Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

quản trị chiến lược

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.46 KB, 32 trang )

I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA PHÒNG
CHỐNG VÀ GIẢM NHẸ THIÊN TAI ĐẾN 2020.
Việt Nam nằm trong cùng nhiệt đới gió mùa, một trong năm ổ bão của
khu vực châu Á – Thái Bình Dương, thường xuyên phải đối mặt với các loại
hình thiên tai, nhiều nhất là lũ và bão.
Trong những năm qua, thiên tai xảy ra ở khắp các khu vực trên cả nước
gâu ra nhiều tổn thất về người, tài sản, các cơ sở hạ tầng về kinh tế, văn hóa, xã
hội, tác động xấu đến môi trường. Trong 10 năm gần đây ( 1997 – 2006) thiên
tai đã làm chết, mất tích gần 7.500 người, thiệt hại ước tính chiếm khoảng 1,5 %
GDP. Do tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, Việt Nam nằm trong nhóm
nước chịu ảnh hưởng nhất của nước biển dâng và các tác động khác làm cho
thiên tai ngày càng gia tăng về quy mô cũng như chu kỳ lặp lại và khó lường.
Trong nhiều thập kỷ, đầu tư của nhà nước và công sức của nhân dân tạo
nên hệ thống cơ sở hạ tầng phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai tương đối đồng
bộ trên các vùng. Hệ thống đề sông đê biển dài trên 4.500 kim, các hồ chứa
nước lớn phục vụ cắt giảm lũ, điều tiết nước, phát điện đã căn bản định hình trên
những lưu vực sông lớn. Các công trình thủy lợi giao thống, xây dựng các khu
dân cư vượt lũ, tránh lũ, công trình chống sạt lở, các khu neo đậu tàu thuyền
tránh bão, hệ thống cảnh báo dự báo, thông tin liên lạc, cứu hộ cứu nan…. Đã có
bước phát triển, ngày cành nâng cao khả năng phòng tránh trước thiên tai của
chúng ta. Đồng bằng sông Hồng đã chống được lũ tần suất 500 năm là mức đảm
bảo cao của khu vực. Đồng bằng sông Cửu long sống chung với lũ ngày cảng
chủ động, sản xuất nông nghiệp liên tục ổn định và được mùa trong suốt thập kỷ
qua….
Xã hội hóa trong phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, huy động mọi
nguồn lực của xã hội, thực hiện phương châm nhà nước và nhân dân cùng làm
trong giai đoạn phòng ngừa ngày càng phát huy tác dụng. khi thiên tai xảy ra thì
phương châm “ Bốn tại chỗ” trở thành nguồn lực ở cơ sở để ứng phó và nhanh
chóng khắc phục, ổn định đời sống. Tinh thần tương thân tương ái, quyên góp



cứu trợ vùng bị thiên tai đã trở thành nếp sống đùm bọc “lá lành đùm lá rách”
của cộng đồng.
Tăng cường hợp tác quốc tế có tầm quan trọng về phòng, chống và giảm
nhẹ thiên tai. Việt Nam đã tích cực tham gia, có nhiều đóng góp vaof các diễn
đàn và cam kết quôc stees và khu vực về phòng chống và giảm nhẹ rủi ro thiên
tai, biến đổi khí hậu như khung hành động Hyogo, Nghị định thư Kyoto, thỏa
thuận chung Asean về hợp tác ứng phó trước thảm họa. Cộng đồng quốc tế đã
giúp đỡ Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm,
nâng cao nhận thức cộng đồng, xây dựng các mô hình trình diễn, đặc biệt là các
dự án ODA dành cho các công trình phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, các dự
án ODA không hoàn lại cho các ngành địa phương đã đem lại hiệu quả rất thiết
thực.
Trước những diễn biến tác động của biến đổi khí hậu toàn cầu, đã làm
trầm trọng thêm mức độ thiên tai ở nước ta, gây thiệt hại về kinh tế xã hội với
quy mô lớn tác động đến toàn xã hội. Công tác giảm nhẹ thiên tai luôn được coi
là một phần không thể thiếu được trong sự phát triển bền vững. Những yêu cầu
về các biện pháp giảm nhẹ đối với mọi loại nguy cơ thiên tai ngày càng tăng.
Các tiến bộ về khoa học kỹ thuật và sự hợp tác quốc tế trên lĩnh vực phòng
chống và thiên tai được đẩy mạnh, năng lực quản lý và điều hành của bộ máy
Nhà nước đối với công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai cần phải trở nên
chyên nghiệp và phản ứng lịp thời hơn. Xuất phát từ những yêu cầu trên, Chính
Phủ đã ban hành Chiến Lược Quốc gia về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai
đến 2010 làm cơ sở cho việc chỉ đạo và thống nhất hành động một cách nhất
quán và mạnh mẽ ở tất cả các cấp và cộng đồng.
II. MỤC TIÊU CỦA CHIẾN LƯỢC
1. Mục tiêu chung
Huy động mọi nguồn lực để thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống
và giảm nhẹ thiên tai từ nay đến năm 2020 nhằm giảm đến mức thấp nhất thiệt
hại về người và tài sản, hạn chế sự phá hoại tài nguyên thiên nhiên, môi trường



và di sản văn hóa, góp phần quan trọng bảo đảm phát triển bền vững của đất
nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
2. Một số mục tiêu cụ thể
Nâng cao năng lực dự báo bão, lũ, hạn hán, xâm nhập mặn, báo tin động
đất, cảnh báo sóng thần và các hiện tượng khí tượng, thuỷ văn nguy hiểm. Trọng
tâm là nâng thời gian dự báo bão, áp thấp nhiệt đới trước 72 giờ.
Bảo đảm các quy hoạch phát triển, quy chuẩn xây dựng kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội và khu dân cư trong vùng thường xuyên bị thiên tai phù hợp với
tiêu chuẩn phòng, chống bão, lũ, thiên tai của từng vùng; gắn kết quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội và các quy hoạch ngành với chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai để phát triển bền vững.
Đảm bảo 100% cán bộ chính quyền địa phương các cấp trực tiếp làm công
tác phòng, chống thiên tai được tập huấn, nâng cao năng lực và trình độ về công
tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai; trên 70% số dân các xã thuộc vùng
thường xuyên bị thiên tai được phổ biến kiến thức về phòng, chống lụt bão và
giảm nhẹ thiên tai.
Hoàn thành việc di dời, sắp xếp và ổn định đời sống nhân dân vùng
thường xuyên xảy ra thiên tai theo quy hoạch được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền phê duyệt. Trước mắt từ nay đến năm 2010, phấn đấu cơ bản hoàn thành
việc di dời dân ra khỏi các khu vực có nguy cơ cao xảy ra lũ quét, sạt lở đất và
các vùng nguy hiểm đến nơi an toàn.
Chỉ đạo phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ giữa các lực lượng tìm kiếm cứu
nạn để chủ động ứng phó khi có tình huống cấp bách xảy ra; bảo đảm việc đầu tư
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm trang thiết bị và phát triển nguồn nhân
lực phục vụ tìm kiếm cứu nạn theo nội dung Đề án quy hoạch tổng thể lĩnh vực
tìm kiếm cứu nạn đến năm 2015, tầm nhìn đến năm 2020 đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 46/2006/QĐ-TTg ngày 28 tháng 02 năm
2006.



