Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

LỊCH sử NHÀ nước và PHÁP LUẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (132.6 KB, 8 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam được thể hiện rõ nét qua nhiều thời
kỳ. Mỗi thời kỳ lại có những đặc điểm về hình phạt khác nhau, được thể hiện từ thời
Ngô – Đinh - Tiền Lê cho đến thời kỳ nhà Nguyễn. Những hình phạt phong kiến đều
được sử cũ ghi lại rất cụ thể. Điển hình, như ở thời Lê sơ thì các hình phạt được quy
định rõ trong bộ Quốc triều hình luật (QTHL)-bộ luật Hồng Đức, bộ luật tiêu biểu cho
pháp luật phong kiến Việt Nam. Ngoài ra còn có bộ, Hoàng Việt luật lệ (HVLL)-Luật
Gia Long của nhà Nguyễn cũng đều quy định rõ nét những hình phạt dã man tàn bạo
và thể hịên được tính phổ biến của hình phạt trong pháp luật phong kiến. Vậy những
hình phạt đó dã man tàn bạo đến mức nào, phổ biến ra sao? Sau đây em xin tìm hiểu
đề tài: “ Đặc điểm của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam” để làm rõ hơn
vấn đề này.
NỘI DUNG
I. Các bộ phận của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Khi đã nói đến hệ thống hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam thì trước hết
và chủ yếu phải nói đến ngũ hình. Ngũ hình là 5 loại hình phạt chủ yếu, thường được
coi là những hình phạt chính, trong đó, đồ, lưu và tử luôn là hình phạt chính, còn xuy
và trượng khi áp dụng có nhiều trường hợp là hình phạt chính và có nhiều trường hợp
được coi là hình phạt phụ. Bên cạnh đó còn có những hình phạt ngoài ngũ hình.
Các hình phạt trong ngũ hình của pháp luật phong kiến Trung Quốc được học tập một
cách sáng tạo trong bộ QTHL và được sao chép một cách y nguyên trong bộ HVLL.
Các hình phạt trong hệ thống ngũ hình được thể hiện trong hai bộ luật như sau:
Thư nhất là Xuy (phạt roi) là hình phạt đánh bằng roi mây nhỏ vào mông người
bị trừng phạt làm cho họ thấy xấu hổ, nhục nhã để tự sửa lỗi lầm của mình. Hình phạt
này là nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt. Chúng được chia làm năm bậc từ 10 đến 50
roi. Trong QTHL xuy có thể là hình phạt được áp dụng độc lập, cũng có thể là hình



2


phạt áp dụng kèm theo phạt tiền, biếm. Cả QTHL và HVLL thì xuy đều được áp dụng
cho cả nam và nữ, tuy nhiên QTHL thì thường áp dụng cho nữ giới.
Thứ hai là Trượng( Đánh bằng gậy) là hình phạt nghiêm khắc hơn hình phạt
bằng roi. Cả QTHL và HVLL đều quy định phạt bằng trượng có 5 bậc từ 60 đến 100,
mỗi bậc là 10 trượng. Trong QTHL hình phạt này chỉ áp dụng đối với nam giới phạm
tội, nhưng cũng có thể là hình phạt áp dụng kèm theo các tội lưu, tội đồ và tội biếm.
Còn HVLL thì nữ giới phạm tội vẫn bị đánh bằng trượng(tuy phạm vi áp dụng có hạn
chế) cụ thể điều 19 quyển 2 còn dự liệu đánh trượng đối với nữ phạm nhân, nếu là tội
thông gian thì bắt lột áo, tội khác thì cho mặc áo mỏng. Tuy nhiên nữ phạm nhân thì
được miễn thích chữ. Nếu đàn bà phạm tội đồ hay tội lưu thì đánh hẳn 100 trượng, còn
dư tội thì cho chuộc. Điều này cho thấy việc quy định rõ đối tượng bị áp dụng trượng
thể hiện rõ tính nhân đạo ưu việt hơn hẳn của QTHL so với HVLL.
Thứ ba là Đồ (khổ sai). Đối với QTHL thì Đồ là hình phạt được quy định áp
dụng kèm theo xuy, trượng, hoặc thích chữ, đeo xiềng. Đồ có ba bậc: Bậc thứ nhất là
dịch đinh và dịch phụ (cả nam và nữ đều phải làm việc nặng nhọc), nam phạm tội phạt
80 trượng, nữ phạm tội phạt 50 roi. Bậc thứ hai là tượng phường binh( lính quét dọn
chuồng voi) và suy thất tuỳ ( đàn bà làm đầy tớ trong nhà nấu cơm ), nam phạm tội thì
bị đánh 80 trượng, thích vào cổ hai chữ; nữ phạm tội bị đánh 50 roi, thích vào cổ hai
chữ và đều phải làm những công việc trên. Bậc thứ ba là chủng điền binh( làm lính
đồn điền) và thung thất tỳ (Đàn bà làm đầy tớ giã gạo), nam phạm tội bị đánh thêm 80
trượng, thích vào cổ 4 chữ, đeo xiềng; nữ phạm tội bị đánh 50 roi, khắc vào cổ 4 chữ
và đều phải làm những công việc trên. Còn đối với HVLL thì Đồ (làm việc nặng nhọc)
là hình phạt được áp dụng đối với người phạm tội hơi nặng. Người phạm tội bị gửi về
quản thúc tại trấn nơi họ ở, đồng thời người bị áp dụng hình phạt này phải làm những
công việc nặng nhọc với thời hạn từ 1 năm đến 3 năm. Đồ được chia làm 5 bậc, mỗi
bậc là 10 trượng và đồ là nửa năm. Đồng thời, tuỳ theo thời hạn bị áp dụng là ngắn hay

