Tải bản đầy đủ (.pdf) (121 trang)

Tên gọi các loại bánh trong tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 121 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

BÙI THỊ TUYẾT MAI

TÊN GỌI CÁC LOẠI BÁNH
TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Thái Nguyên - 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

BÙI THỊ TUYẾT MAI

TÊN GỌI CÁC LOẠI BÁNH
TRONG TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành : Ngôn ngữ Việt Nam
Mã số : 60.22.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Văn Hảo

Thái Nguyên - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn thạc sĩ Tên gọi các loại bánh trong tiếng Việt
là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép của ai. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực và chưa được công bố trong các công trình
nghiên cứu khác. Nội dung luận văn có tham khảo và sử dụng các tài liệu,
thông tin đã được đăng tải trên các cuốn sách, truyện, báo, tạp chí và các trang
web theo danh mục tài liệu tham khảo của luận văn. Nếu sai, tôi xin chịu hoàn
toàn trách nhiệm.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Bùi Thị Tuyết Mai

i


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa học và luận văn này, em xin chân thành cảm ơn quý
giảng viên các Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Đại học Sư phạm Hà
Nội, các Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ của Viện Ngôn ngữ học, Viện Từ điển
và Bách khoa thư Việt Nam… đã tận tình truyền đạt kiến thức quý báu để hoàn
thành luận văn này. Em xin bày tỏ lòng biết ơn đến Thầy PGS.TS. Phạm Văn
Hảo đã tận tình chỉ dẫn trong suốt quá trình viết luận văn tốt nghiệp. Tôi xin
chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đồng nghiệp trong và ngoài cơ quan đã
động viên, ủng hộ và giúp đỡ nhiệt tình về mọi mặt trong quá trình học tập,
nghiên cứu, điền dã … để hoàn thành luận văn này.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2015
NGƯỜI VIẾT


Bùi Thị Tuyết Mai

ii


MỤC LỤC
Trang bìa phụ
Lời cam đoan.......................................................................................................i
Lời cảm ơn ........................................................................................................ii
Mục lục ............................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ...........................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài .............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề ................................................................................................2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.......................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................4
6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................5
7. Bố cục luận văn ..............................................................................................5
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN............................................................................6
1.1. Dẫn nhập......................................................................................................6
1.2. Từ ................................................................................................................6
1.2.1. Khái niệm từ .............................................................................................6
1.2.2. Từ xét về mặt cấu tạo: gồm có từ đơn, từ ghép, từ láy...............................7
1.2.3. Từ xét về nghĩa .........................................................................................8
1.3. Ngữ............................................................................................................10
1.3.1. Khái niệm về ngữ....................................................................................10
1.3.2. Về chức năng và đặc điểm của ngữ .........................................................11
1.3.3. Phân loại ngữ ..........................................................................................11
1.4. Các lớp từ ..................................................................................................13
1.4.1. Phân lớp từ ngữ theo nguồn gốc..............................................................13

1.4.2. Phân lớp từ ngữ theo phạm vi sử dụng ....................................................15
1.4.3. Phân lớp từ ngữ tích cực và tiêu cực .......................................................16
1.4.4. Phân lớp từ ngữ theo phong cách sử dụng ...............................................17

iii


1.5. Các trường từ vựng ....................................................................................17
1.6. Khái niệm định danh từ vựng.....................................................................19
1.6.1. Khái niệm định danh ...............................................................................19
1.6.2. Định danh từ vựng ..................................................................................21
1.6.3. Đặc trưng văn hóa trong định danh .........................................................23
1.7. Mô hình định danh cho trường từ vựng về tên gọi bánh trong tiếng Việt ...........27
1.8. Sự đa dạng phương ngữ trong tên gọi các loại bánh...................................30
1.9. Ẩm thực Việt và đôi điều về việc phân loại bánh và kẹo............................31
1.9.1. Ẩm thực Việt ..........................................................................................31
1.9.2. Đôi điều về việc phân loại bánh và kẹo ...................................................32
Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................34
Chương 2: CÁC LOẠI BÁNH VÀ CẤU TẠO TÊN GỌI CỦA BÁNH
TRONG TIẾNG VIỆT ...................................................................................36
2.1. Dẫn nhập....................................................................................................36
2.2. Các loại bánh trong tiếng Việt....................................................................36
2.2.1. Phân theo nguồn gốc ...............................................................................36
2.2.2. Phân loại các loại bánh trong sử dụng .....................................................39
2.2.3. Phân loại các loại bánh theo vị ................................................................44
2.2.4. Phân loại các loại bánh theo nguyên liệu.................................................44
2.3. Cấu tạo tên gọi các loại bánh trong tiếng Việt............................................47
2.4. Hiện tượng một loại bánh có nhiều tên gọi và một tên gọi cho/chỉ
nhiều loại bánh khác nhau.................................................................................54
2.4.1. Hiện tượng một loại bánh có nhiều tên gọi..............................................54

2.4.2. Một tên gọi cho/ chỉ nhiều loại bánh .......................................................55
Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................56
Chương 3: MÔ HÌNH ĐỊNH DANH CHO TÊN GỌI CÁC LOẠI
BÁNH TRONG TIẾNG VIỆT.......................................................................58
3.1. Dẫn nhập....................................................................................................58

iv


3.2. Tính có lí do và không có (hoặc chưa rõ) lí do đặt tên của tên gọi .............58
3.3. Cách thức biểu thị tên gọi bằng các mô hình định danh .............................59
3.3.1. Mô hình định danh ..................................................................................59
3.3.2. Mô hình định danh cụ thể........................................................................60
3.4. Đặc điểm văn hóa thể hiện qua các loại bánh của người Việt.....................73
3.4.1. Nét văn hóa về thưởng thức các loại bánh của người Việt qua các
giác quan ..........................................................................................................73
3.4.2. Thể hiện qua quan hệ với tự nhiên ..........................................................76
3.4.3. Thể hiện qua quan hệ xã hội....................................................................78
3.4.4. Thể hiện qua yếu tố tiếp thu văn hóa nước ngoài ....................................79
Tiểu kết Chương 3 ............................................................................................81
KẾT LUẬN .....................................................................................................83
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................................................................87
PHỤ LỤC ........................................................................................................93
Phụ lục 1: Bánh và đặc điểm của bánh..............................................................93
Phụ lục 2: Bánh làm bằng bột gạo và bánh làm từ các nguyên liệu khác.........107
Phụ lục 3: Các món bánh đi vào văn học Việt Nam ........................................110