Bảo đảm an toàn cho hệ thống đê điều ở các tỉnh từ Hà Tĩnh trở ra; nâng
cao mức chống lũ của hệ thống đê các vùng duyên hải Trung Bộ, Tây Nguyên
và Đông Nam Bộ; hoàn thành củng cố, nâng cấp hệ thống đê biển trong cả nước
để bảo vệ dân cư, phát triển kinh tế biển, bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng ven
biển.
Bảo đảm an toàn cho các hồ chứa, đặc biệt là các hồ chứa nước lớn, các
hồ chứa có khu dân cư đông đúc hoặc cơ sở chính trị, kinh tế, văn hóa, công
trình quốc phòng, an ninh quan trọng ở hạ du.
Hoàn thành 100% việc xây dựng các khu neo đậu tầu, thuyền tránh trú
bão theo quy hoạch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc nghề cá; 100% tầu, thuyền đánh
bắt xa bờ có đủ thiết bị thông tin liên lạc; ký hiệp ước cứu hộ, cứu nạn trên biển
với các nước và vùng lãnh thổ trong khu vực.
III. NHIỆM VỤ VÀ BIỆN PHÁP CỦA CHIẾN LƯỢC
1. Nhiệm vụ và giải pháp chung
1.1. Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách
Nghiên cứu xây dựng Luật Phòng, chống thiên tai trên cơ sở Pháp lệnh
Phòng, chống lụt, bão, bảo đảm phù hợp với thực tiễn của đất nước. Ban hành
các chính sách cứu trợ thiên tai cho từng vùng: sống chung với lũ, phân lũ, chậm
lũ, vùng có nguy cơ cao xảy ra lũ quét và sạt lở đất,...
Bảo đảm các yêu cầu về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai trong quá
trình lập quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Có chính sách khuyến khích các hoạt động khoa học công nghệ, thu hút
đầu tư, hợp tác quốc tế, huy động nguồn lực.cho lĩnh vực phòng, chống và giảm
nhẹ thiên tai.
Lập quy hoạch, kế hoạch, phân vùng, đánh giá nguy cơ rủi ro thiên tai để
từ đó có chính sách phù hợp cho những vùng, địa phương, các khu vực trọng
điểm, làm cơ sở cho việc chủ động phòng tránh; ban hành các quy chuẩn, hướng



dẫn kỹ thuật xây dựng công trình trong các vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng
của thiên tai; điều chỉnh, bổ sung các quy chế, quy chuẩn về dự báo thiên tai.
1.2. Hoàn thiện tổ chức
Tiếp tục kiện toàn bộ máy chỉ đạo, chỉ huy phòng, chống và giảm nhẹ
thiên tai ở các cấp, các ngành, từ trung ương đến địa phương.
Rà soát, bổ sung hoàn thiện chức năng nhiệm vụ, quy chế hoạt động, cơ
chế phối hợp của các Ban Chỉ đạo, chỉ huy phòng, chống lụt bão và tìm kiếm
cứu nạn từ trung ương đến địa phương và các Bộ, ngành liên quan.
Chuyên môn hóa đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống và giảm nhẹ
thiên tai. Nâng cấp các trụ sở làm việc đồng thời đầu tư trang thiết bị và công
nghệ bảo đảm điều kiện làm việc cho các cơ quan chỉ đạo phòng, chống giảm
nhẹ thiên tai ở các cấp.
Khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ quản lý thiên tai, các cơ sở đào
tạo, huấn luyện, các đơn vị dịch vụ công phục vụ cho phòng, chống và giảm nhẹ
thiên tai.
1.3. Xã hội hóa và phát triển nguồn nhân lực
Thực hiện chính sách xã hội hóa đối với công tác phòng, chống và giảm
nhẹ thiên tai, trong đó: tạo điều kiện cho người dân tham gia vào quá trình xây
dựng văn bản pháp luật, lập quy hoạch, kế hoạch, quản lý và giám sát việc thực
hiện các chương trình, dự án tại địa phương.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cộng đồng. Xây
dựng năng lực tự phòng ngừa thiên tai, phát huy truyền thống tương thân tương
ái, lá lành đùm lá rách trong cứu trợ thiên tai. Tổ chức lực lượng tự ứng phó tự
nguyện của cộng đồng để tham gia cứu hộ, cứu nạn. Phát huy vai trò của các tổ
chức đoàn thể xã hội trong các hoạt động chuẩn bị ứng phó, khắc phục hậu quả.
Phát triển lực lượng tình nguyện viên trong công tác tuyên truyền, vận động,
khắc phục hậu quả, phục hồi sản xuất... Khuyến khích các tổ chức cá nhân trong



và ngoài nước có các hình thức hỗ trợ đa dạng, hiệu quả cho người dân và địa
phương bị thiên tai.
Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phòng, chống và
giảm nhẹ thiên tai. Đặc biệt nguồn nhân lực cho bộ máy tổ chức quản lý, tham
mưu, điều hành công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.
1.4. Nguồn tài chính
Ngân sách nhà nước đảm bảo cho việc đầu tư các dự án phòng, chống,
giảm nhẹ thiên tai và dự phòng để xử lý, khắc phục hậu quả thiên tai. Dự trữ
quốc gia được sử dụng cho công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai trong
trường hợp cần thiết. Tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ phát triển ODA cho các dự án
phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, ưu tiên sử dụng các nguồn vốn ODA không
hoàn lại trong việc nâng cao năng lực, chuyển giao khoa học công nghệ và kinh
nghiệm quản lý.
Nhà nước giao quyền chủ động cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện
trong việc đầu tư và huy động các nguồn vốn hợp pháp vào lĩnh vực phòng,
chống và giảm nhẹ thiên tai.
Nâng dần nguồn vốn ngân sách hàng năm cho việc tăng cường năng lực
quản lý, thực hiện các dự án xây dựng mới, nâng cấp, tu bổ các công trình, các
dự án quy hoạch, các dự án tăng cường trang thiết bị dự báo, cảnh báo, cứu hộ,
cứu nạn, khắc phục hậu quả và phục hồi sản xuất.
Nhà nước có chính sách ưu tiên và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai; khuyến
khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư nghiên cứu, ứng dụng
khoa học và công nghệ tiên tiến kết hợp với các biện pháp truyền thống.
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia vào việc
cung cấp tài chính cho sự nghiệp phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, tiến hành
các hoạt động nhân đạo và từ thiện đối với vùng bị thiệt hại do thiên tai. Nghiên
cứu xây dựng quỹ tự lực tài chính, quỹ bảo hiểm về thiên tai.



1.5. Nâng cao nhận thức của cộng đồng
Tăng cường các biện pháp tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của
cộng đồng về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai. Đưa những kiến thức cơ bản
về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai vào chương trình giáo dục trong nhà
trường, nhằm giáo dục cho học sinh hiểu và biết cách đối phó với các tình huống
thiên tai; đồng thời hỗ trợ cho gia đình và cộng đồng.
Phát triển các chương trình tập huấn cho các đối tượng trực tiếp tham gia
công tác phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, chú trọng tới cán bộ quản lý, cán
bộ lập kế hoạch, cán bộ chuyên trách, cán bộ cơ sở.
1.6. Phát triển khoa học công nghệ về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai
Đẩy mạnh các hoạt động điều tra cơ bản, đầu tư nghiên cứu khoa học và ứng
dụng công nghệ mới trong lĩnh vực phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.
Hiện đại hóa hệ thống thông tin cảnh báo sớm từ trung ương đến các
vùng, miền và địa phương. Chú trọng các hình thức thông tin liên lạc có hiệu
quả, nhất là ở vùng núi, vùng biển, vùng sâu, vùng xa.
Nhà nước khuyến khích áp dụng các thành tựu khoa học công nghệ tiên
tiến nâng cao năng lực dự báo, cảnh báo, thông tin liên lạc; nâng cao năng lực
nghiên cứu theo dõi các biến đổi của trái đất, các biến động của tự nhiên trong
khu vực và lãnh thổ; khuyến khích ứng dụng công nghệ mới, vật liệu mới trong
lĩnh vực phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai.
Từng bước phát triển các chuyên ngành khoa học về thiên tai: tình trạng
khẩn cấp, quản lý thiên tai, phát triển bền vững, y tế thảm họa, phục hồi sản xuất
và môi trường sau thiên tai.
1.7. Củng cố hệ thống đê điều, hồ đập
Xây dựng, củng cố và nâng cấp hệ thống đê sông, đê biển ở mức thiết kế
phù hợp, kết hợp sử dụng đa mục tiêu phục vụ phát triển kinh tế, xã hội.


