Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

PHẠM TRÙ VẬT CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG TRONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.42 KB, 11 trang )

PHẠM TRÙ VẬT CHẤT CỦA CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG TRONG
TẠP CHÍ TRIẾT HỌC
PHẠM VĂN CHUNG(*)
Phạm trù vật chất là phạm trù cơ bản, cùng cặp với phạm trù ý thức của chủ nghĩa duy
vật biện chứng. Nhiệm vụ xác định nội dung của những phạm trù này cũng như nội
dung quan niệm về mối liên hệ giữa vật chất và ý thức mang ý nghĩa đặt cơ sở cho toàn
bộ hệ thống lý luận duy vật biện chứng đã được các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác thực
hiện xong về căn bản. Tuy nhiên, trong di sản lý luận của các ông, chủ nghĩa duy vật
biện chứng, cả về hệ thống cũng như từng khái niệm, quy luật, quan điểm riêng biệt của
nó, thường không được trình bày dưới hình thức lý luận thuần tuý, mà căn cứ vào
những yêu cầu thực tiễn và nhận thức cụ thể, liên hệ chặt chẽ với những lý luận khác,
hoặc dưới hình thức phê phán. Vì thế, trong nghiên cứu nhằm xây dựng hệ thống lý
luận duy vật biện chứng đáp ứng những yêu cầu lịch sử mới, khó tránh được những
thiếu sót, hạn chế, thậm chí những sai sót nhất định, do hiểu chưa thấu đáo tính lịch
sử của mỗi luận điểm, quan niệm triết học của các nhà kinh điển mácxít. Việc hiểu
phạm trù vật chất trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của
V.I.Lênin là một trường hợp như thế. Do đó, để tiếp tục xây dựng, phát triển hơn nữa
chủ nghĩa duy vật biện chứng, thì yêu cầu đặt ra là phải hiểu chính xác các phạm trù,
khái niệm, quy luật của nó do các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã phát hiện, nêu lên,
trong đó có phạm trù vật chất.
Trước đây, trong các chuyên khảo, tài liệu, sách giáo khoa triết học Mác - Lênin ở Liên
Xô và hiện nay, trong lời giới thiệu tập 18 của bộ Lênin toàn tập do Nxb Tiến bộ
Mátxcơva ấn hành năm 1980 (tiếng Việt), trong hầu hết các sách giáo khoa triết học
Mác - Lênin và những tài liệu thể hiện những nghiên cứu về phạm trù vật chất của chủ
nghĩa duy vật biện chứng ở nước ta, các tác giả thường xem luận điểm của V.I.Lênin "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và
tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"(1) - là định nghĩa kinh điển về vật chất, đồng thời
phân tích nội dung định nghĩa này với các vấn đề, nội dung chính là: 1) Vật chất là một
phạm trù triết học; 2) Những thuộc tính của vật chất; 3) Phương pháp định nghĩa vật
chất. Vấn đề được nêu ở đây là, có phải luận điểm trên là định nghĩa duy nhất kinh
điển về vật chất hay không và nên hiểu nội dung phạm trù vật chất được V.I.Lênin nêu


trong tác phẩm của ông như thế nào?
Sau khi nghiên cứu lại tác phẩm Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê
phán và tìm hiểu một số tài liệu cần thiết, có liên quan, tôi thấy cần phải tiếp tục bàn
luận để làm sáng tỏ hơn một số điểm trong nội dung phạm trù vật chất được trình bày
trong tác phẩm nói trên của V.I.Lênin. Điều quan tâm chủ yếu của tôi ở đây là tính lịch
sử của quan niệm vật chất, phạm trù vật chất của V.I.Lênin.
1. Bối cảnh lịch sử của quan niệm Lênin về vật chất
Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán được viết vào thời gian từ tháng
Hai đến tháng Mười 1908 và được in thành sách riêng năm 1909. Tác phẩm xuất hiện
trong bối cảnh lịch sử có những sự kiện nổi bật. Giai cấp tư sản ở các nước đã trở nên
"phản động về mọi mặt", đã từ bỏ tính chất dân chủ của nó. Cuối thế kỷ XIX - đầu thế
kỷ XX tràn lan thứ triết học "kinh nghiệm phê phán" hay chủ nghĩa Makhơ với tham


