thấm nhuần bởi phước đức,
thấm nhuần bởi pháp lành. Đối với Pháp, Tăng thành tựu
tâm thanh tịnh bất hoại và thành tựu Thánh giới, là thức
ăn an lạc vốn thấm nhuần bởi phước đức, thấm nhuần bởi
pháp lành.
(Tạp A-hàm, Quyển 41, Kinh Bốn Loại Thức Ăn, số 1131)
49. BỐN LỰC CỦA NGỰA TỐT

Ngựa tốt thế gian có đủ bốn năng lực, nên biết chúng
được vua dùng để kéo xe. Những gì là bốn? Đó là khôn
43

ngoan, nhanh nhẹn, kham năng, thuần tánh. Cũng vậy,
hàng thiện nam thành tựu bốn đức, được thế gian tôn
trọng, phụng sự cúng dường, là đám ruộng phước trên hết.
Những gì là bốn? Là thiện nam thành tựu giới thân vô học,
định thân vô học, tuệ thân vô học và giải thốt thân vơ
học.
(Tạp A-hàm, Quyển 33, Kinh Tứ, số 921)
50. BỐN NIỆM XỨ

Thế nào là biết như thật về khổ? Sanh khổ, già khổ,
bệnh khổ, chết khổ, ái xa lìa là khổ, ốn ghét gặp nhau là
khổ, mong muốn khơng được là khổ. Như vậy, nói tóm,
năm thọ ấm là khổ; đó gọi là khổ. Biết như thật về khổ là

như vậy.
Thế nào là biết như thật về sự tập khởi của khổ? Khát
ái đối với hữu tương lai, đi đôi với hỷ tham, tham đắm hệ
lụy nơi này nơi kia; đó gọi là sự tập khởi của khổ. Biết như
thật về sự tập khởi của khổ là như vậy.
Thế nào là biết như thật về sự diệt tận của khổ? Khát ái
đối với hữu tương lai, đi đôi với hỷ tham, tham đắm hệ lụy
nơi này nơi kia, thảy đều đoạn trừ, khơng cịn sót, cho đến,
tịch tĩnh; đó gọi là sự diệt tận của khổ. Biết như thật về sự
diệt tận của khổ là như vậy.
Thế nào là biết như thật về con đường đưa đến sự diệt
tận của khổ? Tám Thánh đạo như đã nói ở trên. Đó gọi là
con đường đưa đến sự diệt tận của khổ. Biết như thật về
con đường đưa đến sự diệt tận của khổ là như vậy.
44


Đa văn Thánh đệ tử như vậy là biết như thật về khổ,
biết như thật về sự tập khởi của khổ, biết như thật về sự
diệt tận của khổ, biết như thật về con đường đưa đến sự
diệt tận của khổ. Như vậy Thánh đệ tử ở trong pháp luật
này, có đầy đủ chánh kiến, thành tựu trực kiến; thành tựu
bất hoại tín đối với Phật, thâm nhập Chánh pháp, đạt được
Chánh pháp này, tỏ ngộ Chánh pháp này.
(Tạp A-hàm, Quyển 14, Kinh Câu-hi-la, số 344)
51. BỐN PHÁP GIÚP NGƯỜI TẠI GIA LỢI ÍCH HIỆN TẠI

1. Phương tiện đầy đủ: Người thiện nam tự nuôi sống
bằng các nghề nghiệp kỹ xảo, như làm ruộng, buôn bán,
phục vụ vương sự, chép sách, toán thuật, hội họa. Đối với

những nghề nghiệp kỹ xảo đó, ln tinh tấn siêng năng
trau dồi.
2. Thủ hộ đầy đủ: Người thiện nam có tiền bạc, gạo
lúa, do nỗ lực mà thu hoạch, tự tay mình làm ra, đúng như
pháp mà có được, tích cực giữ gìn, khơng để cho vua, giặc,
nước, lửa, tước đoạt, hay trơi, chìm, mất mát. Ngược lại,
nếu khơng khéo giữ gìn sẽ tiêu mất; hay nếu khơng lưu
tâm đến chúng, thì sẽ bị người khác chiếm lấy, cùng
những tai nạn sẽ làm cho hư hỏng.
3. Thiện tri thức đầy đủ: Có người thiện nam không
mất điều độ, không buông lung, không dối trá, khơng hung
hiểm. Những tri thức như vậy, có khả năng khéo léo an ủi;
sự sầu khổ chưa sanh có thể khiến khơng sanh, sự sầu khổ
đã sanh có thể khai mở, tĩnh giác; những điều vui thích
chưa sanh có thể khiến sanh nhanh, những điều vui thích
45