Chú trọng nâng cao chất lượng thân đê, chống xuống cấp, xoá dần các vị
trí xung yếu ở nền đê, cống dưới đê; hoàn thiện mặt cắt đê theo thiết kế, cứng

hóa mặt đê kết hợp với giao thông nông thôn.
Tăng cường đầu tư cho trồng cây phòng hộ đê điều, việc chăm sóc bảo vệ
cây phòng hộ là nhiệm vụ thường xuyên của bảo vệ đê điều.
Rà soát quy hoạch, đầu tư xây dựng nâng cao khả năng thoát lũ của các
công trình phân lũ, chậm lũ được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
Thường xuyên kiểm tra đánh giá hiện trạng công trình hồ chứa nước, sửa
chữa và nâng cấp, bổ sung, các công trình tràn sự cố để đảm bảo an toàn cho
đập; hoàn thiện các quy trình vận hành để công trình sử dụng đa mục tiêu, đặc
biệt là các hồ chứa lớn tham gia điều tiết cắt giảm lũ cho hạ lưu và cấp nước
trong mùa kiệt.
1.8. Nâng cao năng lực cứu hộ, cứu nạn
Nâng cao năng lực cứu hộ, cứu nạn cho các lực lượng chuyên trách, bán
chuyên trách và lực lượng nhân dân địa phương; tổ chức thường xuyên diễn tập
phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đối với các ngành, các địa phương. Chú trọng
bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt; nâng cao khả năng ứng cứu tại chỗ cho các
tổ chức, cá nhân, cộng đồng, đặc biệt là vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo, các phương tiện hoạt động trên sông, trên biển.
1.9. Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập quốc tế
Tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực và quốc tế trong công tác
cảnh báo, dự báo, giáo dục, đào tạo, chuyển giao công nghệ, chia sẻ thông tin,
kinh nghiệm, các bài học thực tiễn, tiến tới xây dựng các thỏa thuận, các hiệp
định hợp tác về phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, đặc biệt trong lĩnh vực cứu
hộ, cứu nạn; hợp tác với các tổ chức quốc tế trong việc thực hiện Công ước
khung của Liên Hợp quốc về biến đổi khí hậu, Nghị định thư Kyoto, Chương
trình hành động Hyogo và các chương trình khác; hợp tác với các nước trong
khu vực về quản lý khai thác bảo vệ tài nguyên nước.


2. Nhiệm vụ và giải pháp phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai cho từng vùng
2.1. Vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ

Vùng đồng bằng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ thực hiện phòng, chống lũ triệt
để; đồng thời chủ động phòng, chống bão, hạn hán, nước biển dâng... tập trung
tiến hành đồng thời các nhiệm vụ và giải pháp sau:
Tăng cường khả năng chống lũ cho hệ thống đê sông, thực hiện đồng bộ
các nội dung: lập quy hoạch phòng, chống lũ cho các hệ thống sông, rà soát,
điều chỉnh quy hoạch hệ thống đê, làm cơ sở cho công tác xây dựng, tu bổ, quản
lý, bảo vệ đê điều, cải tạo và nâng cấp công trình dưới đê, xử lý những khu vực
nền đê yếu, cứng hóa mặt đê kết hợp giao thông nông thôn.
Tiếp tục xây dựng mới các hồ chứa nước, lập quy trình vận hành các hồ
chứa lớn đã xây dựng tham gia điều tiết cắt giảm lũ, điều tiết dòng chảy mùa
kiệt để chống hạn và chống xâm nhập mặn; trồng rừng và bảo vệ rừng đầu
nguồn.
Tăng cường khả năng thoát lũ của lòng sông bao gồm: giải phóng các vật
cản ở bãi sông, lòng sông; nạo vét lòng dẫn và hoàn thiện các phương án phân
lũ.
Đối với các tỉnh ven biển, thực hiện chương trình khôi phục và nâng cấp
đê biển, trồng cây chắn sóng và trồng rừng phòng hộ ven biển. Trồng cỏ chống
xói mòn thân đê, xây dựng công trình phòng, chống xói lở.
2.2. Vùng duyên hải miền Trung, miền Đông Nam Bộ và hải đảo
Phương châm phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai cho vùng đồng bằng
ven biển miền Trung và miền Đông Nam Bộ là "Chủ động phòng, tránh, thích
nghi để phát triển", tập trung vào các nhiệm vụ và giải pháp sau:
- Quy hoạch khu dân cư, khu công nghiệp, khu du lịch; quy hoạch, xây
dựng công trình phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, công trình hạ tầng giao
thông bảo đảm chống ngập và tiêu thoát lũ.


- Chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc thù thiên tai của
vùng và tận dụng được điều kiện tự nhiên thuận lợi trên đất liền, trên biển để
phát triển; chống sự xâm lấn của các cồn cát vào vùng đồng bằng, chống hoang

mạc hóa.
- Thực hiện chương trình củng cố, nâng cấp đê điều, tận dụng và bảo tồn
các cồn cát tự nhiên để ngăn sóng thần, ngăn nước biển, ngăn mặn; xây dựng
các hồ chứa, tăng cường trồng rừng, triển khai các giải pháp tăng cường dòng
chảy mùa kiệt và nước ngầm, tăng cường các công trình thủy lợi để chống hạn,
chống úng; xây dựng các công trình phòng, chống sạt lở bờ sông, bờ biển, nạo
vét luồng lạch; xây dựng các khu neo đậu tầu, thuyền, nâng cấp và phát triển
các trạm thông tin ven biển phục vụ cảnh báo bão, nước biển dâng và sóng
thần.
- Tăng cường nghiên cứu đề xuất các giải pháp chống bồi lấp cửa sông,
nạo vét lòng dẫn tăng cường khả năng thoát lũ, kết hợp giao thông thuỷ.
2.3. Vùng đồng bằng sông Cửu Long
Phương châm phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai cho vùng đồng bằng
sông Cửu Long là “Sống chung với lũ” đảm bảo an toàn để phát triển bền vững;
đồng thời, chủ động phòng tránh bão, giông, lốc, chống xâm nhậm mặn, hạn
hán, tập trung thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp sau:
- Lập quy hoạch kiểm soát lũ, chủ động phòng tránh lũ, sử dụng hợp lý tài
nguyên đất, rừng và các điều kiện tự nhiên thuận lợi trong vùng.
- Giải pháp cụ thể về kiểm soát lũ và ngăn mặn bao gồm: xây dựng cụm
tuyến dân cư, cơ sở hạ tầng vượt lũ, tăng cường khả năng thoát lũ của hệ thống
kênh rạch, thực hiện các chương trình xây dựng đê biển, đê cửa sông, đê bao, bờ
bao, các hồ điều hòa, các công trình ngăn mặn giữ ngọt.
- Chủ động khai thác mặt lợi của lũ, nghiên cứu đầu tư khai thác tài nguyên
môi trường nước nổi, tận dụng phù sa, thau chua, rửa mặn, phát triển nuôi trồng,