dài mà mỗi bậc lại áp dụng thêm một phụ hình với mức phạt 60 trượng đến 100
trượng. Việc áp dụng hình phạt này được coi là một sự tiến bộ hơn hẳn so với hình
3


phạt khổ sai (5 bậc). Các phạm nhân không bị giam giữ tại trạm giam sau khi làm việc,
do đó tránh được họ cảnh lao tù và giúp họ có điều kiện để hoàn lương vì họ vẫn được
tiếp xúc với xã hội.
Thứ tư là lưu (đi đầy) là hình phạt đày đi nơi xa. Loại hình phạt này đứng hàng
thứ tư trong thang hình phạt cổ. Trong QTHL thì lưu được quy định áp dụng kèm theo
xuy, trượng, thích chữ hoặc đeo xiềng. Lưu có ba bậc là Châu gần, Châu ngoài, Châu
xa, tuỳ theo tội mà tăng giảm. Như ở bậc Châu xa thì đánh 100 trượng, thích vào mặt
10 chữ, bắt đeo xiềng 3 vòng, đày đi làm việc Cao Bằng. Còn trong HVLL hình phạt
lưu được chép đúng như luật nhà thanh và chia làm ba bậc, phạm nhân phải đày đi nơi
xa 2000 dặm, 2500 dặm, hoặc 3000 dặm là những khoảng cách giữa nơi sinh sống và
nơi phạm tội phải chấp hành hình phạt. Các phạm nhân được tự do làm việc tuy nhiên
người dân xưa thường khiếp sợ hình phạt này vì đối với họ phải sống xa quê là một
cực hình và nhiều trường hợp người đi đày không trở về quê hương được nữa .
Thứ năm là Tử (tội chết). Dưới triều Nguyễn, bộ HVLL chép lại nguyên văn
luật nhà Thanh quy định 2 hình thức tử hình là giảo (thắt cổ) và trảm (chém). Theo
như QTHL thì tử hình có các bậc tuỳ theo mức nặng nhẹ: giảo, trảm, trảm kiều (chém
bêu đầu), lăng trì (xẻo chậm, róc thịt cho chết dần): tội nhân sẽ bị trói chặt vào cột, khi
nghe tiếng hiệu lệnh phát ra đều đặn như tiếng trống, đao phủ sẽ xẻo một miếng thịt
trên cơ thể phạm nhân xong lại chờ hiệu lệnh tiếp theo.
So với QTHL thì HVLL quy định hình phạt tử hình nghiêm khắc hơn nhiều, nếu
QTHL không quy định chế định “tộc tru” (giết cả họ) thì trong HVLL đã chính thức
quy định chế định này tại điều 223 (Mưu đại nghịch).
Ngoài hệ thống ngũ hình, các hình phạt ngoài ngũ hình bao gồm biếm tư, phạt
tiền, thích chữ, đeo xiềng và tịch thu tài sản trong đó biếm tư và phạt tiền được quy
định vừa có thể áp dụng độc lập, vừa có thể áp dụng kèm theo hình phạt khác. Hình