đã sanh khiến giữ gìn khơng để mất.
4. Chánh mạng đầy đủ: Người thiện nam có được
những tiền của, trong việc chi thu cân đối, bảo quản chu
tất, không để cho việc nhập nhiều mà xuất ít, hay xuất
nhiều mà nhập ít; như người cầm cân ít thì phải thêm,
nhiều thì phải bớt, cho đến lúc nào biết cân bằng thì mới
thơi. Như vậy, người thiện nam đã cân đối được tài vật của
mình trong khi xuất nhập ngang nhau, không khiến cho
nhập nhiều xuất ít, hay xuất nhiều nhập ít. Nếu người thiện
nam khơng có tiền của nhiều mà sử dụng rộng rãi quá trớn,
thì do sự sinh hoạt này mà người ta nói là ‘quả ưu-đàm-bát
khơng có hạt giống’; ham muốn ngu si, khơng biết nghĩ
đến sau này. Hoặc có người thiện nam dư dật mà không

dám tiêu dùng, mọi người ở gần đều nói: ‘Người ngu si
này như con chó chết đói.’ Cho nên người thiện nam,
những tiền của có được, nên tự mình cân đối, xuất nhập
ngang nhau.
Đó là bốn pháp giúp cho người thế tục tại gia được lợi
ích hiện tại và an lạc ngay hiện tại.
(Tạp A-hàm, Quyển 4, Kinh Uất-xà-ca, số 91)
52. BỐN PHÁP LỢI ÍCH ĐỜI SAU

1. Đức tin đầy đủ: Đối với Như-lai, người thiện nam
có tâm kính tin, gốc rễ tín vững chắc, mà chư Thiên, Ma,
Phạm cùng với lồi người khơng thể phá hoại.
2. Giới đầy đủ: Người thiện nam không sát sinh, khơng
trộm cắp, khơng tà dâm, khơng nói dối, khơng uống rượu.
46


3. Thí đầy đủ: Người thiện nam với tâm khơng vấy
bẩn bởi sự keo kiệt, sống đời tại gia mà hành bố thí bng
xả, thường tự tay mình cho, vui vẻ tu hạnh thí xả.

Diêm-phù-xa hỏi Xá-lợi-phất: Có con đường nào, có
sự thực hành nào mà tu tập, tu tập nhiều, thì có thể đoạn
trừ những thủ này khơng?

4. Tuệ đầy đủ: Người thiện nam biết như thật về Khổ
Thánh đế; biết như thật về Tập, Diệt, Đạo Thánh đế.

Xá-lợi-phất đáp: Có. Đó là tám Thánh đạo, từ chánh
kiến cho đến chánh định.


Đó là bốn pháp có thể làm cho lợi ích đời sau, an lạc
đời sau.

(Tạp A-hàm, Quyển 18, Kinh Diêm-Phù-Xa, số 490)
55. BÚI TÓC

(Tạp A-hàm, Quyển 4, Kinh Uất-xà-ca, số 91)

Mắt, tai, cùng với mũi
Lưỡi, thân, ý nhập xứ
Đối với danh sắc kia
Diệt hết khiến khơng cịn
Các thức đã diệt hẳn
Nơi đó dứt búi tóc.

53. BỎN SẺN

Thí như nước được tích chứa trong ao hồ ở giữa đồng
hoang, mà khơng có người dùng đến để uống ăn, tắm rửa,
nước trong đầm bị nung khô tiêu hết.
Cũng vậy, kẻ sĩ bất thiện được tài vật thắng diệu, mà
không tự thọ dụng, không biết phụng dưỡng cha mẹ, cung
cấp cho vợ con, bà con quyến thuộc, đối nghĩ đến tơi tớ,
giúp đỡ cho người quen biết, không biết tùy thời cúng
dường Sa-môn, Bà-la-môn, để gieo trồng vào ruộng phước
thù thắng, để hướng đến chỗ cao quý, hưởng thụ an lạc lâu
dài, đời sau sanh về cõi trời. Được những tài vật thù thắng
mà không biết cách dùng rộng rãi để thâu lợi lớn, cũng
giống như hồ nước kia vậy.

(Tạp A-hàm, Quyển 46, Kinh Bỏn Sẻn, số 1232)
54. BỐN THỦ

Thủ có bốn, đó là dục thủ, ngã thủ, kiến thủ và giới
thủ.
47

(Tạp A-hàm, Quyển 44, Kinh Búi Tóc, số 1187)
56. BNG BỎ SẼ ĐƯỢC AN VUI LÂU DÀI

Giống như cây cối trong rừng Kỳ-hồn; có người đến
chặt cành lá rồi đem đi, các ơng cũng chẳng lấy làm lo
buồn. Vì sao? Vì những cây này chẳng phải ta, chẳng phải
sở hữu của ta.
Cũng vậy, này các Tỳ-kheo, những gì khơng là thích
ứng của các ơng, hãy lìa bỏ tất cả. Nếu xa lìa hết rồi, các
ơng sẽ được an vui lâu dài. Những gì khơng phải thích ứng
của các ơng? Sắc khơng phải là thích ứng của các ơng,
phải lìa bỏ hết. Nếu xa lìa rồi thì sẽ được an vui lâu dài.
Cũng vậy, thọ, tưởng, hành, thức khơng phải thích ứng của
48


×