Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tài liệu cho học sinh giỏi môn tiếng việt lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.92 KB, 23 trang )

Ý NGHĨA SỰ CẦN THIẾT <> SINH GIỎI MÔN TIẾNG VIỆT

Chương I:

KHÁI QUÁT VỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI TIẾNG VIỆT Ở TIỂU
HỌC ...........
3 1. Ý NGHĨA SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN
TIẾNG VIỆT .
3 2. NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI TIẾNG
VIỆT
. 4 3. NHIỆM VỤ CỦA VIỆC BỒI BƯỠNG HỌC SINH GIỎI TIẾNG VIỆT \
. 8 HƯỚNG DẪN HỌ\c

Chương II:

BỒI DƯỠNG HỨNG THÚ HỌC TẬP VÀ
VỐN SỐNG CHO HỌCSINH GIỎI TIẾNGVIỆT.....
....11 1. PHÁT HIỆN NHỮNG HỌC SINH CÓ HỨNG THÚ HỌC TẬP VÀ NĂNG
KHIẾU TIẾNG VIỆT...................
. 11 2. BỒI DƯỠNG HỨNG THÚ HỌC TẬP TIẾNG VIỆT CHO HỌC
SINH ............................................................... 13 3. BỒI DƯỠNG VỐN SỐNG
CHO HỌC
SINH......................................................................................................... 16
Chương III: BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC, KĨ NĂNG TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH
GIỎI..........22 1. CÁC TRI THỨC - KĨ NĂNG TIẾNG
VIỆT........................................................................................................... 22 2.
TIẾP NHẬN NGÔN BẢN - RÈN KĨ NĂNG ĐỌC HIỂU, CẢM THỤ VĂN
HỌC............................................... 51 THAM
KHẢO ................................................................................................................
...................82 1. MỘT SỐ BÀI TẬP TIẾNG VIỆT NÂNG
CAO ..................................................................................................... 82 2.


MỘT SỐ BÀI TẬP LUYỆN TỪ & CÂU NÂNG CAO VÀ GỢI Ý HƯỚNG DẪN
GIẢI BÀI TẬP .................... 89 TÀI LIỆU THAM
KHẢO.................................................................................................................
........................... 93
Chương I KHÁI QUÁT VỀ BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI TIẾNG VIỆT Ở TIỂU
HỌC 1. Ý NGHĨA SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
MÔN TIẾNG VIỆT 1.1. Theo “Chiến lược con người” mà Đảng đã vạch ra


đường hướng rất đúng đắn là: “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài”, nhà trường của chúng ta hướng đến phát triển tối đa
những năng lực còn tềm ẩn trong mỗi Học sinh (HS). Ở nhiều trường tểu
học, đồng thời với nhiệm vụ phổ cập giáo dục tểu học, việc chăm lo phát
hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi góp phần đào tạo nhân tài cho đất nước
được xem là một nhiệm vụ cần thiết và quan trọng. Các kết quả nghiên cứu
cho thấy số HS được xem là phát triển (có năng lực nhận thức, tư duy, vốn
sống... nổi trội hơn các em khác) chiếm từ 5 - 10% trong tổng số HS đến
trường. Đồng thời, những con số thống kê cũng cho thấy, các tài năng phát
triển từ rất sớm, hơn 1/3 những người được xem là có tài năng đã là
những thần đồng khi chưa đầy 10 tuổi. Vì vậy, trên thế giới, người ta luôn
quan tâm đến việc phát hiện và bồi dưỡng nhân tài ngay từ những năm
tháng đứa trẻ còn nhỏ tuổi. Ở nước ta, từ nhiều năm nay, vấn đề này cũng
đã được quan tâm. Bên cạnh bộ sách giáo khoa ở tểu học, chúng ta còn có
các bộ sách nâng cao, sách bồi dưỡng HS giỏi và trước đây đồng thời với kì
thi tốt nghiệp tểu học còn có những kì thi HS giỏi từ cấp cơ sở đến cấp
quốc gia. Các Sở GD - ĐT đều có các hình thức bồi dưỡng học sinh giỏi nói
chung, bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt nói riêng. Hiện nay, ở các địa
phương,hầu hết các trường Tiểu học, các quận, huyện vẫn duy trì thi học
sinh giỏi Tiếng Việt dưới nhiều hình thức khác nhau và có những tỉnh,
thành phố vẫn duy trì thi học sinh giỏi cấp tỉnh, thành phố. Các kì thi liên

tỉnh cũng đang được khuyến khích tổ chức. Gần đây có thêm cả những
hình thức thi mới tạo một sân chơi cho HS có năng lực, đó là các hội thi giao lưu diễn ra trong các trường, quận, huyện, tỉnh, thành phố, giữa các
thành phố, các tỉnh như cuộc thi trong chương trình “Em yêu Tiếng Việt”,
"Tuổi thơ khám phá", “Thần đồng đất Việt”... 1.2. Bồi dưỡng HS giỏi tếng
Việt là nhiệm vụ nhằm bảo đảm sự công bằng trong giáo dục, thực hiện tư
tưởng chiến lược của giáo dục "Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục
- đào tạo. Tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Người nghèo và những
người thuộc các diện chính sách được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để
học tập. Bảo đảm điều kiện để những người học giỏi phát triển tài năng."
1.3. Bồi dưỡng HS giỏi là một hướng dạy học tự chọn ở tểu học nhằm
thực hiện giáo dục phổ thông theo định hướng phân hóa, phát huy cá tính
và sáng tạo của học sinh. Hiện nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo không có chủ
trương thi học sinh giỏi toàn quốc ở tểu học nhưng việc phát hiện và bồi


dưỡng học sinh giỏi trong các môn học ở tểu học vẫn rất quan trọng,
nhằm thực hiện chủ trương dạy - học phân hoá từ cấp tểu học. Việc làm
này còn góp phần khắc phục một trong những hạn chế trong giáo dục hiện
nay là dạy học sinh theo một khuôn, một mẫu nhất định, thủ têu tính tích
cực và cá tính sáng tạo của học sinh. Chúng ta đang tến hành đổi mới toàn
diện nền giáo dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng. Một trong số
các mục têu đổi mới là giáo dục - đào tạo lớp người ngày càng đáp ứng
được tốt hơn yêu cầu về dân trí, nhân lực và nhân tài của xã hội, đáp ứng
nhu cầu phát triển cá nhân và
hứng thú của người học. Để đạt được những mục têu nêu trên, giáo dục
phổ thông cần phải đề xuất những định hướng mới về chương trình,
phương pháp dạy học (PPDH), học liệu, cơ chế đảm bảo chất lượng dạy
học...; mặt khác, cần phải đề xuất chiến lược dạy học đáp ứng với nhu cầu
rất đa dạng của người học nhằm phát triển từng cá thể HS. Tiếng Việt là
một môn học có vị trí quan trọng trong chương trình tểu học. Đây là môn

học vừa có vai trò trang bị cho HS công cụ ngôn ngữ, vừa là môn học thuộc
Khoa học Xã hội và Nhân văn có nhiệm vụ trang bị cho HS những kiến thức
khoa học về tếng Việt, những kĩ năng sử dụng tếng Việt để HS tự hoàn
thiện nhân cách của mình ở phương diện ngôn ngữ và văn hóa. Với nhiệm
vụ của môn học công cụ, HS cần học tốt môn học này để có cơ sở học tốt
những môn học khác. Mặt khác, với nhiệm vụ của một môn khoa học, HS
theo nguyện vọng và khả năng riêng, có thể chọn để học sâu nhằm học giỏi
môn học này. Do đó cần bồi dưỡng HS giỏi tếng Việt nhằm hiện thực hóa
chiến lược giáo dục phổ thông theo định hướng phân hóa. 1.4. Đồng thời
với việc thực hiện nhiệm vụ phát hiện và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước,
việc bồi dưỡng học sinh giỏi tếng Việt còn có tác dụng thúc đẩy phong trào
thi đua học tốt, dạy tốt. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi có tác dụng tích cực
trở lại đối với giáo viên. Để có thể bồi dưỡng học sinh, người giáo viên
luôn phải học hỏi, tự bồi dưỡng kiến thức để nâng cao trình độ chuyên
môn và năng lực sư phạm cũng như phải nâng cao lòng yêu nghề, tnh thần
tận tâm với công việc. Nhìn chung, nhiều năm nay, chúng ta đã chú ý bồi
dưỡng học sinh giỏi nhưng chưa tạo cho công việc này những điều kiện
đầy đủ. Trên thực tế, việc giải quyết mối quan hệ giữa giáo dục toàn diện
và bồi dưỡng học sinh giỏi còn nhiều lúng túng. Đặc biệt việc bồi dưỡng
học sinh giỏi môn Tiếng Việt càng gặp nhiều khó khăn hơn bởi nhiều lí do.