vọng đóng vai trò là triết học "duy nhất khoa học" nhưng thực ra, là một thứ chủ nghĩa
duy tâm chủ quan. Một số người dân chủ - xã hội tự xưng là "học trò của Mác" đã coi
chủ nghĩa Makhơ có sứ mệnh thay thế triết học duy vật biện chứng của C.Mác. Một số
học giả có tên tuổi đã rơi vào ảnh hưởng của chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Ở Nga,
ngoài những kẻ thù công khai chống giai cấp vô sản và đảng của giai cấp vô sản, còn
có một số trí thức dân chủ -xã hội, gồm cả những phần tử mensêvích, đã tuyên truyền
chủ nghĩa Makhơ, dùng chủ nghĩa Makhơ để xét lại chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Trong hoàn cảnh mà bọn giả danh mácxít, các thế lực phản động đang tung hoành,
dùng chủ nghĩa Makhơ để xét lại chủ nghĩa Mác, xét lại không chỉ những nguyên lý
triết học, mà cả những sách lược, nguyên tắc của đảng vô sản, nhằm phủ nhận những
cơ sở lý luận của đảng, tước vũ khí tư tưởng của giai cấp vô sản, mưu toan biến chủ
nghĩa xã hội thành một dạng tôn giáo mới, thì đó là một nguy cơ vô cùng nghiêm trọng.
Đồng thời, vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong khoa học tự nhiên đã bắt đầu
diễn ra một cuộc cách mạng thật sự với việc phát hiện ra tia Rơnghen (1895), hiện
tượng phóng xạ (1896), điện tử (1897), rađium (1898). Vì thế, bức tranh vật lý cũ về
thế giới đã trở nên chật hẹp. Các nhà vật lý cũ với lập trường duy vật tự phát và siêu

hình không thể giải thích được những phát hiện mới của vật lý học hiện đại. Do đó, chủ
nghĩa duy vật và khoa học tự nhiên rơi vào khủng hoảng, thậm chí cho rằng vật chất đã
"biến mất", đã "tiêu tan".
Đây là những sự kiện lịch sử chính quy định trực tiếp những quan điểm triết học của
V.I.Lênin, chủ yếu thuộc nội dung của chủ nghĩa duy vật biện chứng, trongChủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Cần thấy rõ sự kiện cơ bản là, chủ nghĩa
duy tâm chủ quan đã lợi dụng cuộc khủng hoảng trong xã hội và trong khoa học tự
nhiên để tấn công nhằm phủ nhận những quan điểm có tính nền tảng, quan điểm duy
vật của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Do đó, đối tượng phê phán chủ yếu của
V.I.Lênin ở đây là “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, mà nguồn gốc, cơ sở triết học cơ
bản của nó là chủ nghĩa duy tâm chủ quan. V.I.Lênin đã thấy rõ yêu cầu phải bảo vệ
chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhất là những nội dung, quan điểm cơ bản của nó, phải
đánh trả một cách quyết liệt và hết sức thuyết phục “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”
và những kẻ đồng loã của nó với những mưu đồ khoa học và chính trị - xã hội sai lầm,
phản động của chúng, đồng thời góp phần khắc phục cuộc khủng hoảng trong vật lý
học, mở đường cho khoa học tiến lên. Vậy, để hiểu đúng tinh thần, nội dung và ý nghĩa
phạm trù vật chất của V.I.Lênin, để hiểu thấu đáo tính lịch sử của nó thì điều rất quan
trọng là phải đặt phạm trù đó vào đúng hoàn cảnh lịch sử của nó, phải chỉ ra tương
quan hữu cơ của những sự kiện lịch sử nói trên với mỗi luận điểm của V.I.Lênin trong
tác phẩm của ông. Chính V.I.Lênin đã dạy rằng: “Toàn bộ tinh thần chủ nghĩa Mác,
toàn bộ hệ thống chủ nghĩa Mác đòi hỏi là mỗi nguyên lý phải được xem xét (a) theo
quan điểm lịch sử; (b) gắn liền với những nguyên lý khác; (c) gắn liền với kinh nghiệm
cụ thể của lịch sử”(2). Nói cách khác, ở đây cần phải đặc biệt coi trọng quan điểm lịch
sử - cụ thể trong nghiên cứu phạm trù vật chất của Lênin.
2. Những định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất
Trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán có nhiều luận điểm của
V.I.Lênin được xem như những "định nghĩa" về vật chất. Đó là: (1) Như đã nêu ở trên;
(2) "Việc thừa nhận đường lối triết học mà các nhà duy tâm và bất khả tri đã phủ nhận
thì trái lại được diễn đạt bằng những định nghĩa sau đây: vật chất là cái tác động vào
giác quan của chúng ta, thì gây ra cảm giác; (3) "vật chất là một thực tại khách quan