đánh bắt thủy sản, giao thông thủy, du lịch sinh thái, các hoạt động văn hóa thể
thao đặc thù của vùng thường xuyên ngập lũ.
- Tăng cường hợp tác quốc tế với các nước trong lưu vực sông Mê Kông khai
thác hợp lý và bảo vệ tài nguyên nước. Tiếp tục phối hợp với các nước vùng

thượng lưu nghiên cứu các giải pháp phòng, chống lũ, duy trì dòng chẩy mùa
kiệt để ngăn mặn, giữ ngọt, các giải pháp đối phó với yếu tố nước biển dâng.
2.4. Khu vực miền núi và Tây Nguyên
Phương châm phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai ở khu vực miền núi và
Tây Nguyên là "Chủ động phòng tránh", tập trung thực hiện các nhiệm vụ và
giải pháp sau:
- Lập bản đồ vùng có nguy cơ cao về lũ quét, sạt lở đất, tai biến địa chất;
lập quy hoạch dân cư, chủ động di dời dân ra khỏi vùng nguy hiểm, quy hoạch
sử dụng đất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, quản lý việc khai thác khoáng sản
tránh gây tác động xấu đến môi trường và tăng nguy cơ về sạt lở đất; trồng và
khai thác rừng hợp lý.
- Lắp đặt hệ thống cảnh báo, hệ thống thông tin liên lạc tới cấp thôn, bản;
xây dựng các công trình phòng, chống sạt lở, lũ quét; mở rộng khẩu độ các cầu,
cống trên các tuyến đường giao thông đảm bảo thoát lũ, xây dựng hệ thống hồ
kết hợp chống lũ, chống hạn.
- Tăng cường hợp tác quốc tế về cảnh báo, dự báo thiên tai, tìm kiếm, cứu
hộ, cứu nạn với các nước có chung đường biên giới.
2.5. Trên biển
Phương châm phòng, chống thiên tai trên biển là “Chủ động phòng,
tránh” đảm bảo an toàn cho người và tàu thuyền, khai thác các nguồn lợi phát
triển kinh tế biển, tập trung thực hiện các giải pháp sau:
- Xây dựng hệ thống quản lý các phương tiện, tầu thuyền hoạt động trên
biển, đặc biệt là quản lý tầu thuyền đánh bắt hải sản và ngư dân trên biển trước
và trong khi thiên tai đang xảy ra.


- Xây dựng hệ thống thông tin liên lạc kết hợp truyền tin cảnh báo, dự báo
thiên tai tới tàu thuyền và công trình trên biển. Xây dựng lực lượng tìm kiếm
cứu nạn trên biển chuyên nghiệp, nâng cao năng lực cứu hộ, cứu nạn cho các lực
lượng bán chuyên trách của ngư dân trên các tầu, thuyền.

- Tăng cường hợp tác với các nước, vùng lãnh thổ trong khu vực về dự
báo, cảnh báo, thông tin liên lạc, tìm kiếm, cứu nạn, tạo điều kiện cho tầu,
thuyền tránh trú bão, khai thác hợp lý, an toàn các nguồn lợi trên biển.
VI. QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC TRONG
THỰC TẾ VÀ MỘT SỐ KẾT QUẢ CỤ THỂ.
1. Qúa trình triển khai thực hiện
1.1. Quán triệt các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo và nội dung cơ bản của
Chiến lược.
Sau khi ban hành Chiến lược, tại Hội nghị tổng kết công tác
PCLB&TKCN năm 2007, triển khai nhiệm vụ năm 2008, Ban Chỉ đạo
PCLBTW đã phổ biến, quán triệt các quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo, mục tiêu,
nhiệm vụ cũng như giải pháp để thực hiện Chiến lược tới Lãnh đạo các Bộ,
ngành và UBND các tỉnh, thành phố trong cả nước.
1.2. Xây dựng Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược
Thực hiện hướng dẫn của Ban Chỉ đạo PCLBTW tại Công văn số
45/PCLBTW ngày 31/3/2008, các Bộ, ngành và UBND các tỉnh, thành phố đã
triển khai xây dựng Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược. Tính đến năm
2012 đã có tổng số 13 Bộ, ngành và 63 tỉnh, thành phố xây dựng kế hoạch và
gửi về Ban Chỉ đạo PCLBTW. Kế hoạch hành động của các Bộ, ngành có nội
dung cụ thể, phù hợp với yêu cầu của Chiến lược, sát với chức năng, nhiệm vụ
của các Bộ, ngành, đồng thời có tính khả thi cao. Kế hoạch hành động của các
tỉnh, thành phố được xây dựng trên cơ sở mức độ thiên tai xảy ra trên địa bàn,
nguồn lực về con người và cơ sở vật chất.
Trên cơ sở kế hoạch thực hiện và đề xuất của các Bộ, ngành và địa
phương, Ban Chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung ương đã xây dựng Kế hoạch


thực hiện Chiến lược của quốc gia và đã được Thủ tướng Chính phủ thông qua
tại văn bản số 820/TTg-KTN ngày 29/9/2009. Bản Kế hoạch Quốc gia đã được
gửi tới các Bộ, ngành và địa phương để nghiên cứu, thống nhất thực hiện trên cả

nước.
1.3. Về xây dựng cơ chế chính sách.
Để tạo hành lang pháp lý thực hiện Chiến lược, Chính phủ, các Bộ, ngành
và UBND các tỉnh, thành phố đã xây dựng và ban hành hệ thống các văn bản
quy phạm pháp luật, gồm các nội dung:
-

Kiện toàn bộ máy chỉ đạo, chỉ huy công tác phòng chống lụt bão và Tìm kiếm

cứu nạn (Nghị định số 14/2010/NĐ-CP ngày 27/02/2010 quy định chức năng nhiệm
vụ quyền hạn và cơ chế phối hợp của cơ quan PCLB các cấp; Quyết định số
76/2009/QĐ-TTg ngày 11/5/2009 kiện toàn cơ quan TKCN các cấp);
- Chính sách hỗ trợ những vùng thường xuyên chịu ảnh hưởng thiên tai (Nghị
định 64/2008/NĐ-CP ngày 14/5/2008 về vận động, tiếp nhận, phân phối tiền
hàng cứu trợ; Quyết định số 78/2008/QĐ-TTg ngày 10/6/2008 về chính sách hỗ
trợ bố trí dân cư; Quyết định 142/2009/QĐ-TTg ngày 31/12/2009 về hỗ trợ giống
cây trồng vật nuôi; Quyết định số 49/2012/QĐ-TTg ngày 8/11/2012 sửa đổi một số
điều của Quyết định 142; Quyết định số 315/QĐ-TTg ngày 01/03/2011 về thí
điểm bảo hiểm nông nghiệp,…);
-

Các Bộ, ngành và các tỉnh, thành phố cũng ban hành nhiều văn bản hướng

dẫn và quy định về cơ chế chính sách áp dụng phù hợp với từng địa phương.
Hiện nay, Chính phủ đang chỉ đạo việc hoàn thiện dự thảo Luật Phòng chống
thiên tai và dự kiến trình Quốc hội thông qua vào kỳ họp tháng 5/2013.
2.4. Về xây dựng các Chương trình, dự án.
Trên cơ sở danh mục trong Kế hoạch quốc gia thực hiện Chiến lược, các Bộ,
ngành và địa phương đã triển khai xây dựng các chương trình, dự án, đề án trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như: Chương trình nâng cấp đê sông, Chương