Khá nhiều HS không yêu thích môn học tếng Việt. Kiến thức tếng Việt và
khả năng tư duy nghệ thuật của nhiều giáo viên còn hạn chế. Số giáo viên
có kinh nghiệm bồi dưỡng HS giỏi tếng Việt còn ít. Thêm nữa, do đặc trưng
môn học nên kết quả học tập môn tếng Việt, đặc biệt phần cảm thụ văn
học và viết văn bản nghệ thuật phụ thuộc rất nhiều vào năng khiếu của cá
nhân học sinh. Các em lại cần có quá trình bồi dưỡng, tích luỹ lâu dài nên
nhiều giáo viên cho rằng việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn tếng Việt
“không chắc ăn” và không có hiệu quả như bồi dưỡng HS giỏi môn Toán. Do

đó, nói chung, giáo viên không có hứng thú bồi dưỡng HS giỏi tếng Việt. Ở
những nơi có tổ chức bồi dưỡng thì nhiều khi lại tến hành không có kế
hoạch, không có nội dung và phương pháp cụ thể. Chuyên đề này đặt ra
cho chúng ta nhiệm vụ đáp ứng những đòi hỏi trên. 2. NHỮNG ĐỊNH
HƯỚNG CỦA VIỆC BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI TIẾNG VIỆT Việc xây dựng
các nội dung và phương pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn tếng Việt phải
tuân thủ các nguyên tắc xây dựng chương trình và tài liệu dạy học (SGK)
Tiếng Việt ở tểu học như nguyên tắc giao tếp, nguyên tắc tích hợp,
nguyên tắc tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh… Trong quá trình
bồi dưỡng HS giỏi tếng Việt, những nguyên tắc này sẽ được cụ thể hóa,
nhấn mạnh thêm. Để công việc có hiệu quả, cần xác định những định
hướng tạm gọi là các nguyên tắc sau: 2.1. Nguyên tắc bám sát mục têu,
chương trình Tiếng Việt ở tểu học Chương trình tểu học mới (ban hành
theo Quyết định ngày 9/11/2001 của Bộ Giáo dục và Đào tạo) xác định mục
têu như sau: “Môn tếng Việt ở trường Tiểu học nhằm: 1) Hình thành và
phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để
học tập và giao tếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi.
Thông qua việc dạy và học tếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư
duy. 2) Cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về tếng Việt và
những hiểu biết sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, văn hóa, văn học
của Việt Nam và nước ngoài. 3) Bồi dưỡng tình yêu tếng Việt và hình thành
thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của tếng Việt, góp phần hình
thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Mục têu quan
trọng nhất của môn học tếng Việt là trang bị cho HS một công cụ giao tếp
bằng tếng Việt. Nguyên tắc này nhấn mạnh tính lợi ích của chương trình
đào tạo, đòi hỏi việc bồi dưỡng HS giỏi phải rất thiết thực nhằm phát triển
kĩ năng giao tếp cho HS. Mục têu giao tếp là cơ sở để đề xuất quan điểm


giao tếp trong dạy học tếng Việt. Quan điểm giao tếp được thể hiện ở cả

hai cấp độ: nguyên tắc dạy học và phương pháp dạy học. Ở cấp độ nguyên
tắc dạy học, nguyên tắc giao tếp (còn gọi là nguyên tắc phát triển lời nói,
nguyên tắc thực hành) quy định nội dung dạy học và phương pháp dạy học.
Với tư cách là một nguyên tắc dạy học, nguyên tắc giao tếp đòi hỏi: - Việc
lựa chọn và sắp xếp nội dung dạy học phải lấy hoạt động giao tếp làm mục
đích, tức là hướng vào việc hình thành các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho
HS. - Xem xét các đơn vị ngôn ngữ trong hoạt động hành chức, tức là đưa
chúng vào các đơn vị lớn hơn, ví dụ xem xét từ hoạt động trong câu như
thế nào, câu ở trong đoạn, trong bài ra sao. - Phải tổ chức hoạt động nói
năng của HS để dạy học tếng Việt, nghĩa là phải sử dụng giao tếp như một
phương pháp dạy học chủ đạo ở tểu học. Với tư cách là một phương pháp
dạy học, phương pháp giao tếp (còn gọi là thực hành giao tếp) là phương
pháp đặc trưng của môn học tếng Việt bởi "Ngôn ngữ là phương tện giao
tếp quan trọng nhất của loài người". Quá trình dạy học tếng Việt ở tất cả
các cấp học đều cần phải được tổ chức như một quá trình giao tếp bằng
ngôn ngữ. Phương pháp giao tếp là phương pháp dạy tếng dựa vào lời
nói, vào những thông báo sinh động, vào giao tếp bằng ngôn ngữ. Phương
pháp này gắn liền với phương pháp luyện theo mẫu. Cơ sở của phương
pháp giao tếp là chức năng giao tếp của ngôn ngữ... Nếu ngôn ngữ được
coi là phương tện giao tếp thì lời nói được coi là bản thân sự giao tếp
bằng ngôn ngữ. Dạy tếng Việt theo hướng giao tếp tức là dạy phát triển
lời nói cho từng cá nhân HS. Phương pháp giao tếp coi trọng sự phát triển
lời nói còn những kiến thức lí thuyết thì được nghiên cứu trên cơ sở phân
tích các hiện tượng đưa ra trong bài khoá. Để thực hiện phương pháp giao
tếp cần có, môi trường giao tếp, các phương tện ngôn ngữ và các thao
tác giao tếp. Xét từ góc độ những hạn chế của các tài liệu bồi dưỡng, các
đề thi học sinh giỏi tếng Việt hiện nay, bảo đảm nguyên tắc giao tếp thực
chất là thực hiện sự chuyển mình triệt để từ quá trình dạy học tếng mẹ đẻ
với mục têu cơ bản nặng về lí thuyết để nhận diện, phân loại, phân tích
các đơn vị ngôn ngữ sang mục têu hành dụng. Để làm được việc này, cần

cụ thể hóa quan điểm giao tếp trong việc xây dựng tài liệu bồi dưỡng học
sinh giỏi tếng Việt ở Tiểu học như sau: 1) Dạy học tếp nhận ngôn bản
(nghe, đọc hiểu) tính đến các nhân tố của hoạt động giao tếp và quá trình
giao tếp; 2) Dạy học tạo lập ngôn bản (nói,viết) tính đến các nhân tố của


hoạt động giao tếp; 3) Dạy học các tri thức tếng Việt theo quan điểm giao
tếp. Bản thân hai quá trình tếp nhận và tạo lập ngôn bản chính là quá
trình giao tếp. Những vi phạm nguyên tắc giao tếp trong việc bồi dưỡng
học sinh giỏi tếng Việt thể hiện rõ nhất khi triển khai nội dung dạy học các
tri thức tếng Việt. Chính vì vậy, khi bồi dưỡng học sinh giỏi, cần dành nhiều
tâm lực cho việc xây dựng nội dung dạy học các tri thức tếng Việt theo
quan điểm giao tếp.
Việc dạy học các tri thức tếng Việt theo quan điểm giao tếp đòi hỏi phải
thực hiện các công việc sau: 1) Lựa chọn các tri thức tếng Việt theo quan
điểm giao tếp (tức là phải chú trọng đến tính lợi ích của các tri thức tếng
Việt). 2) Tối giản hóa quá trình dạy học nhận diện, phân loại, phân tích các
đơn vị ngôn ngữ. Để thực hiện điều này cần phải: - Giảm số lượng bài tập
nhận diện,những bài tập lí thuyết không mang tính lợi ích giao tếp. - Khi
dạy các nội dung lí thuyết,cần chọn ngữ liệu điển hình, gắn với dấu hiệu
hình thức, mang tính trực quan, dễ nhận diện; cần xây dựng các mẹo nhận
diện, hình thức hóa (gắn với dấu hiệu hình thức) để giúp HS dễ nhận diện.
3) Dạy học các tri thức tếng Việt theo quan điểm giao tếp đòi hỏi phải tối
ưu hóa quá trình sử dụng các đơn vị ngôn ngữ, kiểu loại ngôn ngữ trong
hoạt động giao tếp. Để thực hiện điều này cần phải: - Tăng số lượng bài
tập dạy sử dụng (bài tập có tính chất tổng hợp, sáng tạo). - Cho thấy lợi
ích, chức năng xã hội, chức năng giao tếp của những đơn vị ngôn ngữ, kiểu
loại ngôn ngữ. Đồng thời chọn ngữ liệu để làm rõ lợi ích của nội dung được
dạy. - Chú trọng dạy nghĩa và dạy cách dùng, thống hợp 3 bình diện kết
học, nghĩa học, dụng học trong bồi dưỡng học sinh giỏi tếng Việt, triệt để

chuyển từ cách dạy phân tích,phân loại các đơn vị ngôn ngữ sang dạy sử
dụng ngôn ngữ,chuyển từ việc xem xét ngôn ngữ ở bình diện cấu trúc hình
thức sang bình diện ngữ nghĩa và ngữ dụng. Nguyên tắc bám sát mục têu,
chương trình tếng Việt ở tểu học cũng đòi hỏi việc bồi dưỡng học sinh
giỏi môn tếng Việt nhằm giúp cho học sinh hiểu biết sâu sắc hơn những
kiến thức tếng Việt, thực hành thành thục hơn những kĩ năng tếng Việt
mà chương trình đã đề ra chứ không cung cấp, không dạy thêm những kiến
thức mới, không dạy trước những nội dung dạy học của lớp trên. Đồng
thời việc bảo đảm nguyên tắc bám sát mục têu, chương trình tếng Việt ở
tểu học cũng không cho phép nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi lặp lại máy
móc những gì được học trong SGK tếng Việt. Dựa vào những kiến thức, kĩ