v



MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Có thể nói, trong vốn từ vựng của một ngôn ngữ như tiếng Việt có những
lớp từ được tập hợp thành nhóm cùng gọi tên một loại sự vật, hiện tượng. Tên
gọi các loại bánh là một trong nhiều nhóm như vậy. Vì thế, trong hệ thống từ
vựng của các ngôn ngữ chắc chắn đều có một trường từ vựng về bánh. Đối với
tiếng Việt, trường từ vựng này bao gồm một số lượng lớn các đơn vị từ ngữ.
Và khi nghiên cứu về bánh, ta sẽ nhận thấy những món bánh Việt tuy dân
dã nhưng được hình thành và phát triển từ lâu đời gắn với sự phát triển của lịch
sử xã hội, của cộng đồng. Ngày nay, do đã trải qua quá trình phát triển lâu dài
của lịch sử dân tộc ta thấy, có những món bánh thuần Việt, có những món bánh
ảnh hưởng của văn hóa ẩm thực Trung Quốc, văn hóa ẩm thực Pháp và cả văn
hóa ẩm thực Ấn Độ. Thông qua sự giao thương giữa các quốc gia mà món bánh
Việt Nam chịu ảnh hưởng và tạo thành những loại bánh đặc trưng. Đặc sản
bánh Việt có rất nhiều loại và kiểu dáng, hương vị khác nhau và dường như ở
mỗi tỉnh, thành phố đến mỗi làng, bản đều có món bánh truyền thống riêng.
Đi dọc theo chiều dài đất nước Việt Nam, ta sẽ phát hiện nhiều món bánh
có cái tên lạ tai. Đây là nguồn đề tài hấp dẫn cho các nhà ngôn ngữ học, văn
hóa học, … tìm hiểu, khai thác, nghiên cứu tên gọi các loại bánh trong tiếng
Việt. Đây cũng chính là nghiên cứu mối quan hệ giữa ngôn ngữ với văn hóa, tư
duy của dân tộc. Mối quan hệ này thể hiện ở nhiều cấp độ khác nhau trong
ngôn ngữ học.
Trong cuộc sống của con người, tên gọi các loại bánh có vai trò quan
trọng, bởi nếu không có tên gọi thì con người rất khó phân biệt được các loại
bánh với nhau. Về mặt ngôn ngữ, khi tiếp cận tên gọi các loại bánh ta sẽ thấy
cái hay, cái phong phú, đa dạng khi sử dụng từ ngữ trong tiếng Việt. Đồng thời,
ta cũng hiểu thêm về môi trường tự nhiên, xã hội, thấy được nét độc đáo về văn
hóa của mọi vùng miền của đất nước. Chính vì những cái hay, cái độc đáo của

1



các loại bánh trong tên gọi và cách gọi tên của chúng mà chúng tôi đã chọn Đề
tài: “Tên gọi các loại bánh trong tiếng Việt” làm đề tài luận văn.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về mặt nghiên cứu
Hiện nay, theo sự tìm hiểu của chúng tôi, việc nghiên cứu tên gọi các loại
bánh trong tiếng Việt hiện chưa có nhiều nghiên cứu về mặt ngôn ngữ và cũng
có thể nói rằng vấn đề này chưa được các nhà Việt ngữ học quan tâm, ngoài
công trình là bài báo của Nguyễn Phương Chi có tên “Thử tìm hiểu cơ chế định
danh của các tổ hợp cố định có danh từ ghép phân nghĩa, yếu tố mang tính danh
từ (Bánh + x, thợ + x) [15] và Nguyễn Thu Hằng có tên “Đặc điểm tên các loại
bánh ở Việt Nam” [31].
2.2. Về tên gọi bánh được sưu tầm, nghiên cứu và trình bày trong các
cuốn từ điển tiếng Việt và từ điển các phương ngữ tiếng Việt
Đó là các quyển:
Từ điển tiếng Việt (GS. Hoàng Phê chủ biên) trong đó giới thiệu về tên
gọi, giải nghĩa một số loại bánh Việt Nam.[44]
Từ điển Phương ngữ tiếng Việt (PGS.TS. Phạm Văn Hảo chủ biên) giới
thiệu về một số tên gọi, giải nghĩa các loại bánh có nguồn gốc phương ngữ ở
Việt Nam.[28]
Từ điển tiếng Huế (Bùi Minh Đức biên soạn) trong đó giới thiệu về tên gọi,
giải nghĩa các loại bánh có xuất xứ miền Trung, đặc biệt vùng đất Cố đô Huế.[22]
Từ điển từ ngữ Nam Bộ (Huỳnh Công Tín biên soạn) giới thiệu về tên gọi,
giải nghĩa các loại bánh có xuất xứ Nam Bộ.[52]
Từ điển tiếng địa phương Nghệ - Tĩnh (Nguyễn Nhã Bản chủ biên) cũng giới
thiệu về tên gọi, giải nghĩa các loại bánh có xuất xứ vùng đất Nghệ - Tĩnh.[5]
2.3. Các tài liệu nghiên cứu từ góc độ văn hóa có thể thấy một số tài liệu
Sách Tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy ở người
Việt trong sự so sánh với những dân tộc khác của tác giả Nguyễn Đức Tồn. [53]