phạt thích chữ có 5 bậc: thích 2 chữ, 4 chữ, 6 chữ, 8 chữ và 10 chữ trong đó 2 chữ và 4
chữ thích vào cổ còn lại thích chữ vào mặt. Ngoài ra còn có quy định chi tiết cả về khổ

4


chữ. Hình phạt tịch thu tài sản là một loại phụ hình, gồm 2 bậc là tịch thu một phần tài
sản và tịch thu toàn bộ tài sản.
II. Đặc điểm của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam
1. Mang tính chất dã man
Trong xã hội phong kiến Việt Nam thì hình phạt luôn có tính chất dã man, hà
khắc và tàn bạo, chủ yếu tác động và thân thể của người phạm tội. Đặc điểm này của
hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam chủ yếu bị chi phối bởi nhiều yếu tố
lịch sử, đặc biệt là sự ảnh hưởng từ hệ thống hình phạt của pháp luật phong kiến Trung
Quốc.
Pháp luật thời Ngô – Đinh – Tiền Lê chỉ được phản ánh rất ít trong Đại Việt sử
kí toàn thư. Tuy nhiên có điểm đặc biệt là sự hà khắc, dã man chỉ áp dụng với các thế
lực cát cứ và chống đối trong thời kì đầu của nhà nước khi mới được dựng lên còn đối
với dân chúng thì phải “khoan dung, giản dị, nhân dân được yên vui”.
Sang đến thời Lý – Trần – Hồ thì tính dã man, tàn bạo này được thể hiện rõ hơn
trong từng hình phạt của hệ thống ngũ hình cũng như ngoài ngũ hình. Cho đến các
triều đại này thì hệ thống ngũ hình vẫn tiếp tục được sử dụng ở việc nó được quy định
trong cả các bộ luật thành văn kể cả triều Lê và triều Nguyễn. Như vậy ta có thể thấy
được tính chất dã man, tàn bạo của hình phạt trong hệ thống pháp luật phong kiến Việt
Nam một mặt đã khiến cho người dân cảm thấy sợ hãi tạo nên thái độ tôn trọng pháp
luật, không dám phạm tội, như vậy đã hạn chế được phần nào các hành vi phạm tội.
Mặt khác, hình phạt quá dã man, hà khắc đã cướp đi nhiều tính mạng hay bắt tội nhân
phải chịu những hình phạt mà tội của họ chưa đáng phải chịu. Những người phạm tội
mặc dù đã hoàn lương, tự sửa chữa những lỗi lầm của mình nhưng vì những vết tích
để lại từ các hình phạt không thể xoá bỏ( thích chữ) đã gây cho họ nhiều mặc cảm, khó

hoà nhập với cuộc sống. Những hình phạt dã man, tàn bạo không chỉ lấy đi tính mạng
của người phạm tội mà còn hạ thấp danh dự, nhân phẩm của họ. Có những tội phạm bị
gông cùm, dải đi khắp thành để dân chúng ném, chửi.