năng tếng Việt mà chương trình, SGK đã cung cấp,nội dung bồi dưỡng học
sinh giỏi tếng Việt sẽ được xây dựng theo 3 mảng lớn: - Các tri thức tếng
Việt. - Tiếp nhận lời nói (kĩ năng nghe và kĩ năng đọc hiểu mà đích cao nhất
là cảm thụ văn học). - Tạo lập lời nói (kĩ năng nói và kĩ năng viết văn bản
(đoạn văn, bài văn) đặc biệt là các văn bản nghệ thuật - miêu tả và kể
chuyện). Ba nội dung trên cũng chính là 3 bộ phận cấu thành của một đề thi
học sinh giỏi tếng Việt có tính chất truyền thống. Nguyên tắc bám sát mục
têu, chương trình Tiếng Việt ở tểu học cũng đòi hỏi việc bồi dưỡng học
sinh giỏi phải chú trọng đến tính toàn diện của chương trình, tránh kiểu
dạy học "tủ" để thi "đấu gà chọi". 2.2. Nguyên tắc đề cao sự sáng tạo, tính
tích cực của học sinh “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính
tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm
của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ
năng vận dụng kiến thức vào thực tễn; tác động đến tình cảm, đem lại
niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” (Luật Giáo dục, Điều 24.2). Có thể
nói, cốt lõi của việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt là đào tạo
những con người sáng tạo, chủ động, tích cực. Nội dung và phương

pháp dạy học sinh giỏi môn Tiếng Việt phải tạo điều kiện và phát huy được
tính năng động và sáng tạo của học sinh, làm cho các em trở thành những
người thông minh hơn, năng động, tích cực hơn. Nguyên tắc này đòi hỏi
việc tổ chức dạy học phải được xây dựng thành hệ thống việc làm cho học
sinh để các em tự chiếm lĩnh kiến thức và hình thành, phát triển được
những kĩ năng cần thiết. Theo quan điểm của phương pháp dạy học mới,
hệ thống bài tập không phải chỉ là phương tện để thực hành lí thuyết như
trước đây người ta thường quan niệm mà chính là con đường, cách thức
tổ chức để thực hiện các nhiệm vụ dạy học tếng Việt. Quan niệm này cho
rằng cần phải tổ chức toàn bộ quá trình dạy học tếng Việt dưới dạng thực
hành như tổ chức hoạt động giao tếp bằng ngôn ngữ. Đây chính là mục
têu cơ bản của sự vận động chuyển mình từ chương trình dạy học tếng
Việt cũ sang chương trình dạy học tếng Việt mới. Đây cũng là cái lõi của
phương pháp dạy học mới - dạy học tếng Việt theo quan điểm giao tếp.
Chính vì vậy, để tổ chức hoạt động dạy học tếng Việt, chúng ta phải xây
dựng các nhiệm vụ dạy học dưới dạng các bài tập. Bài tập là phương tện
để tổ chức các hành động tếng Việt, tích cực hoá các hoạt động của học
sinh để hình thành, phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, thực hiện


mục têu dạy học tếng Việt ở trường tểu học. Xây dựng được một hệ
thống bài tập tếng Việt tốt và tổ chức thực hiện chúng một cách hiệu quả
có vai trò quyết định đối với chất lượng dạy học tếng Việt. Như vậy cũng
có nghĩa là nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi tếng Việt mang tính thực hành
cao hơn. Nó không có thêm những nội dung kiến thức mới mà chỉ luyện tập
thực hành. Chính vì vậy khi nói xây dựng nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi
tếng Việt cũng có nghĩa là xây dựng hệ thống bài tập để bồi dưỡng học
sinh giỏi. Hệ thống bài tập để bồi dưỡng học sinh giỏi cũng bao gồm các
kiểu dạng bài tập tếng Việt đã có trong SGK theo từng phân môn. 2.3.
Nguyên tắc tích hợp Tích hợp được hiểu là sự hoà nhập, sự kết hợp, hợp

nhất, tích hợp cần được quan niệm là một phương hướng nhằm phối hợp
một cách tối ưu các quá trình học tập riêng rẽ, các môn học, các phân môn
khác nhau theo những mô hình, hình thức, cấp độ khác nhau nhằm đáp
ứng những mục têu, mục đích và yêu cầu khác nhau. Nguyên tắc tích hợp
đòi hỏi nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi môn tếng Việt phải tổng hợp các
mạch kiến thức tếng Việt và các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, tích hợp được
"tếng" và "văn", tích hợp được tếng Việt và các kĩ năng sống, tích hợp
được tếng Việt và các kiến thức, kĩ năng của các môn học khác. Quan điểm
tích hợp được thể hiện rất rõ trong việc lựa chọn ngữ liệu. Các ngữ liệu
như văn bản để dạy đọc, các ví dụ được đưa ra để dạy ngữ pháp, chính tả,
tập viết cần được tích hợp với những tri thức văn hóa chung,thống nhất
với những mục têu giáo dục khác. 2.4. Nguyên tắc tính đến đặc điểm của
học sinh tểu học Đến trường Tiểu học, học sinh bắt đầu chuyển từ hoạt
động chủ đạo là vui chơi sang hoạt động học tập. Đây là một cửa ải rất khó
khăn đối với HS nói chung. Chính vì vậy việc bảo đảm nguyên tắc tính đến
đặc điểm của HS tểu học trước hết đòi hỏi phải có một chiến lược dạy học
lạc quan, nhấn mạnh vào mặt thành công của HS và bảo đảm sự thành
công của các em trong quá trình dạy học. Nguyên tắc này cũng đòi hỏi phải
có sự phân biệt giữa Việt ngữ học và nội dung dạy học tếng Việt ở tểu học
kể cả cho HS giỏi. Mặc dù có năng khiếu tếng Việt, HS tểu học vẫn là
những HS nhỏ mà trình độ nhận thức nói chung, trình độ tếng Việt và văn
chương nói riêng còn thấp. Do đó, khi bồi dưỡng học sinh giỏi vẫn phải chú
trọng đến việc chuyển hóa những nội dung của Việt
ngữ học thành nội dung dạy học phù hợp với lứa tuổi các em. Ngay cả
những sự thú vị của đối tượng tếng Việt được tập trung khai thác nhiều


trong quá trình bồi dưỡng HS giỏi cũng phải có sự "chuyển hóa" thích hợp,
phù hợp với trình độ nhận thức của học sinh tểu học. Nguyên tắc tính đến
đặc điểm của HS tểu học trong bồi dưỡng tếng Việt còn thể hiện ở việc

đòi hỏi dạy học phải mang tính phân hóa,cá thể hóa cao. Tài liệu bồi dưỡng
học sinh giỏi có thể được xây dựng theo sự phân hóa ngoài - có tài liệu
riêng dành chổịhc sinh giỏi. Tài liệu cũng có thể thực hiện sự phân hóa
trong: trong một tài liệu có bài tập dành riêng cho HS khá giỏi và có bài tập
cho HS đại trà. 2.5. Nguyên tắc bảo đảm tính hấp dẫn Nằm trong chương
trình dạy học tự chọn mà nguyên tắc cơ bản là tự nguyện nên việc bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt đặc biệt đề cao nguyên tắc đảm bảo
tính hấp dẫn. Nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi phải mang tính thú vị, hấp
dẫn. Hay nói cách khác nó phải tạo hứng thú học tập cho HS. Có nhiều biện
pháp để tạo hứng thú học tập. Có những biện pháp tác động vào nội dung
dạy học, có những biện pháp tác động vào phương pháp dạy học, có những
biện pháp tác động vào phương tện dạy học, có những biện pháp tác động
vào quan hệ tương tác giữa thầy - trò, trò - trò. Nguyên tắc bảo đảm tính
hấp dẫn đòi hỏi việc tổ chức dạy học phải gây được hứng thú học tập cho
học sinh bằng cách khai thác triệt để tính hấp dẫn của nội dung dạy học
,cũng chính là sự thú vị của tếng Việt, bằng cách sử dụng phương pháp và
hình thức tổ chức dạy học linh hoạt, đa dạng, vui và thú vị, bằng cách thiết
lập quan hệ tốt đẹp, tích cực giữa thầy - trò, trò - trò. 3. NHIỆM VỤ CỦA
VIỆC BỒI BƯỠNG HỌC SINH GIỎI TIẾNG VIỆT Mục têu của việc bồi
dưỡng học sinh giỏi tếng Việt không phải để tạo ra các nhà văn, nhà ngôn
ngữ học mặc dù trên thực tế trong số học sinh giỏi này, sẽ có những em trở
thành những tài năng văn học và ngôn ngữ học. Mục têu của công việc này
cũng không phải để luyện đội tuyển tham gia các kì thi HS giỏi tếng Việt
nhằm lấy giải. Mục têu chính của việc bồi dưỡng HS giỏi tếng Việt là bồi
dưỡng lẽ sống, tâm hồn, hứng thú với tếng mẹ đẻ, bồi dưỡng năng lực tư
duy và khả năng ngôn ngữ, cảm thụ văn chương cho học sinh, góp phần
hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại. Để đạt được mục têu
đó, việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn tếng Việt đặt ra những nhiệm vụ sau:
1) Phát hiện những học sinh có hứng thú học tập và năng khiếu tếng Việt.
2) Bồi dưỡng hứng thú tếng Việt cho học sinh. 3) Bồi dưỡng vốn sống cho

học sinh. 4) Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng tếng Việt cho học sinh.