2


Sách Văn hóa ẩm thực Việt Nam của các tác giả: Trần Quốc Vượng, Mai
Khôi, Băng Sơn, những người đã có nhiều năm nghiên cứu về món ăn Việt
Nam. Cuốn sách không chỉ đề cập đến xuất xứ và nghệ thuật chế biến các món
ăn mà đặc biệt nhấn mạnh với bạn đọc cách thưởng thức món bánh của ba vùng
Bắc, Trung, Nam. (Các món ăn miền Bắc - tập 1; Các món ăn miền Trung - tập
2; Các món ăn miền Nam - tập 3).[60]
Trong cuốn Từ điển các món ăn Việt Nam của tác giả Xuân Huy viết và
trình bày các phong tục, tập quán liên quan tới ăn uống trong đó tác giả viết về
25 món ăn của người Việt, 35 món “hương hoa đất Bắc”, 32 món “phong vị
miền Trung”, 43 món “hào phóng miền Nam”. Trong đó tác giả có những giới
thiệu về công thức làm các loại bánh của ba miền Bắc, Trung, Nam.[32]
Cuốn sách Từ điển văn hóa ẩm thực Việt Nam của ba tác giả Huỳnh Thị
Dung, Nguyễn Thu Hà, Nguyễn Thị Huế có giới thiệu về các món bánh đặc sản
của ba miền.[20]
Cuốn sách Các món ăn dân tộc cổ truyền của tác giả Nguyễn Đức Khoa
giới thiệu về nguồn gốc và cách thức chế biến các món bánh Việt Nam.[36]
Cuốn sách Sự kiện Nam tiến liên quan tới di dân - lai máu và tính tổng
hòa của các thức ăn uống tại Nam Bộ của tác giả Hoàng Xuân Việt giới thiệu
về ẩm thực người Nam Bộ trong đó có các món bánh mang phong cách sông
nước Nam Bộ.[59]
Và còn rất nhiều cuốn sách, bài viết đề cập đến các loại bánh, bàn đến ít
nhiều tên gọi các loại bánh trên các phương tiện thông tin đại chúng như báo,
tạp chí, sách, website,….
Trong luận văn này, trên cơ sở những công trình nghiên cứu của các tác
giả đi trước, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu tên gọi và cách gọi tên các loại bánh
ở Việt Nam có gắn với đặc trưng văn hóa khu vực, vùng miền ở nước ta.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn này nhằm mục đích nghiên cứu các nội dung sau:

3


- Nghiên cứu chung về tên gọi và cấu trúc của tên gọi các loại bánh trong
tiếng Việt.
- Nghiên cứu cách định danh của tên gọi các loại bánh trong tiếng Việt.
- Nghiên cứu ý nghĩa, các biến thể tên gọi của các loại bánh.
- Nghiên cứu đôi nét về lịch sử văn hóa của các loại bánh trên các vùng
miền ở nước ta.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu về lý thuyết các vấn đề: lớp và trường từ vựng, cách định danh
trong tiếng Việt.
- Tìm hiểu cấu tạo, cách định danh tên gọi các loại bánh.
- Tìm hiểu các biến thể địa phương tên gọi một số loại bánh.
- Tìm hiểu đôi nét về văn hóa của người Việt thông qua tên gọi bánh trong
tiếng Việt.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề xung quanh tên gọi các loại
bánh trong tiếng Việt.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của chúng tôi bao gồm từ và ngữ trong hệ thống tên
gọi các loại bánh trong tiếng Việt qua các từ điển và sách báo. Ở một chừng
mực nào đó, tư liệu nghiên cứu được thu thập từ các ghi chép của tác giả luận
văn tại một số địa phương.

5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp Thống kê, phân loại để hệ thống hóa các từ ngữ thuộc
trường nghĩa bánh trong ẩm thực Việt.
Phương pháp Phân tích cấu trúc ngữ nghĩa để tìm hiểu về cấu trúc và cơ
chế định danh các từ ngữ chỉ các loại trong tiếng Việt.

4


Phương pháp Nghiên cứu điền dã để ghi chép và mô tả các loại bánh qua
thực tế ở một số địa phương
Ngoài ra, luận văn này sử dụng các thủ pháp như So sánh, đối chiếu, mô
hình văn hóa, miêu tả để tìm hiểu về nguồn gốc, cách chế biến các loại bánh ở
các vùng miền khác nhau.
6. Đóng góp của luận văn
Về lí luận: Trên cơ sở nghiên cứu tên các loại bánh trong tiếng Việt, luận
văn này làm giàu cho việc nghiên cứu và miêu tả tên gọi và cách gọi tên các
lớp/trường từ vựng trong tiếng Việt.
Về thực tiễn: Ở một mức độ nào đó, luận văn góp phần cung cấp các
thông tin hữu ích cho người làm từ điển, người dạy và học tiếng Việt, người
tìm hiểu về văn hóa, du lịch… ở Việt Nam.
7. Bố cục luận văn
Ngoải phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục, Thư mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung gồm có ba chương chính sau:
Chương 1. Cơ sở lí luận.
Chương 2. Các loại bánh và cấu tạo tên gọi của bánh trong tiếng Việt.
Chương 3. Việc định danh cho tên gọi các loại bánh trong tiếng Việt.

5



Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Dẫn nhập
Ở chương này, chúng tôi sẽ tìm hiểu những khái niệm cơ bản như từ,
ngữ, các lớp từ, trường từ vựng và khái niệm định danh. Đây là các nội dung
mà chúng tôi sẽ triển khai nghiên cứu trong các chương sau.
Đây cũng chính là những loại khái niệm cơ bản trong từ vựng học, được
các tác giả Việt Ngữ học đề cập đến từ lâu. Các ý kiến đưa ra có thể còn chưa
có sự thống nhất, chúng tôi sẽ chọn một số ý kiến tiêu biểu khi thực hiện luận
văn này.
1.2. Từ
1.2.1. Khái niệm từ
Từ là đơn vị cơ bản của từ vựng. Thực tế cho đến nay, việc xác định khái
niệm “từ” chưa đi đến được sự nhất trí và có quá nhiều định nghĩa, lại có ý kiến
cho rằng trong các ngôn ngữ chúng ta đã biết không có khái niệm từ nói chung.
Trên thực tế, trong các ngôn ngữ thì “từ” nói chung dẫu sao vẫn tồn tại vẫn
được nhắc đến như một đơn vị cơ bản của ngôn ngữ. Và có thể tìm hiểu một số
định nghĩa về “từ” như sau:
Theo Đỗ Hữu Châu thì “Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố
định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những
kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất
trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” [ 10, tr.16].
Nguyễn Thiện Giáp lại quan niệm “Từ tiếng Việt là một chỉnh thể nhỏ
nhất có ý nghĩa dùng để tạo câu nói; nó có hình thức của một âm tiết, một khối
viết liền” [24, tr. 69].
Tác giả Hoàng Phê lại đưa ra quan điểm trong cuốn Từ điển tiếng Việt như
sau: “Từ là đơn vị ngôn ngữ mà bắt đầu từ nó ngôn ngữ mới thực hiện chức
năng giao tiếp và chức năng tư duy... Từ là một đơn vị hai mặt: mặt hình thức
và mặt ý nghĩa. Mặt hình thức theo chúng tôi, là một hợp thể của một số thành