trình nâng cấp đê biển, Chương trình xây dựng các khu neo đậu tầu thuyền,


Chương trình an toàn hồ chứa, Chương trình xây dựng cụm tuyến dân cư vượt lũ
giai đoạn 2, Đề án nâng cao nhận thức cộng động và quản lý rủi ro thiên tai dựa
vào cộng đồng, Đề án Hiện đại hóa công nghệ dự báo và mạng lưới quan trắc khí
tượng thủy văn, Đề án xây dựng hệ thống trực canh cảnh báo sóng thần, Đề án
xây dựng hệ thống thông tin giám sát hồ chứa, Đề án thí điểm xây nhà ở kiên cố
tránh bão lũ khu vực miền Trung, Đề án nâng cấp hệ thống thông tin quản lý
nghề cá, Thí điểm bảo hiểm nông nghiệp,…
Hiện nay, Chính phủ, các Bộ ngành Trung ương và địa phương tập trung
huy động các nguồn lực thực hiện các chương trình, đề án nhằm đảm bảo tiến độ
và mục tiêu đến năm 2020 đã đề ra trong Chiến lược.
2.5. Tăng cường hợp tác quốc tế
Để trao đổi, học tập kinh nghiệm của các nước, Việt Nam gia nhập các
hiệp ước, điều ước quốc tế về phòng chống thiên tai như Hiệp định ASEAN về
quản lý thiên tai và ứng phó khẩn cấp, Khung hành động Hyogo,…; Xây dựng
Diễn đàn quốc gia về giảm nhẹ thiên tai và thích ứng biến đổi khí hậu; tham gia
hoạt động của Trung tâm Ứng phó khẩn cấp và hỗ trợ nhân đạo khu vực
ASEAN; thực hiện diễn tập ứng phó thiên tai khu vực ASEAN tại Việt Nam,…
Thu hút nguồn lực hỗ trợ trong phòng chống thiên tai từ các tổ chức quốc tế, phi
chính phủ.
( nguồn trích từ báo cáo sơ kết 5 năm (2008-2012) thực hiện chiến lược phòng
chống và giảm nhẹ thiên tai của Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung Ương)
2. Những kết quả đạt được
Được sự quan tâm chỉ đạo của Chính phủ, nỗ lực của các Bộ, ngành
Trung ương, Ủy ban Nhân dân (UBND) các cấp và sự tham gia tích cực của
nhân dân, sau 5 năm triển khai thực hiện Chiến lược đã đạt được các kết qủa
chính sau đây:
2.1


. Thiệt hại về người do thiên tai gây ra giảm đáng kể so với 5 năm trước


Trong giai đoạn 2008-2012, do có sự chuyển biến tích cực về nhận thức
của chính quyền các cấp và nhân dân theo quan điểm đề ra trong Chiến lược
quốc gia từ bị động đối phó chuyển sang chủ động phòng ngừa, lấy phòng ngừa
là chính nên mặc dù thiên tai 5 năm sau diễn ra khốc liệt và bất thường hơn 5
năm trước nhưng thiệt hại về người do thiên tai gây ra đã giảm đáng kể so với 5
năm trước:
• Số người chết và mất tích trong 5 năm 2008-2012 là: 1.868 người, giảm
162 người so với cùng kỳ 5 năm trước, tỷ lệ giảm là 7,9%;
• Số người bị thương trong 5 năm 2008-2012 là: 2.972 người, giảm 607
người so với cùng kỳ 5 năm trước, tỷ lệ giảm là 16,9%.
Các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long là vùng giảm được nhiều nhất thiệt
hại về người, điển hình là trong trận lũ lớn năm 2011. So sánh giữa 2 trận lũ lớn
năm 2000 và 2011cho thấy trận lũ năm 2000 tổng số người chết và mất tích là
481 người, trong đó có 335 trẻ em. Năm 2011 lũ lớn tương đương năm 2000, số
người chết là 89 người, trong đó có 75 trẻ em. Đây là hiệu quả rõ rệt và thiết
thực nhất mà Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư vượt lũ, việc đưa hàng
trăm ngàn hộ dân ở vùng thường xuyên bị ngập sâu, vùng bị sạt lở đất đến nơi ở
mới an toàn hơn mang lại. Kết quả đó còn có sự đóng góp đáng kể của việc tổ
chức, quản lý trẻ em trong mùa lũ tại các điểm trông giữ trẻ tập trung cũng như
hiệu quả mang lại từ việc tổ chức dậy bơi cho trẻ em.
Thiệt hại về tính mạng đối với ngư dân hoạt động trên biển trong 5 năm
qua cũng giảm đáng kể. Đây là kết quả thiết thực của nhiều giải pháp đồng bộ
như: dự báo bão với thời gian dự kiến dài hơn; chất lượng dự báo chính xác hơn;
cảnh báo, truyền tin kịp thời hơn; cung cấp thiết bị thu, phát tin cho các tàu
thuyền, nhất là tàu đánh bắt xa bờ đã coi trọng việc trang bị các phương tiện
thông tin hơn; thông báo, hướng dẫn tàu thuyền vào nơi tránh trú an toàn được

làm quyết liệt và kịp thời hơn; sự phối hợp giữa lực lượng tìm kiếm cứu nạn
chuyên nghiệp và lực lượng tự cứu của ngư dân ngày càng chặt chẽ; hợp tác với
các nước trong khu vực về cứu hộ, cứu nạn trên biển và trú tránh tạm thời tại
một số vùng biển, đảo của nước bạn đã được thực hiện tốt hơn; đặc biệt phương


thức liên kết hoạt động khai thác hải sản trên biển theo mô hình tổ, đội của nhiều
địa phương đã phát huy hiệu quả cao cả trong sản xuất và cứu giúp lẫn nhau khi
gặp tai nạn trên biển.
Thiệt hại về tính mạng đối với nhân dân vùng ven biển do bão và áp thấp
nhiệt đới (ATNĐ) trong 5 năm qua đã giảm xuống mức rất thấp. Sở dĩ đạt được
mục tiêu đó là do chính quyền các cấp ở địa phương đã chủ động chuẩn bị chu
đáo các phương án ứng phó, chỉ đạo kiên quyết việc sơ tán kịp thời hàng chục
ngàn, thậm chí hàng trăm ngàn người trước khi bão, ATNĐ trực tiếp đổ bộ vào
đất liền để đảm bảo an toàn tính mạng con người.
Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng người chết do lũ xảy ra sau bão ở nhiều địa
phương do chủ quan, bất cẩn của một bộ phận người dân cũng như công tác
tuyên truyền, vận động động, kiểm tra, giám sát của chính quyền, Ban chỉ huy
Phòng chống lụt bão và Tìm kiếm cứu nạn (Ban Chỉ huy PCLB&TKCN) các
cấp, nhất là ở cấp cơ sở chưa thật sâu sát và thiếu kiên quyết.
2.2. Kết quả thực hiện mục tiêu bảo đảm quốc phòng, an ninh
Chương trình kiên cố hóa hệ thống đê biển đã và đang được triển khai được
xem là bước đột phá quan trọng về nâng cao mức bảo đảm an toàn đối phó với bão
và nước biển dâng trước nguy cơ biến đổi khí hậu toàn cầu ngày càng hiện hữu.
Đồng thời, các tuyến đê biển đã được nâng cấp, kiên cố hóa còn được kết hợp sử
dụng làm nhiệm vụ phòng thủ, bảo vệ bờ biển, góp phần đảm bảo quốc phòng, an
ninh trong bối cảnh tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông đang có diễn biến rất phức
tạp.
Trong 5 năm qua, việc lồng ghép công tác phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai
với nhiệm vụ quân sự theo sự chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ của Bộ Quốc phòng đã

mang lại hiệu quả thiết thực nhằm giảm nhẹ thiệt hại đối với cơ sở vật chất quốc
phòng, bảo đảm cho quân đội luôn có đủ sức mạnh để hoàn thành nhiệm vụ được
giao.
Bộ đội Biên phòng vùng ven biển phối hợp với chính quyền địa phương
và ngành Thủy sản quản lý tàu thuyền ra khơi ngày càng chặt chẽ hơn, theo dõi