H NG D N H C 1. CÁC NHIỆM VỤ CẦN THỰC HIỆN 1.1. Đọc tài liệu, thảo
luận nhóm để nêu ý nghĩa của việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt.
1.2. Đọc tài liệu, thảo luận nhóm để xác lập các nguyên tắc bồi dưỡng học
sinh giỏi môn Tiếng Việt. 1.3. Thảo luận nhóm nhằm nêu nhiệm vụ của việc
bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt. 2. CÂU HỎI, BÀI TẬP ĐÁNH GIÁ 2.1.
Phân tích ý nghĩa, sự cần thiết của việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng
Việt ở tểu học. 2.2. Thử nêu và phân tích các định hướng của việc bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt ở tểu học. 2.3. Nêu mục têu và nhiệm
vụ của việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt ở tểu học. 3. GỢI Ý
TRẢ LỜI CÂU HỎI VÀ LÀM BÀI TẬP, THỰC HÀNH Câu 1: xem mục 1 của
chương. Ý nghĩa, sự cần thiết của việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng
Việt: 1) Thực hiện nhiệm vụ bồi dưỡng nhân tài trong chiến lược con
người mà Đảng ta đã đề ra. 2) Thực hiện tư tưởng chiến lược của giáo dục
bảo đảm sự công bằng trong xã hội, bảo đảm điều kiện để những người
học giỏi phát triển tài năng. 3) Thực hiện tnh thần dạy học phân hóa trong
dạy học tự chọn nhằm phát huy cá tính và sự sáng tạo của học sinh, thỏa
mãn sự phát triển từng cá thể học sinh. 4) Thúc đẩy phong trào thi đua dạy
tốt học tốt, nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực sư phạm cho giáo
viên. Câu 2: xem mục 2 của chương. Nêu và phân tích các nguyên tắc bồi
dưỡng học sinh giỏi môn tếng Việt ở tểu học. Nêu tên các nguyên tắc và
phân tích yêu cầu của mỗi nguyên tắc. 1) Nguyên tắc bám sát mục têu,
chương trình Tiếng Việt ở tểu học. 2) Nguyên tắc đề cao sự sáng tạo, tính
tích cực của học sinh. 3) Nguyên tắc bảo đảm tính tích hợp. 4) Nguyên tắc
tính đến đặc điểm của học sinh tểu học. 5) Nguyên tắc bảo đảm tính hấp
dẫn. Câu 3: xem mục 3 của chương Nêu mục têu và nhiệm vụ của việc bồi
dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt. Mục têu của việc bồi dưỡng học sinh
giỏi tếng Việt là bồi dưỡng lẽ sống, tâm hồn, hứng thú với tếng mẹ đẻ,

bồi dưỡng năng lực tư duy và khả năng ngôn ngữ, cảm thụ văn chương cho
học sinh, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại.
Nhiệm vụ của việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn tếng Việt ở tểu học.
1) Phát hiện những học sinh có hứng thú học tập và năng khiếu tếng Việt.
2) Bồi dưỡng hứng thú tếng Việt cho học sinh. 3) Bồi dưỡng vốn sống cho
học sinh. 4) Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng tếng Việt cho học sinh.
Chương II BỒI DƯỠNG HỨNG THÚ HỌC TẬP VÀ VỐN SỐNG CHO HỌC
SINH GIỎI TIẾNG VIỆT Trước khi đi vào bàn về việc bồi dưỡng hứng thú


học tập tếng Việt và bồi dưỡng vốn sống cho học sinh giỏi, chúng ta cần
phải xác định các đối tượng học sinh được bồi dưỡng tức là chúng ta cần
phải phát hiện học sinh giỏi tếng Việt. Thực ra cách gọi “học sinh giỏi tếng
Việt” là cách nói để gọi những học sinh có năng khiếu và hứng thú với tếng
Việt. 1. PHÁT HIỆN NHỮNG HỌC SINH CÓ HỨNG THÚ HỌC TẬP VÀ NĂNG
KHIẾU TIẾNG VIỆT Chương trình Tiếng Việt không có môn Văn nhưng vẫn
hướng đến hình thành năng lực văn. Mục đích này được thực hiện tích hợp
qua dạy tếng mẹ đẻ (tếng Việt), vì vậy ở tểu học, nói giỏi môn Tiếng Việt
cũng có nghĩa là có năng lực tếng Việt và văn học. Để phát hiện những học
sinh có hứng thú và năng khiếu môn tếng Việt, cần trả lời được câu hỏi
thế nào là học sinh có năng khiếu tếng Việt. Thuật ngữ "năng khiếu" được
dùng ở đây không định chỉ một khả năng gì đặc biệt, mà nhằm chỉ đặc điểm
của một số HS có thiên hướng và năng lực hơn các em khác về một lĩnh vực
nào đó. Những học sinh có năng khiếu tếng Việt có những biểu hiện sau: Các em có lòng say mê văn học, có hứng thú với nghệ thuật ngôn từ, các em
yêu thích thơ ca, ham mê đọc sách báo, thích nghe kể chuyện. Có những em
có ước mơ trở thành nhà văn còn nói chung, biểu hiện có hứng thú và năng
khiếu tếng Việt ở phần lớn các em là thích thú quan sát, quan tâm đến mọi
người và mọi vật ở xung quanh, không hờ hững trước vẻ đẹp của ngôn từ
văn chương, thích đọc, ghi nhớ và ghi chép những câu văn, thơ hay. - Các
em có những phẩm chất tư duy cần cho sự phát triển năng lực tếng Việt

và văn học. Đây là những phẩm chất tư duy có tính thống nhất nhưng
không đồng nhất: tư duy phân loại, phân tích, trừu tượng hoá, khái quát
hoá… rất cần có để học tốt tếng Việt và tư duy hình tượng, cụ thể rất cần
để học giỏi văn. Năng lực tư duy tếng Việt và văn học thể hiện ở năng lực
quan sát, nhận xét ngôn ngữ của mọi người và ngôn ngữ của chính mình.
Khả năng này xuất hiện từ rất sớm, có những em bé ngay từ những ngày
đầu tên đến trường đã có những nhận xét về ngôn ngữ “Người ta nói mặc
áo mà không nói mặc tất, mẹ nhỉ?”; “Nói ăn cơm vã là sai phải không mẹ?”,
“Cô con hay nói “coi như là”, “Bạn Hùng không nói cháu ăn no rồi mà nói
cháu ăn lo rồi mẹ ạ”, “Mẹ đừng nói giọng như thế (lên giọng gắt, mắng),
con không thích đâu”. Ở lớp Một, một số em đã phát hiện ra âm a ngắn, ơ
ngắn khi nhận xét: “Đáng lẽ sách phải viết ău, ăi, ớ (ơ có dấu á ở trên) -nờ
thì mới đúng là ân”. Nhiều em đã biết sử dụng hàm ngôn… Bên cạnh khả
năng quan sát ngôn ngữ, những HS có năng khiếu về môn Tiếng Việt còn


biết quan sát thực tế, biết liên tưởng, tưởng tượng, biết tư duy nghệ
thuật - cụ thể, giàu cảm xúc. Có những em ngay từ lứa tuổi mẫu giáo khi
nhìn trăng bị mây che đã nói: “Trăng đắp chăn”; còn trăng trong thơ của cậu
bé Trần Đăng Khoa thì "Trăng tròn như mắt cá / Không bao giờ chớp mi”. Có
khả năng tư duy nghệ thuật cũng có nghĩa là biết tếp nhận văn chương
theo cách riêng của nó, khác với lôgic thông tục của đời thường. Đó là khả
năng nghe được, đọc được những gì ẩn dưới những chuỗi âm thanh, ẩn
dưới các dòng chữ. Ví dụ, những em học sinh có năng lực tư duy nghệ
thuật khi đọc hai câu thơ: “Con xót lòng mẹ hái trái bưởi đào / Con nhạt
miệng có canh tôm nấu khế”. (Mẹ - Bằng Việt) sẽ hiểu được rằng hai câu
thơ này đã nói một cách vừa hình ảnh, cụ thể, vừa khái quát một điều: Mẹ
lúc nào cũng sẵn sàng chăm sóc con, lo lắng cho con, sẵn sàng làm tất cả
những gì mà con cần. Trong khi đó, một số em học sinh khác không có khả
năng tư duy nghệ thuật, chỉ biết hiểu "thật thà", theo lối đời thường,