6


phần: thành phần ngữ âm (còn gọi là ngoại biểu), thành phần cấu tạo (còn gọi
là cấu trúc của từ) và thành phần ngữ pháp” [44, tr.334-335].
Theo các nhà ngôn ngữ học nước ngoài thì “Từ là đơn vị nhỏ nhất có
nghĩa của ngôn ngữ được vận dụng độc lập, tái hiện tự do trong lời nói để xây
dựng nên câu”. Quan niệm này gần với quan niệm của B.Golovin trong cuốn
sách "Dẫn luận ngôn ngữ học" của ông. Nó cũng có nhiều nét gần với quan
niệm của L.Bloomfield, coi “từ” là một “hình thái tự do nhỏ nhất”. Có nghĩa
rằng “từ” là một hình thái nhỏ nhất có thể xuất hiện độc lập được.
Có thể thấy rằng, với nhiều cách hiểu khác nhau về “từ” mà một số nhà
ngôn ngữ học đưa ra định nghĩa chính thức hiển ngôn đối với “từ”, hoặc họ chỉ
đưa ra những lời định nghĩa thích hợp với lĩnh vực mà mình nghiên cứu, hay
trình bày nội dung của khái niệm “từ” bằng những ngôn từ chung chung, mang
tính ước định
Còn xét về yếu tố “ vựng”, thì vựng là yếu tố gốc Hán có nghĩa cái kho,
nơi chứa.
Từ vựng là kho từ, vốn từ của một ngôn ngữ gồm các từ và các đơn vị
tương đương với từ. Từ vựng là một hệ thống hữu hạn, là một bộ phận quan
trọng của hệ thống ngôn ngữ, phát triển liên tục cùng với sự phát triển của xã
hội. Mỗi từ trong hệ thống bao giờ cũng đối lập với các từ còn lại, đồng thời
chỉ có giá trị khi được xét trong mối tương quan với các từ khác trong hệ thống.
Từ vựng của một ngôn ngữ thường có thể gồm nhiều trăm ngàn từ. Nhưng vốn
từ của một cá nhân thường không nhiều lắm. Tích lũy được khoảng 6000 đến
9000 từ đã có thể được coi là có trình độ văn hóa cao. Một nhà văn thiên tài
thường cũng chỉ sử dụng vốn từ khoảng 20. 000 từ (Từ điển ngôn ngữ Puskin
có 21.290 từ)[65; tr.21]
1.2.2. Từ xét về mặt cấu tạo: gồm có từ đơn, từ ghép, từ láy
Từ đơn: Từ đơn là từ chỉ gồm một tiếng có nghĩa tạo thành. Từ đơn được

dùng làm đơn vị (hình vị) để tạo ra được từ ghép và từ láy, làm tăng vốn từ của
ngôn ngữ.

7


Từ ghép: Từ ghép là những từ được tạo ra bằng cách ghép các tiếng có
quan hệ với nhau về nghĩa. Từ ghép gồm từ ghép chính phụ và từ ghép đẳng
lập. Từ ghép chính phụ có tiếng chính và tiếng phụ bổ sung nghĩa cho tiếng
chính, tiếng chính đứng trước, tiếng phụ đứng sau. Từ ghép chính phụ có tính
chất phân nghĩa. Nghĩa của từ ghép chính phụ hẹp hơn nghĩa của tiếng chính.
Từ ghép đẳng lập có các tiếng bình đẳng về mặt ngữ pháp (không phân ra tiếng
chính, tiếng phụ). Từ ghép đẳng lập có tính chất hợp nghĩa. Nghĩa của từ ghép
đẳng lập khái quát hơn nghĩa của các tiếng tạo nên nó. Với sự phân loại đó, vai
trò của từ ghép dùng để định danh sự vật, hiện tượng, để nêu đặc điểm, tính
chất, trạng thái của sự vật.
Từ láy: là những từ tạo ra bằng cách ghép các tiếng có quan hệ láy âm với
nhau, nhằm tạo nên những từ tượng thanh, tượng hình trong nói, viết và có giá
trị gợi hình, gợi cảm. [82; tr. 11]
1.2.3. Từ xét về nghĩa
- Nghĩa của từ: là nội dung (sự vật, tính chất, hoạt động, quan hệ,…) mà từ
biểu thị. Cách giải thích nghĩa của từ dùng để trình bày khái niệm mà từ được
biểu thị và đưa ra những từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa với từ cần giải thích.[81]
- Từ nhiều nghĩa: Từ có thể có một hay nhiều nghĩa. Từ nhiều nghĩa là từ
mang sắc thái ý nghĩa khác nhau do hiện tượng chuyển nghĩa. Các nét nghĩa
của từ nhiều nghĩa bao gồm nghĩa gốc được xuất hiện từ đầu, làm cơ sở để hình
thành các nét nghĩa khác. Nghĩa chuyển là nghĩa được hình thành trên cơ sở
của nghĩa gốc. Thông thường, trong câu từ chỉ có một nghĩa nhất định. Tuy
nhiên trong một số trường hợp, từ có thể được hiểu đồng thời theo cả nghĩa gốc
lẫn nghĩa chuyển.

- Thành ngữ là cụm từ có cấu tạo cố định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh.
Nghĩa của thành ngữ có thể bắt nguồn trực tiếp từ nghĩa đen của các từ tạo nên
nó nhưng thường thông qua một số phép chuyển nghĩa như ẩn dụ, hoán dụ, so
sánh…Thành ngữ có thể làm chủ ngữ, vị ngữ trong câu hay làm phụ ngữ trong