được đem lại cho chúng ta trong cảm giác, v.v."(3); (4) "Phái Makhơ đã rơi vào chỗ hết
sức vô lý biết chừng nào, khi họ đòi hỏi những người duy vật phải đưa ra một định
nghĩa về vật chất mà không được nhắc lại rằng vật chất, giới tự nhiên, tồn tại, cái vật lý
đều là cái có trước, còn tinh thần, ý thức, cảm giác, cái tâm lý là cái có sau"(4); (5) "Về
mặt nhận thức luận thì khái niệm vật chất không có nghĩa gì khác hơn: thực tại khách
quan tồn tại độc lập đối với ý thức con người, và được ý thức con người phản ánh"(5);
(6) "Khái niệm vật chất không biểu hiện cái gì khác ngoài cái thực tại khách quan mà
chúng ta nhận thấy được trong cảm giác"(6); v.v.. Sau khi trình bày các luận điểm (2)
và (3), V.I.Lênin đã xem đây là những định nghĩa về vật chất. Như vậy, vấn đề đặt ra
hiện nay trong nhận thức lại phạm trù vật chất của V.I.Lênin là cần phải phân tích, so
sánh những luận điểm về vật chất như đã nêu để xác định đâu là luận điểm thể hiện
chính diện, rõ nhất và mang tính chất của một định nghĩa kinh điển về vật chất. Căn cứ
vào nội dung các luận điểm đã nêu, có thể phân chia thành hai dạng hoặc hai cách định
nghĩa.
Dạng định nghĩa thứ nhất bao gồm các luận điểm (1), (5) và (6). Trong nhóm này, cần
tập trung phân tích luận điểm (1). Đây là luận điểm đã được rất nhiều tác giả xem là
định nghĩa kinh điển, thậm chí duy nhất kinh điển.
Trong các khoa học cụ thể, chúng ta hầu như không thấy người ta định nghĩa đối tượng
theo kiểu như "hình thang là một phạm trù (khái niệm) toán học dùng để chỉ...", "điện
là phạm trù (khái niệm) vật lý học dùng để chỉ...", "sự sống là phạm trù sinh vật học..."
hoặc "quyền là phạm trù của luật học...",v.v.. Thông thường, người ta định nghĩa đối
tượng về phương diện nó là cái tồn tại hiện thực khách quan, ở bên ngoài ý thức của
chủ thể. Trong khi đó, những luận điểm (1), (5), (6) như đã thấy, lại trước hết nói
về nhận thức, cách thức nhận thức của chúng ta về vật chất. Cụ thể là trong luận điểm
(1), mệnh đề "vật chất là một phạm trù triết học" không nhằm trực tiếp nói về vật chất
với tư cách cái tồn tại hiện thực khách quan, bởi cái tồn tại khách quan ấy không thể là
"phạm trù triết học" được. Vật chất với tư cách một phạm trù triết học là vật chất được
quan niệm, được hiểu và là một kết quả của nhận thức triết học mang tính trừu tượng

hoá, khái quát hoá cao về nó, đồng thời là vật chất với tư cách một tên gọi, một từ
ngữ. Mệnh đề “vật chất là phạm trù triết học” có nghĩa là vật chất được nhận thức ở
trình độ phạm trù triết học, hơn nữa là phạm trù triết học khoa học chứ không phải là
một nhận thức trực quan, phiến diện về nó.
Đương nhiên, trong luận điểm của V.I.Lênin cũng đã nói đến "thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp
lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác", tức là nói về chính vật chất với
tư cách cái tồn tại khách quan, ở bên ngoài cảm giác. Nhưng trong toàn bộ nội dung
luận điểm (1), điều này chỉ nhằm giải thích cho "từ vật chất", "phạm trù vật chất" về ý
nghĩa và nội dung của chúng, chứ không nhằm trực tiếp nói về vật chất với tư cách thực
tại khách quan, ở bên ngoài cảm giác. Để thấy rõ hơn điều này, hãy xem quan niệm của
Ph.Ăngghen.
Theo Ph.Ăngghen, trước hết "vật chất" và "vận động" cần được hiểu là tính chất chung,
thuộc tính chung của mọi sự vật, mọi hình thức cụ thể của vật chất và vận động mà
chúng ta có thể cảm biết được bằng các giác quan; thứ hai, vật chất và vận động là sự
trừu tượng hoá, tóm tắt, hay tổng hợp từ những vật thể hữu hình, cảm tính những thuộc
tính chung đó của chúng. Đó là những trừu tượng do đầu óc con người tạo ra căn cứ
vào hiện thực, chúng là những vật của tư duy, chứ không phải những vật có thể cảm


thấy(7). Như vậy, cần phân biệt vật chất với tư cách cái tồn tại ở bên ngoài ý thức và
không phụ thuộc vào ý thức và vật chất với tư cách sự nhận thức, hiểu biết của chúng ta
về cái tồn tại ấy. Không có vật chất tồn tại khách quan thì cũng không có quan niệm
của chúng ta về vật chất. Đương nhiên, khi bàn về quan niệm, khái niệm vật chất,
chúng ta không thể bỏ qua nội dung của chúng là cái phản ánh vật chất tồn tại khách
quan, nhưng không được đồng nhất nội dung ấy với bản thân vật chất.
Trong quan niệm của V.I.Lênin cũng đã thể hiện rõ điều đó. Sau khi phê phán Makhơ
và những người theo thuyết bất khả tri phủ nhận thực tại khách quan, ông viết: "Nếu ta
cảm thấy được thực tại khách quan, thì phải đặt cho nó một khái niệm triết học; và khái
niệm này đã được xác định từ lâu, lâu lắm rồi, đó là khái niệm: vật chất"(8). Luận điểm