không hiểu nội dung hai câu thơ này lại thắc mắc: Tại sao xót lòng, mẹ lại
cho ăn bưởi? Như thế thì mẹ chỉ làm cho con xót lòng thêm. Từ đó chúng ta
hiểu rằng biết tư duy nghệ thuật nghĩa là có khả năng tếp nhận vẻ đẹp của
ngôn từ, cách nói của văn chương, phát hiện được tín hiệu nghệ thuật của
ngôn từ và đánh giá được chúng trong việc biểu đạt nội dung. Năng lực
tếng Việt còn được thể hiện rõ ở khả năng sử dụng ngôn ngữ. Trước hết
đó là khả năng sử dụng từ. Trong nói, viết, những học sinh giỏi tếng Việt
thường sử dụng nhiều tính từ, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình, sử dụng
những câu có nhiều thành phần phụ như định ngữ, bổ ngữ. Câu văn của các
em sáng sủa, rõ ý. Các em ít viết những câu khô khan, không có cảm xúc,
tức là những câu chỉ có nghĩa sự vật, mà thường viết những câu văn giàu
cảm xúc, bộc lộ được sự đánh giá, tình cảm của mình với hiện thực được
nói tới, những câu văn có nghĩa liên cá nhân và nhiều khi còn có cả chức
năng thẩm mĩ. Chúng ta thử so sánh hai cách diễn đạt của một học sinh
trung bình và một học sinh khá tếng Việt: - Chúng em đã đến thăm Quảng
trường Ba Đình. Quảng trường này rất có ý nghĩa vì tại đây Bác Hồ đã đọc
Tuyên ngôn độc lập. Cũng vì thế, lăng Bác được dựng ở đây. - Thế là chúng
em đã được đến Quảng trường Ba Đình lịch sử. Nơi đây Bác Hồ đã đọc
Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam. Cũng chính nơi đây, toàn dân
ta đã chung sức xây lên nơi an nghỉ cuối cùng của Người. Bài viết trung bình
chỉ nêu sự kiện, thuyết phục trí tuệ. Đoạn viết khá thì không chỉ nêu sự kiện


mà còn bộc lộ thái độ, sự bình giá, cảm xúc của người viết. Vì vậy, nó không
chỉ tác động vào lí trí mà còn tác động vào tình cảm của người đọc. Tóm lại,
có những biểu hiện khá rõ ở học sinh có năng khiếu tếng Việt - văn học: say
mê đọc sách, thích quan sát cuộc sống, nhạy bén với ngôn từ nghệ thuật,
biết tếp nhận hình tượng và phần nào biết sử dụng lớp ngôn từ và cách
diễn đạt thuộc phong cách văn chương. Những định hướng để xác định
năng lực tếng Việt - văn học cho ta thấy khả năng này xuất hiện ở trẻ em

rất sớm. Vậy cần đặt vấn đề phải phát hiện những học sinh có năng khiếu
tếng Việt từ lúc nào? Và kèm theo đó là nên tổ chức bồi dưỡng học sinh
giỏi tếng Việt từ lớp nào? Trên thực tế, có nhiều trường khi chuẩn bị thi
học sinh giỏi mới tập trung một số buổi để ôn luyện, nhiều trường bắt đầu
bồi dưỡng từ lớp 4, có trường bắt đầu bồi dưỡng từ lớp 2. Có thể nói, việc
bồi dưỡng học sinh giỏi càng bắt đầu sớm bao nhiêu càng có hiệu quả bấy
nhiêu, nhưng trong điều kiện hiện nay, theo định hướng dạy học tự chọn
sẽ bắt đầu từ lớp 3, việc bồi dưỡng HS giỏi tếng Việt cũng bắt đầu từ lớp
3. Để phát hiện những học sinh có năng khiếu tếng Việt - văn học cần có sự
điều tra bằng các phép đo nhằm khảo sát, tìm hiểu về hứng thú, khả năng
tư duy và ngôn ngữ của các em. Khi học sinh đi học, người giáo viên có
nhiệm vụ theo dõi để nắm quá trình học tập của học sinh, phát hiện những
biểu hiện đáng chú ý về năng lực tếng Việt - văn học của các em, tìm hiểu
hứng thú của các em qua số lượng, nội dung sách các em đọc… Để tìm hiểu,
thử thách năng lực tếng Việt và văn học của học sinh, nên đưa ra những
bài tập luyện từ và câu cho các em làm, đưa những tác phẩm văn thơ cho
các em đọc. Giáo viên cần xác định các em đã giải bài tập ra sao, các em đã
tếp nhận tác phẩm như thế nào. Những phản ứng cụ thể của các em đối
với từng bài tập, từng tác phẩm văn học sẽ
giúp giáo viên sớm phát hiện năng lực của chúng. Tiếp đó, giáo viên yêu cầu
học sinh trình bày miệng một vấn đề hoặc viết đoạn văn để xác định vốn
sống, vốn văn học của các em như thế nào, các em có cảm xúc ra sao, vốn
từ có phong phú không, sử dụng từ có chính xác không, đặt câu, viết đoạn,
bài như thế nào. Những nội dung tìm hiểu này cần được lập thành phiếu
điều tra cho từng em. Phiếu điều tra thường có các nội dung cụ thể sau: Hoàn cảnh gia đình và bản thân học sinh: nơi sống, quan hệ trong gia đình,
nghề nghiệp của bố mẹ, mức sống chung của gia đình. Học sinh: sức khoẻ,
học tập, lao động, vốn sống, vốn đọc, hứng thú như thế nào. - Bài tập


luyện từ và câu, kiểm tra từ, kiểm tra các kiến thức kĩ năng về câu. - Đề bài

yêu cầu học sinh viết đoạn văn ngắn miêu tả hay kể chuyện để kiểm tra
khả năng tưởng tượng, cảm xúc và năng lực diễn đạt của các em. Khi lập
phiếu điều tra cần chọn những bài tập ngoài chương trình. Nếu sử dụng
các bài tập trong sách bài tập nâng cao cũng cần có sự điều chỉnh để tính
khách quan của phép đo được bảo đảm. 2. BỒI DƯỠNG HỨNG THÚ HỌC
TẬP TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH Hứng thú có vai trò rất quan trọng trong
học tập và làm việc, không có việc gì người ta không làm được dưới ảnh
hưởng của hứng thú. M. Gorki từng nói “Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối
với công việc”. Vì vậy, bồi dưỡng hứng thú học tập rất quan trọng. Hứng
thú không tự nhiên nảy sinh và khi đã nảy sinh nếu không duy trì, nuôi
dưỡng cũng có thể bị mất đi. Hứng thú học tập trước hết được tạo ra
bằng cách làm cho HS ý thức được lợi ích của việc học để tạo động cơ học
tập. Ngay từ những ngày HS mới đến trường, chúng ta cần làm cho các em
nhận thức về lợi ích của việc học một cách tích cực và thiết thực với các
em "Con mà biết chữ thì thật là thú vị. Cô có thể viết cho con lời nhắn, con
có thể đọc truyện…", "Con làm được một đồ chơi đẹp, vẽ được một bức
tranh đẹp, làm thế nào để mẹ và cô biết là của con. Hãy học để viết tên lên
đồ chơi và tranh nhé!", "Và đây là căn nhà đầy đồ chơi. Chìa khóa để mở có
ghi một chữ, ai biết đọc sẽ mở được ngay", "Còn đây là một vương quốc
thật diệu kì dành cho những người biết đọc, biết viết"… Với mỗi bài học cụ
thể, giáo viên cần giúp cho học sinh nhận ra tính lợi ích của một nội dung
nào đó. Chẳng hạn, sự cần thiết của dấu phẩy sẽ được làm rõ khi chỉ ra sự
khác nhau về nghĩa của hai câu: " Đêm hôm, qua cầu gãy" và " Đêm hôm
qua, cầu gãy". Tính lợi ích của một nội dung dạy học cũng được thể hiện rõ
khi chúng ta đặt ra sự đối lập giữa "có nó" và "không có nó", ví dụ: Điều gì
sẽ xảy ra khi chúng ta không có chữ viết? Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta
không có những từ đồng nghĩa, không có câu ghép?... Chẳng hạn, để thấy
rõ lợi ích của phép thế đồng nghĩa, sách giáo khoa đã đưa ra hai đoạn văn:
một đoạn bị lặp từ vì chỉ dùng Hưng Đạo Vương để gọi Trần Hưng Đạo:
"Đã mấy năm vào Vương phủ Vạn Kiếp, sống gần Hưng Đạo Vương, chàng

thư sinh họ Trương thấy Hưng Đạo Vương luôn điềm tĩnh. Không điều gì
khiến Hưng Đạo Vương có thể rối trí. Hưng Đạo Vương không quên một
trong những điều hệ trọng để làm nên chiến thắng là phải cố kết lòng
người. Chuyến này, Hưng Đạo Vương lai kinh cùng nhà vua dự Hội nghị