8


cụm danh từ, cụm động từ,…Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình
tượng, tính biểu cảm cao. [82;tr.3]
Các loại từ xét về quan hệ nghĩa:
+ Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa tương tự nhau. Một từ nhiều nghĩa
có thể thuộc vào nhiều nhóm từ đồng nghĩa khác nhau. Có hai loại từ đồng
nghĩa từ đồng nghĩa hoàn toàn và từ đồng nghĩa không hoàn toàn. Khi sử dụng
không phải bao giờ các từ đồng nghĩa cũng có thể thay thế được cho nhau. Khi
nói cũng như khi viết, cần cân nhắc chọn trong số các từ đồng nghĩa những từ
thể hiện đúng thực tế khách quan và sắc thái biểu cảm.
+ Từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược nhau. Một từ nhiều nghĩa
có thể thuộc nhiều cặp từ trái nghĩa khác nhau. Từ trái nghĩa được sử dụng
trong thể đối, tạo các hình tượng tương phản, gây ấn tượng mạnh, làm cho lời
nói thêm sinh động.
+ Từ đồng âm: là những từ giống nhau về âm thanh nhưng nghĩa khác xa
nhau, không liên quan gì với nhau. Trong giao tiếp phải chú ý đầy đủ đến ngữ
cảnh để tránh hiểu sai nghĩa của từ hoặc dùng từ với nghĩa nước đôi do hiện
tượng đồng âm. [82;tr. 4]
Cấp độ khái quát nghĩa của từ: Nghĩa của một từ ngữ có thể rộng hơn
(khái quát hơn) hoặc hẹp hơn (ít khái quát hơn) nghĩa của từ ngữ khác. Một từ
ngữ được coi là có nghĩa rộng khi phạm vi nghĩa của từ ngữ đó bao hàm phạm
vi nghĩa của một số từ ngữ khác. Một từ ngữ được coi là có nghĩa hẹp khi phạm
vi nghĩa của từ đó được bao hàm trong phạm vi nghĩa của một từ ngữ khác.

Một từ ngữ có nghĩa rộng đối với những từ ngữ này, đồng thời có thể có nghĩa
hẹp đối với một từ ngữ khác.[82;tr. 4]
Từ có nghĩa gợi liên tưởng: Từ tượng thanh là từ mô tả âm thanh của tự
nhiên, của con người. Từ tượng hình là từ gợi tả hình ảnh, dáng vẻ, trạng thái
của sự vật, hiện tượng. Từ tượng thanh, từ tượng hình gợi được hình ảnh âm
thanh cụ thể, sinh động, có giá trị biểu cảm cao, thường được dùng trong văn
miêu tả và tự sự.
9


1.3. Ngữ
1.3.1. Khái niệm về ngữ
Theo cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học của Nguyễn Như Ý:
“Ngữ là sự kết hợp hai hoặc nhiều thực từ (không hoặc có cùng với các hư từ
có quan hệ với chúng gắn bó về ý nghĩa và ngữ pháp), diễn đạt một khái niệm
thống nhất và là tên gọi phức tạp biểu thị các hiện tượng của thực tại khách
quan”. [61,tr. 176]
Cùng với đơn vị từ vựng cơ bản là từ thì còn có một đơn vị từ vựng là
ngữ. Ngữ là những cụm từ sẵn có trong tiếng Việt, có giá trị tương đương như
từ. Khái niệm “ngữ” được Nguyễn Thiện Giáp giải thích như sau: “khác với
cụm từ tự do, các ngữ (từ ghép, từ láy, ngữ định danh, thành ngữ) đều có tính
cú pháp trong quan hệ giữa các thành tố”.[25]
Ngoài đơn vị “từ”, một đơn vị nữa cũng cùng chức năng nhưng khác cấu
tạo với “từ” là “ngữ”. Khi nói đến “ngữ” cần chú ý mấy điểm để phân biệt với
“từ” như sau: Ngữ là sự kết hợp hai hoặc nhiều thực từ (không hoặc có cùng
với các hư từ có quan hệ với chúng gắn bó về ý nghĩa và ngữ pháp), diễn đạt
một khái niệm thống nhất và là tên gọi phức tạp biểu thị các hiện tượng của
thực tại khách quan. Đó là một kết cấu cú pháp được tạo thành bởi hai hay
nhiều thực từ trên cơ sở liên hệ ngữ pháp phụ thuộc - theo quan hệ phù hợp, chi
phối hay liên hợp.

Trong một số ngữ có thành tố đóng vai trò chủ yếu về mặt ngữ nghĩa và
ngữ pháp gọi là thành tố chính, các từ phụ thuộc vào thành tố chính gọi là thành
tố phụ. Thành tố chính của ngữ có thể là:
Cụm danh từ (tạo nên danh ngữ): Cụm danh từ là loại cụm từ, trong
đó thành tố trung tâm là danh từ còn các thành tố phụ là những từ có chức năng
bổ sung ý nghĩa cho danh từ trung tâm đó. Cụm danh từ gồm ba phần, được kết
hợp ổn định với nhau theo thứ tự:
phần phụ trước + danh từ trung tâm + phần phụ sau

10


Cụm động từ (tạo nên động ngữ): là loại cụm chính phụ, trong đó thành tố
trung tâm là động từ còn các thành tố phụ có chức năng bổ sung ý nghĩa về
cách thức, mức độ, thời gian, địa điểm,… cho động từ trung tâm đó. Giống như
cụm danh từ, cụm động từ cũng gồm ba phần, được kết hợp ổn định với nhau
theo thứ tự:
phần phụ trước + trung tâm + phần phụ sau
(B1 + T + B2)
Cụm tính từ (tạo nên tính ngữ): là loại tổ hợp từ do tính từ với một số từ
ngữ khác đi kèm với nó tạo thành. Cụm tính từ có ý nghĩa đầy đủ hơn và có cấu
tạo phức tạp hơn một mình tính từ nhưng hoạt động trong câu giống như một
tính từ. Ở dạng đầy đủ, cụm tính từ gồm có 3 phần: Phần trước là các phụ
ngữ có biểu thị quan hệ thời gian, sự tiếp diễn tương tự, mức độ của đặc điểm,
tính chất, sự khẳng định hay phủ định;… Phần sau là các phụ ngữ biểu thị vị
trí, sự so sánh, mức độ, phạm vi hay nguyên nhân của đặc điểm, tính chất;…
Phần trung tâm phải là tính từ.
phần trước + phần trung tâm + phần sau
1.3.2. Về chức năng và đặc điểm của ngữ
Cũng giống như từ, ngữ cũng là phương tiện định danh, biểu thị sự vật,

hiện tượng, quá trình, phẩm chất. Ý nghĩa ngữ pháp của ngữ được tạo nên bằng
quan hệ nảy sinh giữa các thực từ kết hợp lại trên cơ sở của một kiểu liên hệ
nào đó giữa chúng.
1.3.3. Phân loại ngữ
Về phân loại, ngữ thường chia thành hai kiểu: Ngữ tự do (cụm từ tự do) và
ngữ không tự do (ngữ/cụm từ cố định).
+ Ngữ tự do/ Cụm từ tự do: Là đơn vị có các từ lâm thời liên kết lại theo
một quan hệ nhất định và chỉ tồn tại trong câu nói hoặc viết. Về nghĩa, nó bao
gồm những ý nghĩa từ vựng độc lập của tất cả các thực từ tạo thành ngữ. Mối
liên hệ cú pháp của các yếu tố trong ngữ tự do/cụm từ tự do là mối liên hệ linh
hoạt và có sức sản sinh.