sát hàng chục ngàn tàu thuyền hoạt động trên biển, hướng dẫn ngư dân ứng phó
kịp thời mỗi khi có bão, ATNĐ, góp phần giảm nhẹ thiệt hại về người và tàu
thuyền để ngư dân yên tâm bám biển đánh bắt hải sản, đồng thời tham gia có
hiệu quả việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Việt Nam.
2.3.Cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ yêu cầu phòng chống thiên tai
Cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ yêu cầu phòng chống thiên tai đã được
quan tâm đầu tư, khối lượng thực hiện tăng hơn nhiều so với 5 năm trước và đã
sớm phát huy hiệu quả.
Những đoạn đê sông xung yếu nhất thuộc vùng Đồng bằng Bắc Bộ và
Khu Bốn cũ (được Chiến lược xác định là vùng chống lũ triệt để) tiềm ẩn nguy cơ
xảy ra sự cố lớn mỗi khi có lũ cao đã được ưu tiên đầu tư, gia cố vững chắc hơn.
Hiệu quả rõ nhất của sự ưu tiên đầu tư này là trong 5 năm đầu thực hiện Chiến
lược quốc gia, toàn bộ các tuyến đê sông và đê biển từ cấp 3 trở lên đều an toàn
trước sự tác động mạnh mẽ, ác liệt của nhiều đợt lũ, bão; nhiều tuyến đê sông đã
được tôn cao, mở rộng và cứng hóa mặt đê bằng bê tông kết hợp làm đường giao
thông nông thôn phục vụ có hiệu quả phát triển KT-XH và xây dựng nông thôn
mới. Hệ thống đê biển từ Quảng Ninh đến Quảng Nam và từ Quảng Ngãi đến
Kiên Giang đã và đang được đầu tư nâng cấp và kiên cố hóa theo Chương trình đê
biển đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đây là sự thay đổi căn bản về chất
đối với hệ thống đê biển của nước ta nhằm từng bước thích ứng với thách thức
ngày càng gia tăng của biến đổi khí hậu toàn cầu và nước biển dâng tới tình hình
thiên tai ở Việt Nam.
Hệ thống cụm tuyến dân cư tránh ngập lũ vùng Đồng bằng sông Cửu Long giai

đoạn I đã hoàn thành và giai đoạn II đang được đẩy mạnh thi công đã góp phần
quan trọng vào việc thực hiện chủ trương “sống chung với lũ Đồng bằng sông
Cửu Long”, giảm thiệt hại đến mức thấp nhất về người do lũ lớn gây ra.
Đã hoàn thành 13 khu neo đậu cấp vùng (đạt 100% kế hoạch về số
lượng và vượt tiến độ đề ra cho giai đoạn 2008-2020) và đang triển khai xây
dựng 85 khu neo đậu cấp địa phương. Kết quả xây dựng các khu neo đậu đã góp


phần giảm đáng kể thiệt hại đối với tàu thuyền vào tránh trú khi có bão và
ATNĐ.
a) Hàng trăm hồ chứa thủy lợi bị xuống cấp đã được gia cố tu bổ, nâng
mức bảo đảm an toàn cao hơn trước, góp phần loại trừ nguy cơ tiềm ẩn sự cố hồ
đập đe dọa tính mạng, tài sản đối với cư dân sống ở vùng hạ du công trình.
b) Chương trình đầu tư xây dựng nhà tránh lũ cho dân ở khu vực miền
Trung đã bắt đầu được Chính phủ cho áp dụng thí điểm ở 60 xã thuộc một số
tỉnh, từ đó nhân rộng ra toàn khu vực.
c) Đề án hiện đại hóa công nghệ dự báo và mạng lưới quan trắc Khí
tượng-Thủy văn giai đoạn 2010-2012 đã được Chính phủ ưu tiên đầu tư tới hàng
ngàn tỷ đồng chỉ trong thời gian 3 năm, tạo cơ sở vững chắc cho quá trình nâng
cao chất lượng dự báo khí tượng – thủy văn trong giai đoạn mới.
d) Trang thiết bị tìm kiếm cứu nạn cho lực lượng cấp quốc gia và cấp
vùng đã và đang từng bước được đầu tư theo hướng hiện đại hóa để thực hiện
nhiệm vụ cứu hộ, cứu nạn trên biển. Bộ Quốc phòng đã triển khai 11 dự án gồm:
đóng tàu tìm kiếm cứu nạn, ứng phó sự cố tràn dầu, thiết bị ứng phó cháy nổ,
hóa chất độc, phóng xạ, thiết bị thông tin với tổng mức đầu tư khoảng 1.900 tỷ
đồng.
e) Tổng cục Thủy sản, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã hoàn
thành việc hỗ trợ 7.000 máy trực canh cho ngư dân nghèo tại 28 tỉnh ven biển.
Dự án lắp đặt 3.000 thiết bị thông tin vệ tinh cho các tàu cá hoạt động xa bờ tại
28 tỉnh ven biển đã được phê duyệt. Đến nay Tổng cục Thủy sản đã cung cấp,

lắp đặt 18 trạm bờ thuộc hệ thống thông tin hàng hải và đang tổ chức bàn giao
thiết bị lắp đặt 60 trạm kiểm soát cho Bộ tư lệnh Bộ đội biên phòng và Chi cục
Thủy sản các tỉnh. Hầu hết các tàu đánh bắt xa bờ đã được trang bị thiết bị thông
tin để theo dõi tin dự báo, cảnh báo và hướng dẫn của các cơ quan có thẩm
quyền, kịp thời thoát ra khỏi vùng nguy hiểm khi có bão, ATNĐ nên đã hạn chế
đến mức thấp nhất thiệt hại về người và tàu thuyền. Đối với các tàu cá hoạt động
gần bờ phần lớn đã có thiết bị Icom để nhận tin dự báo, cảnh báo bão, ATNĐ và
hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền trong việc ứng phó khẩn cấp. Hệ
thống đài trực canh ven biển của Bộ Giao thông Vận tải đã phát huy tác dụng


tốt, giúp duy trì thông tin liên lạc liên tục với các loại tàu, thuyền hoạt động trên
biển trong đó có các tàu cá.
2.4. Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật và cơ chế chính sách
Sau 3 năm khẩn trương tiến hành các bước soạn thảo với sự hợp tác chặt
chẽ và hỗ trợ kịp thời của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của
Quốc hội và Bộ Tư pháp, Dự án Luật Phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai được
chuẩn bị với nội dung toàn diện, công phu, đúng với quy định của Luật Ban
hành văn bản quy phạm pháp luật; sau khi được Quốc hội cho ý kiến, Ban soạn
thảo đã nghiên cứu, tiếp thu và hoàn thiện để Chính phủ trình Quốc hội thông
qua trong kỳ họp sắp tới.
Ngoài việc tập trung chỉ đạo chuẩn bị Dự án Luật phòng tránh và giảm
nhẹ thiên tai, Chính phủ còn hết sức quan tâm chăm lo hoàn thiện thể chế; kiện
toàn hệ thống tổ chức và đổi mới cơ chế phối hợp, điều hành trong chỉ đạo, chỉ
huy PCLB&TKCN. Trong hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành 5
năm qua, Nghị định 14/2010/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 27/02/2010
quy định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế phối hợp của Ban Chỉ đạo
phòng, chống lụt, bão Trung ương, Ban Chỉ huy PCLB&TKCN các Bộ, ngành
và địa phương có ý nghĩa rất thiết thực và phát huy hiệu quả rõ rệt trong phối
hợp, điều hành ứng phó với các đợt thiên tai từ năm 2010 tới nay.