Diên Hồng. Từ đấy, Hưng Đạo Vương sẽ đi thẳng ra chiến trận. Vào chốn
gian nguy, trước vận nước ngàn cân treo sợi tóc mà Hưng Đạo Vương vẫn
bình thản, tự tn, đĩnh đạc đến lạ lùng." Đặt trong thế đối lập với một đoạn
văn đã dùng các cách gọi rất khác nhau để nói về Trần Hưng Đạo khiến cho
đoạn văn này không những không bị lặp từ mà còn tăng thêm nội dung
thông báo:
"Đã mấy năm vào Vương phủ Vạn Kiếp, sống gần Hưng Đạo Vương, chàng
thư sinh họ Trương thấy Ông luôn điềm tĩnh. Không điều gì khiến vị Quốc
công Tiết chế có thể rối trí. Vị chủ tướng tài ba không quên một trong
những điều hệ trọng để làm nên chiến thắng là phải cố kết lòng người.
Chuyến này, Hưng Đạo Vương lai kinh cùng nhà vua dự Hội nghị Diên Hồng.
Từ đấy, Ông sẽ đi thẳng ra chiến trận. Vào chốn gian nguy, trước vận nước
ngàn cân treo sợi tóc mà Người vẫn bình thản, tự tn, đĩnh đạc đến lạ
lùng." (Theo Lê Vân - Tiếng Việt 5, Tập 2, trang 76 ) Không có con đường
nào khác để làm nảy sinh và duy trì hứng thú của học sinh với tếng Việt và
văn học ngoài cách giúp các em thấy được sự thú vị, vẻ đẹp và khả năng kì
diệu của chính đối tượng học tập tếng Việt, văn chương. Từng giờ, từng
phút trong giờ Tiếng Việt, người giáo viên đều hướng đến hình thành và
duy trì hứng thú cho học sinh. Đó có thể là một lời vào bài hấp dẫn cho giờ
tập đọc: “Đây là một con chim sẻ rất nhỏ bé. Thế nhưng nhà văn Tuốc-ghênhép đã kính cẩn nghiêng mình thán phục trước nó, vì sao vậy? Chúng ta
hãy cùng nhau đọc bài Con sẻ để trả lời câu hỏi này”. Đó có thể là việc lựa
chọn ngữ liệu thú vị cho giờ Luyện từ và câu: Dạy đồng âm mà chọn những
câu "Hổ mang bò vào rừng", "Con ngựa đá đá con ngựa đá, con ngựa đá
không đá con ngựa", “Hoa mua ở bên đường”, "Con ruồi đậu mâm xôi đậu"

chắc chắn thú vị hơn chọn hai câu "Em thích ăn xôi đậu", "Con chim đậu
trên cành". Bài tập về từ loại mà chọn các từ đa từ loại chứa hiện tượng
chuyển loại của từ tếng Việt như "hay", "kén”, “cân”… chắc chắn là thú vị
hơn chọn các từ "học tập", "nhà cửa". Hứng thú của học sinh cũng được
khơi dậy từ việc chỉ ra vẻ đẹp của một từ, cái hay của một tình tết truyện,
chẳng hạn: Tiếng hót của chim chiền chiện không phải “ríu rít”, “thánh
thót” mà "ngọt ngào", "long lanh", "chan chứa" thì mới gây ấn tượng. Hoa
sầu riêng nở "tím ngát" chứ không phải chỉ "tím ngắt" hay "ngan ngát". Như
thế thì mới có cả màu hoa, hương hoa chỉ trong một từ. Tình tết người mẹ
cho hồ nước đôi mắt của mình để tìm đường đến chỗ Thần Chết đòi trả lại


con trong chuyện Người mẹ của An-đéc-xen đến nay còn lay động tâm can
biết bao người... Ngay cả những vấn đề lí thuyết ngữ pháp khô khan cũng
đều có thể gây hứng thú cho HS nếu chúng ta biết khai thác những đặc
điểm thú vị của tếng Việt; chẳng hạn đó là mối quan hệ giữa kiểu nghĩa và
cấu tạo từ, giá trị gợi tả gợi cảm của lớp từ láy, quy luật chuyển nghĩa của
từ nhiều nghĩa; khả năng tạo những "định danh nghệ thuật", ''đồng nghĩa
kép" của hiện tượng đồng nghĩa, sự bất ngờ thú vị của hiện tượng đồng
âm v.v.. Ví dụ để thấy được tính đa dạng của nghĩa từ láy, giáo viên có thể
cho học sinh tạo ra các từ láy từ tếng “nhỏ”, tếng "xấu" và yêu cầu các em
xem xét về nghĩa của “nho nhỏ”, “nhỏ nhắn”, “nhỏ nhen” có gì khác nhau,
nghĩa của "xấu xa", "xấu xí" có gì khác nhau. Những kiến thức ngữ pháp nên
được xem xét dưới góc độ của người sử dụng ngôn ngữ sẽ gây được hứng
thú. Ví dụ, dạy bài “Danh từ riêng” có thể bắt đầu bằng cách nhận xét về
cách đặt tên của người Việt. Khi dạy “Đại từ nhân xưng”, có thể cho học
sinh nhận xét về văn hoá của người Việt trong cách xưng hô. Học sinh chưa
hiểu hết được sự tế nhị trong cách xưng hô của người Việt và không phải
em nào cũng biết xưng hô với bạn bè, cha mẹ, người thân một cách có văn
hoá nên phát hiện này đối với các em cũng là điều thú vị… Không có cách gì

tạo ra hứng thú với tếng mẹ đẻ và văn chương ngoài con đường cho trẻ
tếp xúc trực tếp, càng nhiều càng tốt với những tác phẩm văn chương,
những mẫu hình sử dụng ngôn ngữ mẫu mực vì “Không làm thân với văn
thơ thì không nghe thấy được tếng lòng chân thật của nó”. (Lê Trí Viễn).
Hứng thú với tếng Việt - văn chương còn được tạo ra bằng cách sử dụng
các thông tn bên lề giờ học (Ví dụ: Dạy bài Hạt gạo làng ta, giáo viên sẽ kể
cho học sinh nghe một vài giai thoại về thi sĩ thần đồng Trần Đăng Khoa) và
những hoạt động ngoài giờ lên lớp (kể cho các em nghe về cuộc đời riêng
của các nhà văn, nhà thơ nổi tếng, và nếu có thể, cho các em gặp gỡ các
tác giả, tổ chức những cuộc nói chuyện thơ văn cũng như các hình thức
ngoại khoá tếng Việt khác…). Ngoài việc khai thác sự lí thú trong chính nội
dung dạy học - bản thân đối tượng tếng Việt, hứng thú của HS còn được
hình thành và phát triển nhờ các thủ pháp dạy học, hình thức tổ chức dạy
học phù hợp với sở thích của các em. Đó chính là cách tổ chức dạy học
dưới dạng các trò thi đố, các trò chơi. Bên cạnh đó việc thiết lập được mối
quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa thầy và trò, giữa các trò cũng sẽ tạo
hứng thú cho học sinh. Hình thức tổ chức dạy học hấp dẫn cùng với một


bầu không khí thân ái hữu nghị trong giờ học sẽ tạo ra sự hứng thú cho cả
thầy và trò. Bởi vì, học là hạnh phúc không chỉ vì những lợi ích mà nó mang
lại, mà hạnh phúc còn nằm ngay trong chính sự học. Cần hiểu điều này như
hiểu câu nói của Mác: "Hạnh phúc là đấu tranh" không chỉ bởi những thành
quả đấu tranh mang lại mà còn bởi chính trong đấu tranh có hạnh phúc.
Chính vì vậy, bên cạnh việc giáo dục tính mục đích, tính kỉ luật, ý thức về
trách nhiệm v.v… cho học sinh, chúng ta phải tổ chức cuộc sống ở trường
thật hấp dẫn, tạo niềm vui, phải phấn đấu sao cho "Mỗi ngày các em đến
trường là một ngày vui". Mỗi HS mong muốn và phải là người được hạnh
phúc ngay ngày hôm nay, còn chúng ta sẽ là người kém cỏi nếu mỗi giây
phút tếp xúc với chúng ta, các em không được vui sướng, hạnh phúc. Bởi

vậy, chúng ta phải thường xuyên tìm hiểu HS muốn việc học diễn ra như
thế nào, cái gì làm các em thích, cái gì làm các em không thích để có thể tổ
chức quá trình dạy học như các em mong đợi. Để tạo hứng thú cho học
sinh, người giáo viên tểu học cần biết tổ chức quá trình dạy học theo một
chiến lược lạc quan: chú trọng vào mặt thành công của trẻ. Chúng ta cần
tập cho mình có một cách nhìn: học sinh tểu học em nào cũng ngoan, em
nào cũng giỏi, em nào cũng cố gắng. Chỉ có em này ngoan, giỏi, cố gắng
nhiều hơn, em kia ngoan, giỏi, cố gắng ít hơn mà thôi. Giáo viên Tiểu học
phải có một phẩm chất đặc biệt, biết cách cư xử đặc biệt với học sinh. Đó
là thái độ nâng đỡ, khích lệ, thông cảm, chú trọng vào mặt thành công của
các em. Đó là khả năng biết tự kiềm chế, khả năng đồng cảm với học sinh,
khả năng làm việc kiên trì tỉ mỉ. Đó là khả năng biết tổ chức quá trình dạy
học một cách nhẹ nhàng tự nhiên không gây căng thẳng cho học sinh.
Chúng ta phải có sự hiểu biết về học sinh, hình dung thấy hết những khó
khăn mà các em gặp phải trong học tập để bình tĩnh trước những sai sót
của các em và có biện pháp phòng ngừa. Chú trọng vào mặt thành công,
chúng ta phải đề cao tính sáng tạo của học sinh. Cần phải biết tỏ ra ngạc
nhiên, vui sướng, cần phải tôn trọng những sáng tạo của học sinh, dù rất
nhỏ. Đừng tỏ ra rằng thầy luôn luôn đúng, chỉ có thầy là người nắm chân lí.
Thầy giáo cũng cần làm cho học sinh hiểu rằng thầy cũng có thể sai lầm và
cần được các em giúp đỡ. Lúc này lỗi của thầy sẽ kéo theo sự chuyển động
tư duy của học sinh. Các em sẽ sung sướng vì được làm người đầu tên tìm
ra chân lí. Việc chú trọng vào mặt thành công của trẻ đòi hỏi chúng ta phải
xây dựng cac nhiệm vụ dạy học sao cho bảo đảm để các em có những


thành công chắc chắn đầu tên chứ không phải là những thất bại cay đắng
đầu tên. Điều cuối cùng chúng ta cần chú ý là cách kiểm tra đánh giá. Việc
đòi hỏi dạy học phải nghiêm khắc và đặt ra yêu cầu cao với học sinh không
có nghĩa là cho phép chúng ta khắt khe trong đánh giá và chặt chẽ khi cho