11


+ Ngữ không tự do/ Ngữ cố định/ cụm từ cố định: Tính độc lập về mặt từ
vựng của một hoặc cả hai thành tố bị yếu đi hoặc bị mất và ý nghĩa từ vựng của
ngữ trở nên giống như ý nghĩa của một từ riêng biệt.
Ngữ cố định là “cụm từ cố định, chỉ có thể sử dụng toàn bộ, không được
tùy ý thay đổi các thành phần trong đó, và không thể phân tích chúng theo
phương pháp cấu tạo từ nói chung” (Từ điển tiếng Hán hiện đại. Thương vụ ấn
thư quán. Xuất bản lần thứ 5, 2005. Tr.1269)
Đỗ Hữu Châu định nghĩa về ngữ cố định là “Các cụm từ (ý nghĩa có tính
chất là ý nghĩa của cụm từ, cấu tạo là cấu tạo của cụm từ), nhưng đã cố định
hóa cho nên cũng có tính chất chặt chẽ, sẵn có, bắt buộc, có tính xã hội như
từ”.[11,tr.71]
Nguyễn Như Ý đã đưa ra định nghĩa về ngữ cố định/cụm từ cố định là
“cụm từ sẵn có (có chức năng như từ) với thành phần từ vựng và ngữ nghĩa ổn
định” .[61, tr.64]
Từ các định nghĩa trên, chúng tôi sơ bộ rút ra nhận xét:

Ngữ cố định được định hình từ thói quen sử dụng thường xuyên của mọi
người. Đây là đơn vị ngôn ngữ với đầy đủ chức năng của đơn vị từ, thậm chí là
đạt tới chức năng của câu, đặc biệt khi sử dụng chúng có cấu trúc ổn định, ý
nghĩa hoàn chỉnh, không được tùy tiện bóc tách ra để sử dụng, do vậy có thể
coi đây là một đơn vị từ vựng đặc biệt, được xếp vào trong đối tượng nghiên
cứu của từ vựng học. Phần lớn ngữ cố định có nguồn gốc lịch sử lâu dài, ý
nghĩa biểu đạt phong phú, ghi nhận những trầm tích lịch sử văn hóa của một
dân tộc. Phạm vi sử dụng của ngữ cố định trải trên diện rộng, đặc điểm rõ nét,
giúp cho phong cách biểu đạt của ngôn ngữ thêm trau chuốt và đa dạng. Ngữ cố
định thường được phân chia thành: thành ngữ, quán ngữ, ngạn ngữ (tục ngữ),
trong tiếng Việt còn có thêm cách gọi khác về ngữ cố định định danh, các đơn
vị cụm từ trung gian, .... Tần suất sử dụng của chúng trong giao tiếp hằng ngày
rất cao. Chúng tôi sẽ tập trung miêu tả chi tiết những chủng loại lớn có tính đại
diện tiêu biểu trong nội dung các chương tiếp theo.
12


1.4. Các lớp từ
Thực tế hiện nay cho thấy, tiếng Việt vốn có từ ngữ khá đồ sộ, có thể được
phân theo lớp lang nhất định. Có thể phân chia các lớp từ vựng như sau: Phân
lớp từ ngữ theo nguồn gốc, phân lớp từ ngữ theo phạm vi sử dụng, phân lớp từ
ngữ tích cực và tiêu cực, phân lớp từ ngữ theo phong cách sử dụng.
1.4.1. Phân lớp từ ngữ theo nguồn gốc
- Lớp từ bản ngữ: là lớp từ thuần Việt do nhân dân ta sáng tạo ra trong lịch
sử, là cốt lõi của từ vựng tiếng Việt, làm chỗ dựa và có vai trò điều khiển, chi
phối sự hoạt động của mọi lớp từ khác.
Về mặt nguồn gốc, cơ sở hình thành của lớp từ thuần Việt là các từ gốc
Nam phương, bao gồm các nhóm Nam Á và Tày - Thái. Những kết quả nghiên
cứu gần đây cho thấy rằng, nhiều bộ phận, nhiều nhóm của lớp từ thuần Việt có
những tương ứng, những quan hệ hết sức phức tạp với nhiều ngôn ngữ hoặc

nhóm ngôn ngữ trong vùng. ( Dẫn nguồn: Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu &
Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở ngôn ngữ học và tiếng Việt. Nxb Giáo dục, H.,
1997, trang 213–219.)
- Từ mượn: Từ mượn là từ vay mượn của tiếng nước ngoài để biểu thị
những sự vật, hiện tượng, đặc điểm, tính chất,…mà tiếng Việt chưa có từ thật
thích hợp để biểu thị chúng. Từ mượn gồm phần lớn là từ Hán Việt (là những
từ gốc Hán được phát âm theo cách của người Việt) và từ mượn các nước khác
( Ấn - Âu).
+ Quá trình tiếp xúc lâu dài với tiếng Hán đã để lại trong tiếng Việt một tỉ
lệ lớn các từ vay mượn của tiếng Hán, gọi là từ gốc Hán hay từ Hán - Việt.
Theo các nhà nghiên cứu thì khoảng hơn 60% số từ của tiếng Việt là từ vay
mượn của tiếng Hán. Tuy nhiên, các từ tiếng Hán khi đi vào tiếng Việt đã được
Việt hóa về cách đọc cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của tiếng Việt. Người
Việt gọi là cách đọc Hán - Việt. Cách đọc này đã được hoàn thiện từ khoảng
thế kỉ X - XI và được sử dụng ổn định cho đến nay. Điều đó có nghĩa là các từ