này được viết trước khi V.I.Lênin nêu luận điểm:"Vật chất là phạm trù triết học...”.
Vậy, điều này có nghĩa là, ở đây từ "vật chất" chỉ gián tiếp nói về vật chất với tư cách
thực tại khách quan, nhưng lại trực tiếp nói về vật chất với tư cách cái nhận thức, cái
quan niệm của chúng ta. Do đó, có thể diễn đạt khác đi cách nói của V.I.Lênin: "Phạm
trù vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ...". Như thế, luận điểm ("định nghĩa")
của V.I.Lênin chủ yếu nhằm giải thích cái hình ảnh chủ quan của vật chất, tức cái phản
ánh; còn vật chất, tức thực tại khách quan thì ông chỉ nói đến một cách gián tiếp, nhằm
giải thích cho nội dung trên. Rõ ràng, vật chất, xét về mặt hiện thực khách quan, tồn tại
ở ngoài cảm giác và không phụ thuộc vào cảm giác, thì không thể là “phạm trù triết
học..." được. Có thể thấy rõ luận điểm về vật chất nói trên cùng các luận điểm khác
cùng nhóm, chủ yếu nói về điều: vật chất với tư cách một phạm trù triết học nghĩa là gì,
tức là bàn về mặt nhận thức luận của nó. Vì thế, chỉ nên xem luận điểm trên của
V.I.Lênin cùng những luận điểm khác như đã nêu là một trong những “định nghĩa”,
cách “định nghĩa” về vật chất và trong trường hợp này, chúng là định nghĩa gián tiếp.
Vậy tại sao V.I.Lênin lại nêu một định nghĩa có tính gián tiếp và dường như rất chú ý
đến việc giải thích "vật chất với tư cách là phạm trù triết học" như vậy? Câu trả lời rất
rõ là, quan niệm coi “sự vật là phức hợp của các cảm giác” của chủ nghĩa Makhơ hay
"chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán" nói chung đã dựa trên kinh nghiệm nhằm phủ nhận
"vật chất" với tư cách sản phẩm của tư duy, phủ nhận "vật chất" với tư cách một khái
niệm, phạm trù của nhận thức luận (theo cách nói của V.I.Lênin), tức một phạm trù
triết học, mà chỉ có dựa vào phạm trù này mới có thể hiểu được vật chất nói chung với
tư cách thực tại khách quan, cái khác với những dạng, cấu trúc, thuộc tính cụ thể của
vật chất. Ph.Ăngghen đã chỉ ra một đặc điểm rất đặc trưng của chủ nghĩa kinh nghiệm
là: "Nhà kinh nghiệm chủ nghĩa đã đi sâu vào thói quen của nhận thức kinh nghiệm đến
nỗi là khi anh ta sử dụng những trừu tượng mà vẫn tưởng rằng mình còn ở trong lĩnh
vực của nhận thức cảm tính"(9). Như thế, V.I.Lênin đã xuất phát từ chính những vấn đề
mà chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán nêu ra hòng bác bỏ, thay thế chủ nghĩa duy vật
biện chứng bằng chủ nghĩa duy tâm chủ quan, để chống lại nó. Điều này đã thể hiện rất
rõ tính lịch sử trong quan niệm của V.I.Lênin về vật chất. Rất có thể là, đối với
V.I.Lênin, đó là một "định nghĩa" vật chất hết sức quan trọng, nhưng là hết sức quan

trọng trong tính lịch sử của nó, căn cứ vào những yêu cầu lịch sử - cụ thể của nó, so với
mục đích và nội dung cuốn sách của ông.
Dạng định nghĩa thứ hai thể hiện rõ ở các luận điểm (2), (3) và (4). Có thể thấy trong
những luận điểm này có những khác nhau nhất định về nội dung. Luận điểm (2) nhấn
mạnh một thuộc tính căn bản của vật chất, đó là "khi tác động vào các giác quan của
chúng ta, thì gây ra cảm giác"; luận điểm (3) cho thấy đồng thời hai thuộc tính của vật


chất: "một thực tại khách quan được đem lại cho chúng ta trong cảm giác"; còn luận
điểm (4) phân biệt thuộc tính của vật chất trong tương quan với ý thức. Tuy nhiên, đây
là những luận điểm có sự bổ sung cho nhau, trong đó luận điểm (3) có nội dung rõ
ràng, đầy đủ hơn. Có thể xem đây là những định nghĩa trực tiếp, chính diện về vật chất.
Nó cho thấy rõ đối tượng cần xác định, cần định nghĩa là vật chất với tư cách cái tồn tại
hiện thực khách quan, chứ không phải cái tồn tại trong nhận thức, trong quan niệm,
không phải là cái quan niệm của chúng ta về vật chất. Đương nhiên, định nghĩa là biểu
hiện bản chất đối tượng dưới hình thức chủ quan, tức là dưới hình thức các khái niệm,
phạm trù về nó. Nhưng hình thức chủ quan đó không thể có nếu đối tượng không tồn
tại hiện thực, nếu nó không cho chúng ta khả năng hình dung, nhận thức ra đối tượng.
Cho nên, rất rõ là, nếu trong hiện thực không tồn tại thuộc tính chung của tất cả các dạng
vật chất, thuộc tính tồn tại khách quan và được đem lại cho con người trong cảm giác, thì
chúng ta cũng không thể có từ "vật chất" và khái niệm (phạm trù) "vật chất" với tư cách
những sản phẩm của tư duy.
Như vậy là, V.I.Lênin đã nêu ra những chứ không phải một định nghĩa về vật
chất trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán. Mỗi định nghĩa ấy
đều có những căn cứ, nguồn gốc thực tiễn và nhận thức, có nội dung xác định của nó,
chứ không phải ngẫu nhiên, tuỳ tiện. Theo tôi, cần phân chia những định nghĩa đó của
V.I.Lênin ít nhất thành hai dạng hay hai cách định nghĩa, đó là định nghĩa trực tiếp và
định nghĩa gián tiếp. Định nghĩa trực tiếp là định nghĩa chính diện đối tượng, là định
nghĩa về tồn tại hiện thực khách quan của nó. Đây là cách định nghĩa phổ biến, thông
dụng mà chúng ta có thể thấy trong các khoa học. Có lẽ, ở đây cần phải nhấn mạnh một