5


2. Mang tính chất cố định hóa và chi tiết hóa
Nhà làm luật phong kiến có quan niệm khá cứng nhắc và chi tiết về hình phạt. Luật
hình ngày nay thường quy định cho mỗi loại tội phạm mức hình phạt nhẹ nhất cho tới
mức hình phạt nặng nhất để thẩm phán có quyền lựa chọn mức hình phạt thích ứng với
từng tội cụ thể trong giới hạn luật định. Nhưng nhà làm luật phong kiến thời xưa lại
quy định tỉ mỉ từng hình phạt cụ thể cho từng hành vi và hậu quả phạm tội cụ thể. Có
thể lấy những quy định ở Điều 466 của Bộ luật Hồng Đức làm minh chứng điển hình.
Ngoài ra, hình phạt còn được quy định chi tiết, tỉ mỉ, cố định trong điều luật căn cứ
vào công cụ, phương tiện phạm tội, nhân thân người phạm tội, địa vị trong gia đình và
trong xã hội của người phạm tội và người bị hại…
3. Hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam được áp dụng phổ biến
Các nhà làm luật phong kiến có quan niệm rất rộng về hình phạt. Hình phạt là chế tài
phổ biến đối với các hành vi vi phạm dù trong lĩnh vực dân sự hay hình sự, hành
chính, hôn nhân và gia đình, luân thường đạo lí… Quan niệm đó đã làm cho pháp luật
phong kiến có tính phổ biến.
Trong dân sự, thời Lê Trịnh quy định nếu là hợp đồng bán đất thì người bán không
được đòi chuộc lại (chiếu 6/1135 và chiếu 3/1292), người nào cố tình đòi chuộc phạt
80 trượng. Trong QTHL thời Lê quy định tại chương điền sản (từ điều 342 đến điều
400), ví dụ như điều 397: Hướng dẫn cách chia hương hảo một trường hợp cụ thể, hay
tại điều 356 quy định: “Những người tá điền cày nhờ ruộng ở nhà người khác mà trở
mặt thì phạt 60 trượng, biếm 2 tư...” Trong hôn nhân và gia đình: Cả QTHL và HVLL
đều quy định tội bất hiếu là một trong 10 trọng tội và được xếp vào nhóm tội thập ác.
Ví dụ như điều 475, QTHL quy định: “Lăng mạ ông bà cha mẹ thì xử tội

lưu châu ngoài, đánh thì xử tội lưu đi châu xa, đánh bị thương thì xử tội giảo, vì lầm
lỡ mà làm chết người thì xử tội lưu châu ngoài, bị thương thì xử tội đồ, làm chủng điền
binh”. Các quan hệ khác như: Vợ - chồng, vợ cả và vợ lẽ, anh chị em...nếu làm trái
điều quy định thì càng bị xử lý bằng hình phạt. Trong hình sự, tại điều 428, QTHL quy
6


định về tội ăn cướp rồi lại hiếp dâm “Ăn cướp mà lại hiếp dâm thì sử tội chém bêu
đầu, ăn trộm mà lại hiếp dâm thì xử tội chém..."; điều 235, HVLL quy định về tội
cướp giật mạnh “Phàm cướp giật mạnh nhưng không lấy được tiền thì phạt 100
trượng, lưu 300 dặm”. Nhìn chung, tính phong kiến còn thể hiện ở chỗ pháp luật
phong kiến có xu hướng mở rộng diện trách nhiệm hình sự. Về tuổi chịu trách nhiệm
hình sự, pháp luật phong kiến quy định: Từ 7 tuổi trử lên đã phải chịu trách nhiệm
hình sự không hoàn toàn, người từ đủ 16 đến 90 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
hoàn toàn.
KẾT LUẬN
Sau khi đã nhìn lại những đặc điểm của hệ thống hình phạt trong pháp luật
phong kiến Việt Nam, chúng ta có thể thấy rằng tuy vẫn còn chịu nhiều ảnh hưởng bởi
tư tưởng Nho giáo cũng như những tư tưởng của pháp luật phong kiến Trung Quốc
song hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam vẫn có những sự sáng tạo riêng
và đậm chất nhân văn. Những đặc điểm của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt
Nam đều chứa đựng trong đó những nguyên nhân sâu xa trong tiến trình phát triển của
lịch sử dựng nước và giữ nước vì thế chúng có những ưu và nhược điểm riêng, nhưng
tất cả những giá trị mà nó để lại cho thế hệ sau là không thể phủ nhận. Những giá trị
tích cực, tốt đẹp của hệ thống pháp luật truyền thống đã, đang và sẽ tiếp tục được khảo
cứu và phát huy trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dân
chủ, văn minh, tiến bộ.

7



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2012.
2. Quốc triều hình luật, Nxb. Pháp lí, Hà Nội, 1991.
3. Hoàng Việt luật lệ, Nxb. VHTT, Hà Nội, 1994.
4. Lê Thị Sơn (chủ biên), Quốc triều hình luật - Lịch sử hình thành, nội dung và giá trị,
Nxb. KHXH, Hà Nội, 2004.

8



×