13


vay mượn của tiếng Hán được người Việt đọc theo âm cổ - âm tiếng Hán đời
Đường - có sự Việt hóa ít nhiều cho phù hợp với hệ thống ngữ âm tiếng Việt.
Trong khi đó tại Trung Quốc, trải qua các thời kì khác nhau, cách phát âm
của các từ đã thay đổi nhiều. Điều này giải thích tại sao từ tiếng Trung hiện
đại và từ Hán-Việt có cách đọc không giống nhau. Ví dụ: từ Hújiāo bǐng của
tiếng Trung được người Việt đọc là bánh tiêu.
Mặt khác, các từ gốc Hán trong tiếng Việt cũng có sự khác biệt về nghĩa
và cách sử dụng so với từ tương đương trong tiếng Trung hiện nay. Chẳng hạn,
trong tiếng Việt, từ ngoại ô được dùng để biểu thị ý nghĩa “lãnh vực bên ngoài
thành phố” nhưng tiếng Trung lại dùng thị giao, thành giao để biểu thị ý nghĩa
này. Không những thế, tiếng Việt còn dùng các yếu tố gốc Hán để tạo ra từ mới

chỉ dùng trong tiếng Việt, ví dụ: tiểu đoàn, đại đội,… hoặc kết hợp một yếu tố
gốc Hán với một yếu tố thuần Việt để tạo ra từ mới, ví dụ: binh lính, tàu hỏa,
đói khổ.
Ngoài ra, trong tiếng Việt còn có một số từ gốc Hán nhưng không đọc
theo âm Hán - Việt, ví dụ: rồng - long; sức - lực, xin - thỉnh,… hoặc các từ gốc
Hán mượn qua khẩu ngữ, ví dụ: mì chính, xì dầu,… [83]
+ Từ mượn các nước khác (Ấn Âu): Bộ phận từ ngữ này vào tiếng Việt từ
khi nước ta bị người Pháp xâm lược và chịu ảnh hưởng trực tiếp của họ (giữa
thế kỉ 19). Vừa bằng con đường khẩu ngữ vừa qua con đường chính thức trong
giáo dục nhà trường và giao tiếp hành chính, hàng loạt từ gốc Pháp đã du nhập
vào tiếng Việt. Mặt khác, một số từ nguồn gốc Anh và gốc Nga cũng đã được
tiếp thu: mít tinh, ten nít, bốc, bồi, cao bồi, tiu, xì ke, côm xô môn, bôn sê vích,
men sê vích, Trốtskit, Xô viết...
Nhìn chung, các từ ngữ gốc Ấn Âu (chủ yếu là gốc Pháp) đã thâm nhập
vào khá nhiều mặt của đời sống xã hội. Từ đời sống giao tiếp thường ngày (bao
gồm tên gọi một số món ăn, thuốc men, quần áo, đồ đạc, dụng cụ...) cho đến
các ngành văn hoá, nghệ thuật, khoa học, kĩ thuật, y tế... đều có chúng tham

14


gia. Ví dụ: pho mat, kem, xúc xích, pê-ni-xi-lin, canh ki na, ca-phê-in, sơ mi...
( Dẫn nguồn: Mai Ngọc Chừ; Vũ Đức Nghiệu & Hoàng Trọng Phiến. Cơ sở
ngôn ngữ học và tiếng Việt. NXB Giáo dục, H., 1997, trang 213–219.)
Có thể nói rằng, mượn từ là một cách làm giàu tiếng Việt. Tuy vậy, để bảo
vệ sự trong sáng của tiếng Việt - ngôn ngữ dân tộc, không nên mượn từ nước
ngoài một cách tuỳ tiện.
1.4.2. Phân lớp từ ngữ theo phạm vi sử dụng
- Thuật ngữ: Là những từ ngữ biểu thị khái niệm khoa học, công nghệ,
thường được dùng trong các văn bản khoa học, công nghệ. Về nguyên tắc,

trong một lĩnh vực khoa học, công nghệ nhất định, mỗi thuật ngữ biểu thị một
khái niệm, và ngược lại, mỗi khái niệm chỉ được biểu thị bằng một thuật ngữ.
Thuật ngữ không có tính biểu cảm. Nó được chuẩn hóa ở quốc gia và mang tính
quốc tế.
- Từ địa phương: Là những từ ngữ chỉ được sử dụng ở một (hoặc một số)
địa phương nhất định.
- Biệt ngữ xã hội: Là những từ chỉ được dùng trong một tầng lớp xã hội
nhất định. Việc sử dụng từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội phải phù hợp với
tình huống giao tiếp. Trong thơ văn, tác giả có thể sử dụng một số từ ngữ thuộc
hai lớp từ này để tô đậm màu sắc địa phương, màu sắc tầng lớp xã hội của ngôn
ngữ, trong xây dựng tính cách nhân vật. Muốn tránh bị lạm dụng từ ngữ địa
phương và biệt ngữ xã hội, cần tìm hiểu các từ ngữ toàn dân có nghĩa tương
ứng để sử dụng khi cần thiết.[82;tr. 5,6]
- Từ nghề nghiệp: Là một lớp từ bao gồm những đơn vị từ ngữ được sử
dụng phổ biến trong phạm vi những người cùng làm một nghề nào đó để chỉ:
đối tượng lao động, động tác lao động, nguyên liệu sản xuất, công cụ để lao
động, sản phẩm làm ra,...
Tuy vậy, không phải là hễ người ngoài nghề thì không thể biết được từ
nghề nghiệp. Người ta (trong phạm vi rộng rãi toàn xã hội) vẫn có thể hiểu

15


được chúng nhiều hay ít tuỳ theo mức độ hiểu biết của họ đối với nghề đó. Đó
là các nghề truyền thống như: nghề làm giấy, làm đồ gốm, làm sơn mài, nghề
làm tranh dân gian, nghề mộc, nghề đúc đồng, nghề chài lưới,...
- Tiếng lóng: Là một bộ phận từ ngữ do những nhóm, những lớp người
trong xã hội dùng để gọi tên những sự vật, hiện tượng, hành động,... vốn đã có
tên gọi trong vốn từ vựng chung, nhằm giữ bí mật trong nội bộ nhóm mình,
tầng lớp mình. Khi nói đến tiếng lóng, người ta vẫn quen nghĩ rằng đó là ngôn