kinh nghiệm ngàn đời của khoa học, và không chỉ là kinh nghiệm, mà còn là lôgíc, là lý
luận và thực tiễn, rằng một định nghĩa, khái niệm (phạm trù) khoa học trước hết phải
xác định một cách trực tiếp bản chất của chính đối tượng. Còn định nghĩa gián tiếp là
định nghĩa không chính diện, là định nghĩa mà chủ thể có thể không nhằm trực tiếp nói
về đối tượng, mà chỉ dựa vào đó để nói về cái khác, cụ thể là trong luận điểm (1),
V.I.Lênin nói về vật chất hiện thực để nhằm nói về cái nhận thức, về khái niệm của nó.
Vậy rốt cuộc, nên lấy định nghĩa nào của V.I.Lênin làm định nghĩa "chuẩn", định nghĩa
có tính kinh điển về vật chất, phải chăng đó là định nghĩa: "Vật chất là thực tại khách
quan được đem lại cho chúng ta trong cảm giác"? Định nghĩa này tự nó đã nói lên
rằng, ở đây, vật chất được nhận thức dưới hình thức một phạm trù triết học, hơn nữa là
phạm trù triết học duy vật biện chứng, vì chỉ có chủ nghĩa duy vật biện chứng mới định nghĩa
vật chất như vậy. Có thể thấy hầu hết các tài liệu nghiên cứu quan niệm của V.I.Lênin về vật
chất cũng đã trích dẫn những luận điểm (2) và (3) nói trên, nhưng lại xem đây là những luận
điểm để minh hoạ, nhằm làm rõ hơn nội dung luận điểm mà theo tôi là định nghĩa gián tiếp
như đã nói.
3. Những đặc tính (thuộc tính) của vật chất theo quan điểm duy vật biện chứng
Trước hết, cần phải hiểu rằng, phạm trù (khái niệm) là hình thức của tư duy phản
ánh bản chất hay thuộc tính căn bản, phổ biến của đối tượng. Vậy, trong phạm trù vật
chất, V.I.Lênin đã xác định những thuộc tính căn bản, phổ biến nào của vật chất? Trong
những tài liệu nghiên cứu về phạm trù vật chất thường có hai nhận thức về thuộc tính
căn bản, phổ biến của vật chất. Nhận thức thứ nhất cho rằng, vật chất chỉ có một thuộc
tính, đó là "thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác...". Nhận
thức thứ hai cho rằng, vật chất có những (hai) thuộc tính: 1) "tồn tại khách quan, không
phụ thuộc vào cảm giác"; 2) "được đem lại cho con người trong cảm giác". Vậy, vật


chất có hai, hay chỉ có một thuộc tính căn bản, phổ biến?
V.I.Lênin viết: "Vì "đặc tính" duy nhất của vật chất - mà chủ nghĩa duy vật triết học là
gắn liền với việc thừa nhận đặc tính này - là cái đặc tính tồn tại với tư cách là thực tại
khách quan, tồn tại ở bên ngoài ý thức của chúng ta"(10). Nhưng trong các luận điểm