điểm. Một trong những nguyên nhân khiến học sinh không thích học tếng
Việt bằng học Toán là do cách cho điểm của chúng ta. Đọc, viết như thế
nào, giáo viên cũng
có thể tìm ra chỗ “có thể chê được”. Còn về điểm số thì các em dễ dàng cố
gắng để được điểm 9, điểm 10 toán hơn, còn đoc, viết được điểm 8 là tốt
quá rồi (!). Chúng ta cần phải tự đặt ra câu hỏi “Ta có thể đặt ra yêu cầu gì
với học sinh tểu học để đánh giá cho điểm hợp lí đặng khuyến khích, kích
thích học sinh học tốt hơn?”. Đạt được thành công trong học tập sẽ tạo ra
hứng thú và niềm say mê trong học tập ở học sinh. Chỉ có thành công, niềm
tự hào về thành công, cảm giác xúc động khi thành công mới là nguồn gốc
thật sự của ham muốn học hỏi. 3. BỒI DƯỠNG VỐN SỐNG CHO HỌC SINH
Hiện nay, trong trường học, chúng ta dạy tập làm văn nói chung và bồi
dưỡng tập làm văn cho học sinh giỏi nói riêng thường thiên về dạy các kĩ
thuật làm bài mà không cung cấp các chất liệu sống, cái tạo nên nội dung
bài viết. Thường giáo viên ra một đề bài và hướng dẫn kĩ thuật làm bài. Còn
học sinh thì gắng đọc thật nhiều bài văn mẫu, xào xáo lại, thậm chí có em
bê y nguyên bài văn của người khác vào bài của mình. Em nào xào xáo khéo,
nghĩa là không “Râu ông nọ cắm cằm bà kia” thì được xem là viết văn khá,
nghĩa là giỏi chép văn. Khi thấy một em học sinh ngồi trước một đề văn
hàng 15-20 phút chưa viết được, thầy cô giáo thường cho rằng các em
không nắm vững lí thuyết viết thể văn nọ, thể văn kia mà không hiểu rằng
các em không có hứng thú viết vì đã không tạo được quan hệ thiết thân
giữa bản thân và đề bài - đối tượng của miêu tả, kể…, nghĩa là các em
không có nội dung, không có gì để nói, để viết về cái đó. Nguyên nhân của
tình trạng không có gì để viết là do HS thiếu hụt vốn sống, vốn cảm xúc.
Cũng như vậy, có rất nhiều bài tập tếng Việt học sinh không làm được vì
thiếu vốn sống. Ví dụ, nhiều học sinh không điền được bộ phận chỉ “Ai” vào
chỗ trống: “… là thành phố hoa phượng đỏ” vì các em không biết thành phố
nào là thành phố hoa phượng đỏ. Chính vì vậy phải đặt vấn đề bồi dưỡng
vốn sống cho HS. Trước hết đó là vốn sống trực tếp: giáo viên cho các em

quan sát, trải nghiệm những gì sẽ phải nói, viết. Ví dụ, chúng ta cần hướng


dẫn các em quan sát con đường từ nhà tới trường trước khi yêu cầu tả nó,
tổ chức cho các em tham quan một danh lam thắng cảnh của địa phương
trước khi yêu cầu các em giới thiệu về một cảnh đẹp của địa phương mình.
Tất nhiên chúng ta cần làm cho vốn sống thực này không cản trở trí tưởng
tượng phong phú của học sinh. Nhưng trí tưởng tượng dù bay bổng đến
đâu vẫn phải có cơ sở, bắt nguồn từ đời sống thực. Một em học sinh ở
vùng rừng núi xa xôi chưa từng thấy một chiếc cặp không thể tả đúng chiếc
cặp và có cảm xúc với nó; cũng như không thể tả “cây chuối đang trổ
buồng”, “cây bàng đang thay lá” khi chưa hề nhìn thấy chúng lần nào. Các
em cũng không thể gây xúc động cho ai khi phải tả “con lợn nhà em” trong
khi nhà chưa bao giờ nuôi lợn. Cần tổ chức tốt quá trình quan sát, tham
quan thực tế của học sinh. Khi các em tham quan, thầy giáo cần đóng vai
trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em.
Sau khi các em đã quan sát, làm quen với đối tượng rồi thì cần phải viết
những bài cụ thể về những gì đã quan sát được. Bên cạnh việc tổ chức cho
HS tham quan, cần tổ chức những buổi ngoại khoá tếng Việt - văn học,
nghe nói chuyện về các nhà văn, nhà thơ, các anh hùng, các chiến sĩ cách
mạng, về những người có công với nước, về những gương người tốt, việc
tốt. Ngoài ra chúng ta còn cần tổ chức các cuộc thi ngâm thơ, nói chuyện
thơ, thi đọc diễn cảm, thi kể chuyện, sưu tầm văn học dân gian, tổ chức
thảo luận về các tác phẩm đã đọc, thi các trò chơi tếng Việt, hái hoa văn
học v.v… Vốn sống cũng được bồi dưỡng một cách gián tếp qua sách vở
bởi vì rất nhiều kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn học, khoa
học, tư tưởng tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người
đương thời đã được ghi lại trong sách vở và gần đây có cả những thông tn
trên mạng. Nếu không chịu đọc thì học sinh không thể tếp thụ nền văn
minh của loài người. Nhờ đọc nhiều, các em sẽ được tăng khả năng tếp

nhận lên nhiều lần. Từ đây các em biết tìm hiểu, đánh giá cuộc
sống, nhận thức các mối quan hệ của tự nhiên, xã hội, biết giao tếp với thế
giới bên trong của người khác, hiểu tư tưởng, tình cảm của người khác.
Đặc biệt khi đọc tác phẩm văn chương, các em không chỉ được thức tỉnh về
nhận thức mà còn rung động về tình cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp,
được khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh sáng tạo cũng như được bồi
dưỡng tâm hồn. Đọc chính là tự học, học nữa, học mãi. Chúng ta cần xây
dựng cho học sinh hứng thú và thói quen đọc sách. Phải làm cho học sinh


thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có ích cho các em suốt cả cuộc
đời, thấy được đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho
mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển. Sách báo sẽ giúp học sinh
có vốn sống, tầm nhìn, hiểu biết rộng hơn, giúp các em có khả năng phát
triển sức sáng tạo… như người xưa nói: “Trong bụng không có ba vạn
quyển sách, trong mắt chưa có núi sông kì lạ của thiên hạ thì chưa học
được văn”. Thầy giáo cần định hướng cho học sinh lựa chọn sách báo để
đọc. Đọc nhiều không có nghĩa là đọc một cách không chọn lọc. Cần chọn
những sách như thế nào? Sách báo phải đạt cả về nội dung tư tưởng và
nghệ thuật, đồng thời đó phải là những quyển sách phù hợp với đặc điểm
tâm lí và trình độ hiểu biết của học sinh, đáp ứng được nhu cầu nhiều mặt
của các em. Đó có thể là tác phẩm văn học dân gian, truyện tranh, những
tác phẩm viết về thiếu nhi, tác phẩm lịch sử, danh nhân, khoa học v.v… Đặc
biệt, cần để cho các em tếp xúc với những áng văn hay. Bởi vì trong các áng
văn hay có đầy đủ các hiện tượng ngôn ngữ thể hiện cái hay, cái đẹp, sự
độc đáo của tếng Việt. Thầy giáo cần giáo dục thái độ đọc cho các em: kiên
trì, chịu khó, không chỉ đọc để giải trí, mà đọc phải có suy nghĩ, liên hệ, rút
ra những bài học bổ ích. Cần hướng dẫn các em phương pháp đọc sách phương pháp làm việc với văn bản, với sách. Đầu tên cần tìm hiểu sơ bộ
từng cuốn sách để định hướng cho việc đọc: sách viết về cái gì, nhằm mục
đích gì. Có thể đọc lướt bằng cách đọc lời giới thiệu, lời tóm tắt, xem

chương mục hoặc có thể đọc giở lướt đi một lượt. Nhưng có những cuốn
sách cần phải đọc kĩ, đọc chậm, có suy nghĩ, ghi chép, thu hoạch về nội
dung, nghệ thuật, về những điểm nổi bật, gây ấn tượng còn đọng lại trong
tâm trí mình. Với những cuốn sách tham khảo quan trọng, cần định hướng
trước khi HS đọc bằng những câu hỏi nêu vấn đề gợi mở để các em suy
nghĩ, cảm nhận sâu sắc hơn giá trị của sách. Đọc và ghi chép sẽ giúp học
sinh nhớ được lâu hơn và làm cho các em thể hiện kịp thời những cảm xúc,
suy nghĩ của mình. Hiện nay, một số học sinh có thể sử dụng Internet để tìm
thông tn. Giáo viên cần khuyến khích các em sử dụng nguồn thông tn này
nhưng phải có những chỉ dẫn cần thiết để các em thu thập được những
nội dung thiết thực, bổ ích. Học sinh khá, giỏi còn biết cách ghi chép sổ tay
văn học: Ghi chép về nội dung và nghệ thuật của mỗi cuốn sách sau khi đã
đọc. Các em có thể chia sổ ra từng phần để ghi chép tện cho tra cứu:
những từ ngữ, câu văn hay, cách miêu tả đồ vật, loài vật, cây cối, phong