Từ sau khi có Nghị định 14/2010/NĐ-CP, năng lực và hiệu quả tìm kiếm
cứu nạn của các lực lượng chuyên trách và bán chuyên trách cũng như của cộng
đồng đã được nâng lên rõ rệt, góp phần quan trọng trong việc giảm thiểu thiệt hại
do thiên tai gây ra. Hệ thống bộ máy tổ chức tìm kiếm cứu nạn thuộc Bộ Quốc
phòng được kiện toàn, củng cố đồng bộ từ Bộ đến các Quân khu, Quân đoàn,
Quân chủng, Binh chủng. Sự phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ trong điều hành, chỉ
đạo giữa các đơn vị liên quan như Trung tâm phối hợp tìm kiếm cứu nạn, Trung
tâm ứng phó sự cố tràn dầu, các trạm tìm kiếm cứu nạn trên đảo xa, các Trung
tâm quốc gia huấn luyện tìm kiếm cứu nạn đường không, đường biển và lực
lượng tìm kiếm cứu nạn của địa phương đã mang lại hiệu quả cao. Quân chủng
Hải quân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển đã chủ động hoàn thành tốt nhiệm vụ


tìm kiếm cứu nạn trên biển. Ủy ban quốc gia Tìm kiếm cứu nạn và Bộ Quốc
phòng đã phối hợp nhịp nhàng với Ban Chỉ đạo PCLBTW, cơ quan khí tượng –
thủy văn trong cập nhật thông tin về diễn biến của thiên tai và triển khai các hoạt
động tìm kiếm cứu nạn kịp thời, hiệu quả.
2.5. Về nâng cao chất lượng dự báo KT – TV và báo tin động đất, cảnh báo
sóng thần
a) Về dự báo khí tượng, thủy văn: Đến nay có thể khẳng định năng lực dự
báo bão và ATNĐ của Trung tâm Dự báo khí tượng thủy văn Trung ương đã cơ
bản đạt mục tiêu dự báo trước được 72 giờ theo quy định của Chiến lược quốc gia.
Tuy nhiên, công tác dự báo đối với một số cơn bão có cường độ mạnh (siêu bão),
diễn biến phức tạp về hướng di chuyển hoặc thay đổi đột ngột về cấp so với dự báo
ban đầu vẫn còn bị động, lúng túng, gây khó khăn cho việc chỉ đạo phòng tránh,
ứng phó.
b) Về nâng cao chất lượng báo tin động đất và cảnh báo sóng thần: Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam đã tập trung chỉ đạo thực hiện nhiều giải
pháp đồng bộ. Đối chiếu với mục tiêu đề ra trong Chiến lược quốc gia, đã đạt
được những kết quả chủ yếu sau:

- Đã nghiên cứu, xây dựng được Bản đồ phân vùng động đất trên toàn
lãnh thổ Việt Nam; bản đồ phân vùng nguy cơ ảnh hưởng sóng thần các vùng bờ
biển.
- Các trận động đất có cường độ bằng hoặc lớn hơn 3,5 độ Richter xảy ra
trên lãnh thổ Việt Nam và vùng Biển Đông gần bờ đều được Trung tâm Báo tin
động đất và cảnh báo sóng thần thông báo.
- Với các trang thiết bị hiện đại và đội ngũ chuyên gia được đào tạo tốt,
hiện nay Trung tâm Báo tin động đất và cảnh báo sóng thần có khả năng đưa ra
bản tin cảnh báo sóng thần trong khoảng thời gian từ 10 đến 15 phút kể từ khi
nhận được tin xảy ra động đất. Các nhà khoa học nước ta cũng đã xác định được
thời gian lan truyền sóng thần từ khu vực đới hút chìm Manila (vùng có nguy cơ
cao xảy ra động đất, sóng thần ở khu vực Biển Đông) tới vùng bờ biển Việt
Nam là 2 giờ. Việc xác định được thông số này có ý nghĩa rất thiết thực cho việc


xây dựng phương án ứng phó với nguy cơ sóng thần đối với các tỉnh ven biển
Miền Trung.
2.6. Nghiên cứu, ứng dụng KH-CN vào lĩnh vực PTGNTT ngày càng được
coi trọng đúng mức
Nhiều công trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ liên quan
đến thiên tai với sự tham gia của các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành trong
các lĩnh vực khác nhau thuộc nhiều Trường Đại học, Viện nghiên cứu đã được
triển khai thực hiện ngay trong 5 năm đầu thực hiện Chiến lược quốc gia. Nhiều
vật liệu, công nghệ mới, trang thiết bị hiện đại phục vụ công tác phòng tránh và
giảm nhẹ thiên tai đã được quan tâm đầu tư bởi các Bộ, ngành và địa phương.
2.7. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực PTGNTT đã thu được kết quả đáng khích
lệ cả về chất và lượng.
Việt Nam đã tích cực và chủ động tham gia vào các tổ chức, diễn đàn
quốc tế và khu vực liên quan đến phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai như: Diễn
đàn quốc tế về Giảm nhẹ thảm họa (GFDRR), Khung hành động Hyogo về giảm

nhẹ rủi ro thảm họa (HFA), Khung hành động của Liên Hợp Quốc về biến đổi
khí hậu (UNFCCC), Thỏa thuận ASEAN về giảm nhẹ và ứng phó thảm họa
(ADDMER), v.v. Ủy ban QGTKCN đã phối hợp tổ chức diễn tập tìm kiếm cứu
nạn với các nước trong khu vực như hợp tác diễn tập, hợp tác ARF, hợp tác
ADMM+. Bộ Ngoại giao đã ký kết Hiệp định với các nước lân cận về cứu hộ,
cứu nạn ngư dân và tàu thuyền tại vùng biển khi gặp nạn.
Trong 5 năm đầu thực hiện Chiến lược quốc gia, Việt Nam luôn thể hiện
là quốc gia có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế và khu vực nên đã thu hút
được nhiều nguồn vốn tài trợ và vốn vay ưu đãi cho việc thực hiện cả hai nhóm
giải pháp phi công trình và công trình, trong đó có sự hỗ trợ tích cực của Ngân
hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu Á, các tổ chức của Liên Hợp Quốc
(UNDP, FAO, UNICEF, v.v.) và các tổ chức phi chính phủ nước ngoài.
( nguồn trích từ báo cáo sơ kết 5 năm (2008-2012) thực hiện chiến lược phòng
chống và giảm nhẹ thiên tai của Ban chỉ đạo phòng chống lụt bão Trung Ương)


V. NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ.
Đánh giá chiến lược công là quá trình tổng hợp, phân tích một cách có hệ
thống chiến lược đang thực thi hoặc đã được thực thi, bao gồm đánh gí từ việc
xây dựng chiến lược đến quá trình thực hiện và các kết quả đạt được của chiến
lược.
Mục đích của việc đánh giá chiến lược nhằm xác định tình phù hợp và
mức độ đạt được các mục tiêu, hiệu quả phát triển, hiệu suất sử dụng các nguồn
lực, các tác động và tính bền vững. Đánh giá chiến lược cũng nhằm cung cấp
thông tin và các bài học giúp nhà hoạch định chiến lược đưa ra các quyết định
về dự án, chương trình có hiệu quả.
1. Ưu điểm


Chiến lược được đưa ra một cách kịp thời và phù hợp với điều kiện tự

nhiên của nước ta
Việt Nam đứng thứ 13 trong số 16 nước hàng đầu sẽ phải chịu tác động

mạnh của hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu trong 30 năm tới – báo cáo mới
nhất của cơ quan phân tích rủi ro Maplecroft (Anh) nhận định.
Nhận thức rõ những tác động nghiêm trọng của biến đổi khí hậu đến sự
phát triển bền vững đất nước, Chính phủ Việt Nam đã sớm tham gia và phê
chuẩn Công ước khung của Liên Hợp Quốc về biến đổi khí hậu và Nghị định
thư Kyoto, đồng thời đã sớm phê duyệt Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu,
Chương trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu, Chiến lược Quốc
gia về phòng chống và giảm nhẹ thiên tai.
Như vậy, có thể nói chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên
tai đến năm 2020 là một giải pháp kịp thời của chính phủ ta trong việc ứng phó
với biến đổi khí hâụ.