khác, ông lại nói: "thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác,
được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép lại..." và "vật chất là những cái mà khi tác
động vào các giác quan chúng ta, thì gây ra cảm giác"(Chúng tôi nhấn mạnh - P.V.C),
nghĩa là ông đã cho thấymột thuộc tính nữa của vật chất? Rõ ràng, "tồn tại khách quan,
ở bên ngoài cảm giác" và "được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chụp lại, chép lại..." là hai thuộc tính khác nhau, phân biệt nhau rất rõ của
vật chất. Ở đây, chúng ta cần tập trung bàn luận về thuộc tính thứ nhất.
Tại sao V.I.Lênin lại khẳng định “đặc tính” duy nhất của vật chất là đặc tính tồn tại với
tư cách là thực tại khách quan? Phải chăng, ông muốn phủ nhận những thuộc tính khác
hoặc cho rằng, ngoài thuộc tính đó ra, vật chất không còn thuộc tính nào khác? Theo
tôi, có lẽ sự khẳng định của V.I.Lênin là nhằm nhấn mạnh, xác định thật rõ và dứt
khoát bản chất của chủ nghĩa duy vật triết học mácxít, sự đối lập căn bản giữa nó và
chủ nghĩa duy tâm, là ở chỗ thừa nhận đặc tính này của vật chất, đặc tính tồn tại khách
quan, ở bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức, chứ không có nghĩa là ông
muốn loại bỏ thuộc tính khác của nó. Vì thế, không nên tuyệt đối hoá luận điểm này và
bỏ qua các luận điểm khác, bỏ qua toàn bộ nội dung cuốn sách của V.I.Lênin và cũng
không nên chỉ căn cứ vào hình thức ngôn từ của luận điểm này, bởi điều đó có thể đi
đến chỗ cho rằng dường như quan điểm của V.I.Lênin thể hiện tính không chặt chẽ,
không nhất quán và chứa đựng mâu thuẫn.
Theo Trần Đức Thảo thì luận điểm của V.I.Lênin - "Vì "đặc tính" duy nhất của vật chất
- mà chủ nghĩa duy vật triết học là gắn liền với việc thừa nhận đặc tính này - là cái đặc
tính tồn tại với tư cách là thực tại khách quan, tồn tại ở bên ngoài ý thức của chúng ta"
- là nói về vật chất với tư cách "thực tại khách quan" hay là có "tính thực tại khách
quan", nghĩa là nói về tồn tại của vật chất, chứ không phải nói về thuộc tính của nó.
Theo ông, điều này thể hiện ở chỗ V.I.Lênin đã đánh dấu "... " (nháy nháy) vào từ đặc
tính ("đặc tính"). Trần Đức Thảo giải thích: "Tính thực tại khách quan là một điều quy
định căn bản của vật chất, nhưng nó không có nội dung của một thuộc tính, vì nó không
quy định gì về nội dung của vật chất. Vì đối phương (tức những người theo chủ nghĩa
kinh nghiệm phê phán - P.V.C) đòi hỏi một thuộc tính chắc chắn, không thì họ cho là
"vật chất biến mất", nên V.I.Lênin đã nêu lên cái tính thực tại khách quan là "thuộc

tính" không thể chối cãi của vật chất, mà chủ nghĩa duy vật cũng chỉ cần công nhận
như thế là đủ"(11). Đây là vấn đề cần phải thảo luận. Có phải tinh thần luận điểm của
V.I.Lênin đúng là như vậy không?
Thực ra, trong luận điểm ở trang 321 của tác phẩm, từ "đặc tính" của vật chất được đặt
trong "nháy nháy" không hàm ý phủ nhận thuộc tính (đặc tính) của vật chất, mà muốn
nhấn mạnh rằng, đây là đặc tính (thuộc tính) của vật chất do triết học - chủ nghĩa duy
vật biện chứng quan niệm, hay được hiểu trong phạm vi nhận thức luận như V.I.Lênin
thường nói. Đặc tính này không như những "đặc tính của vật chất, trước đây được coi
là tuyệt đối, bất biến, đầu tiên (tính không thể thâm nhập được, quán tính, khối lượng,
v.v.) đang tiêu tan và bây giờ đây tỏ ra là tương đối và chỉ là đặc tính vốn có của một số
trạng thái nào đó của vật chất"(12), tức là những đặc tính do khoa học cụ thể (vật lý
học) hoặc chủ nghĩa duy vật siêu hình quan niệm; trái lại, là đặc tính chung của vật


chất, được khái quát, tổng hợp từ những dạng vật chất cụ thể. Đây là tính lôgíc, nhất
quán trong lập luận của V.I.Lênin. Trong luận điểm này, ông muốn chỉ ra rằng, những
người theo chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán không thể nào hiểu được đặc tính chung cơ
bản của vật chất, một đặc tính được vạch ra trong phạm vi vấn đề cơ bản của triết học,
một đặc tính mà chỉ có tư duy, hơn nữa là tư duy triết học mang tính trừu tượng hoá,
khái quát hoá khoa học rất cao mới nhận thức được. Trong khi đó, tất cả những hiểu
biết về vật chất của khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật siêu hình và của cả những
người theo chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán, về cơ bản chỉ giới hạn ởkinh nghiệm,
ở cảm giác, gắn liền với những dạng vật chất cụ thể, hoàn toàn không hiểu được vật
chất dưới hình thức trừu tượng nhất của nó. Tại sao lại không coi "cái đặc tính tồn tại
với tư cách là thực tại khách quan, tồn tại ở ngoài ý thức của chúng ta" là một đặc tính,
hơn nữa là đặc tính chung, cơ bản nhất của vật chất? "Tồn tại với tư cách là thực tại
khách quan" có nghĩa là gì? Đó là tồn tại thực sự ở bên ngoài cảm giác, bên ngoài ý
thức và không phụ thuộc vào chúng. Đặc tính này biểu hiện rõ sự đối lập, khác biệt căn
bản giữa vật chất và ý thức và đó là một đặc tính không thể phủ nhận được của mọi
dạng vật chất, do đó của thế giới vật chất nói chung. Cho nên, cần hiểu quan điểm của