cảnh, người, cảnh sinh hoạt. Với những học sinh có điều kiện, giáo viên có
thể khuyến khích các em sử dụng những tện ích của máy vi tính để tích lũy
vốn ngôn ngữ và văn chương. Học sinh cần biết cách tóm tắt truyện, nhận
xét về nhân vật, cốt truyện, lời kể v.v... Sau khi học sinh đọc xong, thầy giáo
nên tổ chức trao đổi về cuốn sách, các thông tn đã đọc được.
HƯỚNG DẪN HỌC 1. CÁC NHIỆM VỤ CẦN THỰC HIỆN 1.1. Đọc tài liệu,
quan sát học sinh, thảo luận nhóm, phân tích những biểu hiện của học sinh
có hứng thú học tập và năng khiếu tếng Việt. 1.2. Cá nhân thiết kế các
phiếu thăm dò, đánh giá hứng thú, khả năng học tập tếng Việt của học
sinh. 1.3. Hoạt động nhóm, phân tích các phiếu thăm dò thu được để đánh
giá hứng thú, khả năng học tập tếng Việt của học sinh. 1.4. Thảo luận
nhóm, xác định những cách thức bồi dưỡng hứng thú học tập tếng Việt
cho học sinh. 1.5. Cá nhân thực hành soạn thảo những nội dung dạy học
tạo hứng thú học tập tếng Việt cho học sinh. 1.6. Trình bày trước nhóm,

trình bày trước lớp những cách thức và nội dung tạo hứng thú học tập cho
học sinh, có ví dụ minh họa. 1.7. Thảo luận nhóm, xác định những phạm vi
nội dung và cách thức tổ chức bồi dưỡng vốn sống cho học sinh. 1.8. Cá
nhân thực hành soạn thảo các chương trình hoạt động để bồi dưỡng vốn
sống cho học sinh. 1.9. Trình bày trước nhóm, trình bày trước lớp những
cách thức và nội dung bồi dưỡng vốn sống cho học sinh, có ví dụ minh họa.
2. CÂU HỎI, BÀI TẬP ĐÁNH GIÁ 2.1. Nêu và phân tích những biểu hiện của
học sinh có hứng thú học tập và năng khiếu tếng Việt. 2.2. Thiết kế các
phiếu thăm dò đánh giá hứng thú, khả năng học tập tếng Việt của học sinh
một khối lớp nào đó. 2.3. Trình bày và phân tích các kết luận sư phạm về
hứng thú và khả năng tếng Việt của học sinh theo kết quả quan sát và
phiếu thăm dò đã thu được. 2.4. Nêu và phân tích các cách thức bồi dưỡng
hứng thú học tập cho học sinh. 2.5. Soạn thảo những nội dung dạy học tạo
hứng thú học tập tếng Việt cho học sinh theo một bài học được chọn. 2.6.
Thực hiện các trích đoạn dạy học tạo hứng thú học tập tếng Việt cho học
sinh trước nhóm, trước lớp. 2.7. Nêu và phân tích những nội dung và cách
thức tổ chức bồi dưỡng vốn sống cho học sinh. 2.8. Lập chương trình hoạt
động để bồi dưỡng vốn sống cho học sinh theo một nội dung, theo một
hình thức được chọn.
3. GỢI Ý TRẢ LỜI CÂU HỎI VÀ LÀM BÀI TẬP, THỰC HÀNH Câu 1: Xem mục 1
của chương Những biểu hiện của học sinh có hứng thú học tập và năng


khiếu tếng Việt: 1) Có lòng say mê văn học, có hứng thú với nghệ thuật
ngôn từ. 2) Có những phẩm chất tư duy cần cho sự p.hát triển năng lực
tếng Việt và văn học. 3) Biết quan sát, nhận xét ngôn ngữ của mọi người và
ngôn ngữ của chính mình. 4) Biết tếp nhận văn chương theo cách riêng của
nó. Điều này có nghĩa là học sinh có khả năng tếp nhận vẻ đẹp của ngôn
từ, cách nói của văn chương, phát hiện được tín hiệu nghệ thuật của ngôn
từ và đánh giá được chúng trong việc biểu đạt nội dung. 5) Bước đầu biết

sử dụng ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ nghệ thuật, những cách diễn đạt
thuộc phong cách văn chương. Tóm lại, có những biểu hiện khá rõ ở học
sinh có năng khiếu tếng Việt - văn học: say mê đọc sách, thích quan sát
cuộc sống, nhạy bén với ngôn từ nghệ thuật, biết tếp nhận hình tượng và
phần nào biết sử dụng lớp ngôn từ và cách diễn đạt thuộc phong cách văn
chương. Câu 2: xem phần cuối mục 1 của chương Hoạt động nhóm, thảo
luận và soạn thảo: - 1 phiếu thăm dò đánh giá hứng thú học tập tếng Việt
của học sinh một khối lớp nào đó. Chú ý khi đánh giá hứng thú không chỉ sử
dụng phương pháp phỏng vấn chủ quan mà phải có cả những đo nghiệm
khách quan. - 1 phiếu thăm dò khả năng học tập tếng Việt của học sinh
một khối lớp nào đó. Ví dụ phiếu thăm dò khả năng học tập của học sinh
thời gian cuối lớp 3, đầu lớp 4: Phiếu đo nghiệm Câu 1 (2 điểm): Tìm 3
trường hợp viết với “l”, không viết với “n”. Tìm 3 trường hợp viết với “ch”,
không viết với “tr”. Câu 2 (1 điểm): Tìm 5 từ chỉ phẩm chất tốt đẹp của anh
bộ đội Cụ Hồ. Câu 3 (2 điểm): Tìm ba nhóm từ chỉ sự vật, chỉ đặc điểm tính
chất, chỉ hoạt động trạng thái có trong đoạn thơ sau: Đẹp vô cùng Tổ quốc
ta ơi ! Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói Sông Lô, hò ô tếng
hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca” (Tố Hữu) Câu 4 (2 điểm): Tìm 3
từ láy, 3 từ ghép và đặt câu với mỗi từ đó. Câu 5 (3 điểm):
Đoạn thơ: Cây dừa xanh toả nhiều tàu Dang tay đón gió, gật đầu gọi trăng
Thân dừa bạc phếch tháng năm Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao. (Trần
Đăng Khoa) Có những hình ảnh nào đẹp ? Nghệ thuật gì đã làm nên vẻ đẹp
đó ? Câu 6: Thực hành hoạt động nhóm. Thu thập các phiếu đã đo được,
thống kê, thảo luận nhóm để có các kết luận sư phạm về hứng thú và khả
năng tếng Việt của học sinh. Câu 7: xem mục 2 của chương Gọi tên và phân
tích các cách thức bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh: 1) Làm cho HS
ý thức được lợi ích của việc học để tạo động cơ học tập. 2) Giúp học sinh
thấy được sự thú vị, vẻ đẹp và khả năng kì diệu của chính đối tượng học



tập - tếng Việt, văn chương. 3) Cho học sinh tếp xúc trực tếp nhiều với
những tác phẩm văn chương, những mẫu hình sử dụng ngôn ngữ mẫu
mực. 4) Sử dụng các thông tn bên lề giờ học. 5) Tổ chức các hoạt động
ngoài giờ lên lớp. 6) Sử dụng các thủ pháp và hình thức tổ chức dạy học
phù hợp với sở thích của học sinh tểu học, đặc biệt sử dụng các trò chơi,
trò thi đố. 7) Thiết lập được mối quan hệ hợp tác tích cực tốt đẹp giữa
thầy và trò, giữa trò và trò. Đó là việc tổ chức dạy học theo một chiến lược
lạc quan, nhấn mạnh vào mặt thành công của học sinh. 8) Tổ chức kiểm tra,
đánh giá kết quả học tập theo một chiến lược lạc quan, bảo đảm công
bằng, nhấn mạnh mặt thành công, kích thích sáng tạo của học sinh. Câu 8:
Xem mục 2 của chương Theo những cách thức bồi dưỡng hứng thú học tập
cho học sinh đã nêu ở câu 4, soạn thảo những nội dung dạy học theo
những gợi ý sau: Chọn một bài học cụ thể hoặc một mạch kiến thức kĩ
năng Tiếng Việt và làm một trong những công việc sau: - Chỉ ra lợi ích của
việc học. - Nêu cách vào bài hấp dẫn. - Lựa chọn ngữ liệu thú vị. - Chỉ ra vẻ
đẹp của từ, cái hay của tình tết truyện, khai thác điểm thúc vị của từng
mạch kiến thức kĩ năng tếng Việt. - Chuẩn bị thông tn thú vị có liên quan
đến nội dung học tập để kể cho học sinh. - Chuyển bài tập thành trò thi đố,
trò chơi.



×