Đây là chiến lược tối cần thiết


Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020
được xem là một chiến lược tối cần thiết, từ khâu ban hành đến thực hiện. Trải
qua hơn 6 năm thực hiện chiến lược, từ cuối năm 2007 đến nay, có thể thấy
nhiều kết quả khả quan mà chiến lược này mang lại đối với đời sống người dân.
Cùng với những chính sách khác mà nhà nước ta đã và đang triển khai, chiến
quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đến năm 2020 cũng đã đang và sẽ
góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, giảm
những thảm họa mà thiên nhiên mang đến cuộc sống con người.
Căn cứ vào mục tiêu và những kết quả đạt được bước đầu của chiến lược,
chúng ta có thể nói rằng những mục tiêu mà chiến lược đề ra rất khả thi, phù hợp

với tình hình thực tế của đất nước và điều kiện khí hậu Việt Nam. Ngày nay, khi
mà xu hướng biến đổi khí hậu ngày càng phức tạp, những mục tiêu của chiến
lược ngày càng khó đạt được. Tuy nhiên,với nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân ta,
cộng với những kết quả đạt được nêu trên thì thực tế chứng minh rằng kết quả
thực hiện là phù hợp với mục tiêu đề ra ban đầu.
Ví dụ cụ thể:
Chiến lược này cảnh báo rằng, đến cuối thế kỷ 21, nhiệt độ trung bình có
thể tăng thêm từ 2 đến 3 độ C, kèm theo những thay đổi lớn về lượng mưa có
nguy cơ gây nên tình trạng lũ lụt và hạn hán với sức tàn phá lớn, trong khi mực
nước biển dự kiến sẽ dâng lên từ 0,75 đến 1 mét. Khi đó, khoảng 40% của châu
thổ sông Mê Kông, 11% châu thổ sông Hồng và 3% các khu vực khác sẽ bị ngập
nước, và 2% diện tích của TP Hồ Chí Minh sẽ bị chìm dưới nước”.
Bất kỳ sự sụt giảm nào về sản lượng ở vựa lúa sông Mê Kông, dĩ nhiên
đều gây nên những tác động nghiêm trọng đối với an ninh lương thực quốc gia
và toàn cầu, bởi Việt Nam là nước xuất khẩu gạo lớn thứ hai thế giới. Cùng với
báo cáo của chiến lược này, nhiều cơ quan hữu quan khác cũng đưa ra nhiều
nhận định đáng giật mình về tương lai của Việt Nam trước biến đổi khí hậu.
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cho rằng, vào năm 2050, khoảng 9,5 triệu


người Việt Nam sẽ ở trong tình thế nguy hiểm trước tác động của sự gia tăng
mực nước biển.
Trước những dự báo mang tính sống còn đối với Việt Nam, Chiến lược
phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai đã và đang nỗ lực kêu gọi sự hỗ trợ dài hạn
mạnh mẽ của các nhà tài trợ quốc tế. Hiện có khá nhiều dự án liên quan đến biến
đổi khí hậu được đổ vào Việt Nam, cùng với đó là sự có mặt của nhiều tổ chức
tên tuổi như WB, WWF, ADB… Tuy nhiên, Chiến lược này cũng dự báo rằng,
do Việt Nam là nước có mức thu nhập trung bình, theo đó sự hỗ trợ của quốc tế
sẽ bị giảm bớt và sự hợp tác sẽ được thực hiện trên cơ sở đôi bên cùng có lợi.
Các hình thức tài trợ mới hy vọng sẽ xuất hiện thông qua các cơ chế chuyển giao

công nghệ và tài chính mới từ các nước phát triển.
Mới đây nhất, theo yêu cầu của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài nguyên và
Môi trường được phân bổ nguồn lực tài chính hợp tác quốc tế về ứng phó biến
đổi khí hậu, thông qua Quỹ Khí hậu xanh. Bộ này cho biết, một hội nghị đầu tư
quốc tế dự kiến sẽ mời các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào các cơ sở hạ
tầng liên quan đến thích ứng với biến đổi khí hậu. Đối tác của chương trình – Cơ
quan hợp tác phát triển Đức (GIZ) cho biết, trước mắt, GIZ sẽ hợp tác với nhiều
nhà tài trợ khác cũng như Quỹ Động vật Hoang dã Thế giới và Liên minh Bảo
tồn Thiên nhiên Quốc tế trong vấn đề bảo vệ vùng ven biển ở đồng bằng sông
Mê Kông, trong đó bao gồm phục hồi và mở rộng các tuyến vành đai rừng ngập
mặn và nâng cấp đê điều hiện có.
Căn cứ vào tình hình thực tế từng thời kỳ mà Chính Phủ ta đã và đang có
các biện pháp, chính sách bổ sung nhằm điều chỉnh chiến lược cho phù hợp.
Trong đó có các chính sách mang tính hợp tác quốc tế và trong nước.
Theo thống kê, năm 2013, bão lũ đã làm 285 người chết và mất tích, 859
người bị thương; 12.185 nhà bị đổ, sập; 893.435 nhà bị ngập, hư hại, tốc mái;
345.802 ha lũa, hoa màu bị thiệt hại; hàng triệu mét khối đất đá giao thông, thủy
lợi bị sạt lở, bồi lấp... Ước thiệt hại về vật chất khoảng 28 nghìn tỷ đồng.


Năm 2014, tình hình thời tiết, bão lũ sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Sẽ có
bão mạnh, hướng di chuyển phức tạp, mưa lớn trong thời gian ngắn gây lũ quét,
sạt lở đất ở khu vực miền núi Bắc Bộ, ven biển miền Trung và Tây Nguyên.
Thông tin này được Trung tâm dự báo Khí tượng thủy văn Trung ương
đưa ra tại Hội nghị Tổng kết công tác phòng chống lụt bão và tìm kiếm cứu nạn
năm 2013, triển khai nhiệm vụ năm 2014 diễn ra ngày 4-4 tại Đà Nẵng.
Số lượng bão và áp thấp nhiệt đới hoạt động trên Biển Đông có khả năng
ở mức thấp hơn một ít so với giá trị trung bình nhiều năm với khoảng 9-10 cơn
(mức trung bình nhiều năm khoảng 10-12 cơn) và ảnh hưởng trực tiếp đến đất
liền nước ta cũng ở mức thấp hơn một ít so với trung bình nhiều năm, khoảng 45 cơn (trung bình nhiều năm khoảng 5-6 cơn). Hạn hán cũng sẽ xảy ra trên diện

rộng từ tháng 5 đến tháng 8, nặng nhất sẽ là các tỉnh miền núi phía bắc và khu
vực bắc Trung Bộ.
Chiến lược nào và đặt vào thời kỳ nào cũng cần phải có sự thay đổi để
phù hợp với tình hình thực tế. Nhất là chiến lược liên quan đến vấn đề có nhiều
biến động như vấn đề môi trường.
2. Hạn chế.
Chiến lược quốc gia mới chỉ được quán triệt đến cấp tỉnh thông qua việc ban
hành Quyết định của UBND tỉnh, thành phố phê duyệt Chương trình, kế hoạch
hành động thực hiện Chiến lược quốc gia. Ở cấp huyện và cấp xã hầu như vẫn
triển khai các hoạt động phòng, chống thiên tai theo cách làm truyền thống, vì
chưa được quán triệt các quan điểm mới, mục tiêu chung và các mục tiêu cụ thể
cũng như các giải pháp quy định cho từng vùng miền đã được đề ra trong Chiến
lược quốc gia hoặc quy định trong kế hoạch hành động của cấp tỉnh.
Chiến lược quốc gia quy định rõ“nội dung phòng chống và giảm nhẹ thiên
tai phải được lồng ghép trong quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
từng vùng, từng lĩnh vực, quốc gia”. Đây là yêu cầu bắt buộc đối với mọi cấp, mọi
ngành và là vấn đề có ý nghĩa to lớn, vừa không phải đầu tư tốn kém, vừa mang lại
hiệu quả thiết thực trong việc chủ động phòng ngừa thiên tai, bảo đảm phát triển bền
vững.


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×