V.I.Lênin coi đặc tính tồn tại với tư cách thực tại khách quan là "đặc tính" duy nhất của
vật chất là nhằm nhấn mạnh thuộc tính cơ bản nhất của nó, là quan điểm thể hiện rõ
bản chất của chủ nghĩa duy vật khoa học (chủ nghĩa duy vật biện chứng), nhằm phân
biệt rõ vật chất là cái có trước, cái quyết định so với ý thức là cái có sau, cái bị quyết
định.
Như vậy, vật chất có hai thuộc tính căn bản, phổ biến: thứ nhất, tồn tại với tư cách thực
tại khách quan, tức là tồn tại ở bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức; thứ
hai, được đem lại cho con người trong cảm giác. Trong định nghĩa vật chất không thể
loại bỏ một trong hai thuộc tính này, vì chúng thể hiện rõ hai mặt của vấn đề cơ bản của
triết học được giải đáp theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đặc tính tồn
tại ở bên ngoài ý thức và không phụ thuộc vào ý thức và đặc tính được đem lại cho con
người trong cảm giác chính là những đặc tính của vật chất được chủ nghĩa duy vật biện
chứng quan niệm, khái quát hoá, nhằm mục đích chỉ rõ sự đối lập, sự khác nhau cơ bản
giữa vật chất và ý thức. Ngoài giới hạn đó ra thì khó có thể thừa nhận và hiểu đúng
những thuộc tính này. Đồng thời, phải thấy rằng, cả ở đây nữa, khi xác định những
thuộc tính cơ bản, phổ biến của vật chất, V.I.Lênin đã gắn liền với cuộc đấu tranh
chống “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, với cuộc khủng hoảng trong khoa học tự
nhiên và với việc giải thích những phát hiện mới của vật lý học. Vì vậy, tính lịch sử
trong những lập luận của ông cũng hết sức rõ ràng. Không có tính lịch sử sao được, khi
mà nhiệm vụ đặt ra trước hết là phải thể hiện rõ ràng, dứt khoát sự đối lập về nguyên
tắc giữa quan điểm duy vật (biện chứng) với quan điểm duy tâm, do đó phải khẳng định
“đặc tính” duy nhất của vật chất là “đặc tính tồn tại với tư cách là thực tại khách quan”,
và tiếp đó, để chống lại chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán - một hình thức mới của chủ
nghĩa duy tâm chủ quan, thì không thể không giải thích rõ ràng nguồn gốc, bản chất
của những cảm giác của chúng ta. Cuối cùng, để cho các nhà khoa học tự nhiên có thể
hiểu được phạm trù triết học về vật chất thì không thể không chứng minh nó cả về nội
dung khách quan, tức là vạch ra những đặc tính chung của vật chất, lẫn hình thức của
nó với tư cách sản phẩm của tư duy trừu tượng cao, tức tư duy duy vật biện chứng.
Như vậy, nhiệm vụ đặt ra cho chúng ta khi nghiên cứu phạm trù vật chất của chủ nghĩa
duy vật biện chứng trong Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán là phải



hiểu rõ tính lịch sử của nó. Rõ ràng, ở đây, V.I.Lênin không định viết một cuốn sách
giáo khoa về Triết học Mác - Chủ nghĩa duy vật biện chứng, mà trái lại, những quan
niệm, luận điểm được ông nêu ra, xét về nội dung, cách thức thể hiện, ngôn ngữ được
sử dụng, luôn phù hợp với yêu cầu lịch sử, với đối tượng mà ông phê phán. Tuy vậy,
việc coi trọng quan điểm lịch sử trong nghiên cứu phạm trù vật chất của V.I.Lênin
không đồng nghĩa với “chủ nghĩa lịch sử”. Dưới những hình thức lịch sử - cụ thể, sinh
động của nó, những luận điểm của V.I.Lênin về vật chất chứa đựng cả những nội dung,
giá trị khoa học phổ biến, trong khi đó thì việc xây dựng một hệ thống quan niệm lý
luận khoa học về vật chất lại đòi hỏi phải “thoát ra” khỏi những hình thức lịch sử - cụ
thể, sinh động ấy. Vì thế, khi nghiên cứu phạm trù vật chất trong Chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán nhằm xây dựng một quan niệm lý luận khoa học về
vật chất, cần phải phân biệt nội dung, ý nghĩa khoa học phổ biến với ý nghĩa và hình
thức lịch sử của nó và một nhiệm vụ khác đặt ra cho chúng ta ở đây là phải tìm ra
những khả năng, phương án hoàn chỉnh hơn những định nghĩa về vật chất trong bối
cảnh lịch sử hiện nay.

(*) Tiến sĩ, Khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội


BÀN VỀ PHẠM TRÙ VẬT CHẤT CỦA V.I.LÊNIN (*)

NGUYỄN HUY CANH (**)