ngữ riêng của những bọn lưu manh, trộm cắp, bất lương, bọn làm ăn bất chính.
Cách hiểu này có phần hẹp hòi và không phản ánh đúng thực tế cuộc sống ngôn
ngữ.[84][85]
- Từ toàn dân (vốn từ chung): Là những từ ngữ được sử dụng trong phạm
vi cả nước. Lớp từ này có khối lượng từ ngữ lớn nhất và trong từ vựng của
ngôn ngữ nào cũng vậy, nó đóng vai trò làm nền tảng. Nó cũng là cơ sở để
thống nhất từ vựng và thống nhất ngôn ngữ của dân tộc, đồng thời là tài sản
chung để mọi thành viên trong dân tộc, trong xã hội sử dụng làm công cụ giao
tiếp chung. Bởi vì nó gọi tên cho tất cả những sự vật, hiện tượng, thuộc tính,
quá trình,... thiết yếu nhất trong sự tồn tại của đời sống con người.[82][84]
1.4.3. Phân lớp từ ngữ tích cực và tiêu cực
- Từ ngữ tích cực: Là những từ ngữ luôn luôn được mọi người sử dụng ở
mọi nơi, mọi lúc. Thường xuất hiện trong giao tiếp, ở dạng này hay dạng khác,
nói hay viết, độc thoại hay đối thoại, có tần số xuất hiện cao, độ phân bố lớn, là
thành phần cơ bản, trụ cột của từ vựng. [84]
- Từ vựng tiêu cực: Là những từ ngữ ít dùng hoặc không được dùng
thường xuyên, nó bao gồm các từ ngữ mang sắc thái mới, chưa được dùng rộng
rãi hoặc những từ ngữ đã lỗi thời.[82]
Trong vốn từ vựng, có một lớp từ được cho là lỗi thời có thể chia ra hai
loại: từ ngữ cổ và từ ngữ lịch sử. Từ ngữ cổ là những từ ngữ đã biến mất khỏi
ngôn ngữ hiện đại hoặc vẫn còn những dấu vết trong tiếng Việt hiện đại nhưng

16


ý nghĩa đã bị lu mờ và không còn được dùng độc lập. Khác với từ ngữ cổ, từ
ngữ lịch sử không có các từ ngữ đồng nghĩa trong tiếng Việt hiện đại, tuy nhiên
khi cần diễn đạt các khái niệm mang tính chất lịch sử, người ta vẫn phải sử
dụng đến chúng.
Đa số các từ ngữ mới trong tiếng Việt đều xuất phát từ các ngành khoa

học tự nhiên và xã hội, nhanh chóng gia nhập vào lớp từ vựng tích cực toàn dân
hoặc thuật ngữ chuyên môn nào đó. Thông thường những từ ngữ mới này được
phổ biến nhờ các phương tiện truyền thông đại chúng. [85]
1.4.4. Phân lớp từ ngữ theo phong cách sử dụng
Theo phong cách sử dụng gồm 3 loại: lớp từ khẩu ngữ, lớp từ thuộc phong
cách viết và lớp từ trung hòa.
- Lớp từ khẩu ngữ là những từ ngữ sử dụng trong hoàn cảnh giao tiếp nói.
- Lớp từ thuộc phong cách viết là những từ chủ yếu dùng trong các sách
vở, báo chí….Hiểu sâu xa, đó là những từ được chọn lọc, trau dồi, gắn bó với
chuẩn nguyên tắc nghiêm ngặt.
- Lớp từ trung hoà về phong cách là những từ ngữ không mang dấu hiệu
đặc trưng của lớp từ khẩu ngữ hoặc lớp từ phụ thuộc phong cách viết.[85]
1.5. Các trường từ vựng
Trường từ vựng là tập hợp những từ có nét chung về nghĩa. Một trường từ
vựng có thể bao gồm nhiều trường từ vựng nhỏ hơn. Những từ trong một
trường từ vựng có thể khác biệt nhau về từ loại. Do hiện tượng đa nghĩa, một từ
có thể tham gia vào nhiều trường từ vựng khác nhau.
Và theo định nghĩa của Từ điển giải thích Thuật ngữ ngôn ngữ học thì
trường từ vựng “là loại các từ được liên kết lại nhờ sự đồng nhất của một nét
nghĩa; còn gọi là xêri từ vựng, dãy từ vựng”. [61; tr. 327 ]
Ngoài ra còn một số định nghĩa về trường từ vựng “…Các đơn vị từ của
một hệ thống ngôn ngữ nào đó phủ kín lên khu vực khái niệm nhất định và
được cấu trúc hóa theo một quan hệ về nghĩa tạo nên một trường từ vựng. Như

17


vậy, một đơn vị từ được coi như phủ kín một khu vực khái niệm nào đó và đến
lượt nó, cái khu vực này có thể được cấu trúc hóa thành một trường từ vựng
với một tập hợp từ khác. Ví dụ, cái khu vực mà từ “đỏ” phủ lên có được cấu

trúc hóa với những từ như “hồng điều”, “tía”, “đỏ sậm”, “đỏ son”. Nghĩa của
một đơn vị từ như là một khu vực khái niệm trong lòng trường khái niệm. Mỗi
khu vực khái niệm gắn bó với một đơn vị từ là một khái niệm” (Đái Xuân Ninh
– Nguyễn Đức Dân – Nguyễn Quang – Vương Toàn, ngôn ngữ học khuynh
hướng – lĩnh vực – khái niệm (tập 2),NXB KHXH H…1956, tr 305- 306). [61;
tr.328]
Ngoài ra, theo Đỗ Hữu Châu “Trường từ vựng là một tập hợp các đơn vị
vị từ vựng căn cứ vào một nét đồng nhất nào đó về ngữ nghĩa” [10; tr.46]
Từ những định nghĩa trên ta có thể chia trường từ vựng như sau:
- Trường tuyến tính: Là tập hợp các đơn vị từ vựng có khả năng kết hợp
với một từ trung tâm nào đó trên trục tuyến tính.
- Trường trực tuyến:
+ Trường biểu vật: Là tập hợp các từ có quan hệ đồng nhất về phạm vi
biểu vật.
+ Trường biểu niệm: Là tập hợp các đơn vị từ vựng có cùng cấu trúc biểu
niệm khái quát.
- Trường liên tưởng tự do: Là tập hợp các đơn vị từ vựng được gợi lên do
sự liên tưởng tự do với một từ trung tâm nào đó.
Các trường từ vựng ở đây là tên các nhóm từ trong cùng một trường từ
vựng, có liên quan về nội dung, có cấu trúc tương đồng như:
Tên gọi các loại hoa: hoa hồng, hoa lan, hoa ly, hoa mào gà, hoa anh túc,
hoa hồng trắng,….
Tên gọi các loại quả: quả sầu riêng, quả chuối, quả mãng cầu na, quả
chôm chôm, quả táo,….
Tên gọi các loại bệnh: đau đầu, bệnh đau khớp, viêm họng, đau lưng, ung
thư gan,….
18



×