Trong bài viết “Phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong“Chủ nghĩa
duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán””, tiến sĩ Phạm Văn Chung đã cố gắng làm
rõ thêm định nghĩa vật chất của V.I.Lênin, song đó mới chỉ là sự cảm nhận và khi luận
giải đã không tránh khỏi những nhầm lẫn, luẩn quẩn trong việc thể hiện ý tưởng của
mình. Với mục đich trao đổi ý kiến của mình với tiến sĩ Phạm Văn Chung, trong bài viết

này, tác giả đã cố gắng vạch ra những nhầm lẫn, luẩn quẩn mà tiến sĩ Phạm Văn Chung
đã mắc phải khi luận giải định nghĩa vật chất của V.I.Lênin.
1. Nhận dạng định nghĩa
Trong khi phê phán chủ nghĩa Makhơ có nguồn gốc từ chủ nghĩa duy tâm chủ quan và
nhằm khắc phục cuộc khủng hoảng lý luận trong vật lý học, V.I.Lênin đã bảo vệ và phát
triển triết học Mác. Công lao của ông được ghi nhận bởi một phát hiện nổi tiếng, khi đưa
ra quan niệm về vật chất bằng định nghĩa sau: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng
để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác
của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Quan niệm này của V.I.lênin đã được nhiều học giả mácxít bàn luận và về cơ bản, là
đúng đắn, chính xác. Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn còn những hạn chế cần phải được làm
rõ.
Bài viết của tiến sĩ Phạm Văn Chung, theo tôi, là một phát hiện ra những hạn chế đó,
mặc dù phát hiện này mới chỉ là sự cảm nhận.
Vì chưa đạt đến trình độ nhận thức triết học về những hạn chế đó, nên tác giả Phạm Văn
Chung đã mắc phải những nhầm lẫn, luẩn quẩn trong việc thể hiện ý tưởng của mình.
Trước hết chúng ta hãy nói một đôi điều về khái niệm.
Khái niệm (phạm trù) là hình thức phản ánh chủ quan, biểu hiện chủ quan tính bản chất
của đối tượng. Những tính chất đặc trưng, những thuộc tính cơ bản có tính bản chất của
đối tượng được phản ánh, được ghi nhận trực tiếp bởi định nghĩa khái niệm.
Do vậy, có thể nói, định nghĩa khái niệm là nội dung, là bộ mặt của khái niệm, là lời giải
thích trực tiếp cho khái niệm. Nhưng nó cũng đồng thời nhằm trực tiếp nói về đối tượng
mà khái niệm phản ánh. Dù là khái niệm ấy được con người xây dựng bằng cách nào đi
chăng nữa (trực tiếp hay gián tiếp, đường vòng hay đường thẳng) thì nội dung của nó
được chỉ ra trong định nghĩa cũng là nhằm trực tiếp nói về đối tượng ấy chứ không bao
giờ là một sự gián tiếp như tác giả đã hiểu.
Lấy lại một ví dụ trong toán học mà tác giả đã có ý đưa ra – “Hình thang là một tứ giác
có hai cạnh đối song song”.
Ở những loại định nghĩa này, tác giả mới chỉ nhìn thấy khái niệm là sự phản ánh, biểu
hiện trực tiếp, nói trực tiếp, nhằm chính diện vào đối tượng trong hiện thực mà không

thấy rằng, nội dung ấy còn là lời giải thích cho hình thang với tư cách sản phẩm của quá
trình tư duy, quá trình nhận thức. Hai tư cách này của hình thang (cũng như của vật
chất) có một sự khác biệt nhau - đó là điều ai cũng biết. Nhưng từ đó, không cho phép
chúng ta đánh mất đi tính thống nhất, đồng nhất giữa chúng. Do chỉ nhìn thấy sự khác
nhau, sự đối lập không thể vượt qua được, nên tác giả (P.V.C) đã không nhìn thấy được
cái một trong cách phát biểu mà chúng ta sẽ phân tích dưới đây.
Có một điều xin được bổ sung. Khi phát biểu về định nghĩa hình thang, người ta không
đưa thêm vào cụm từ “một khái niệm toán học dùng để chỉ”. Điều này, theo tôi, chỉ làm


cho định nghĩa thêm dài dòng, rối rắm và không cần thiết. Bởi vì hình thang là một vật
của trừu tượng toán học, là sản phẩm của tư duy trừu tượng hay là một phức hợp cảm
giác, cảm tính, kinh nghiệm là điều không quan trọng đối với họ và đó cũng không phải
là nhiệm vụ mà toán học phải quan tâm giải quyết.
Trở lại định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin, chúng ta dẫn ra ở đây hai định nghĩa:
- “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho
con người trong cảm giác… ” (1).
- “Vật chất là một thực tại khách quan được đem lại cho chúng ta trong cảm giác” (2).
Tác giả (P.V.C) đã có sự phân chia, tách rời các định nghĩa trên thành hai dạng. Theo tác
giả, ở định nghĩa dạng (1), V.I.Lênin (chỉ) giải thích trực tiếp, nói trực tiếp về vật chất
với tư cách một vật trong tư duy, một trừu tượng triết học. Còn ở định nghĩa dạng (2)
mới là sự giải thích trực tiếp, chính diện về vật chất.
Chúng ta thấy rằng, ở định nghĩa dạng (1), nội dung “… dùng để chỉ thực tại khách quan
được đem lại cho con người trong cảm giác …, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”
sẽ là cái gì nếu không phải là những biểu hiện chủ quan, phản ánh chủ quan (trực tiếp,
chính diện) thuộc tính cơ bản, tính bản chất của đối tượng vật chất trong hiện thực.
Việc V.I.Lênin khẳng định “vật chất là một phạm trù triết học” là xuất phát từ tính lịch
sử của vấn đề - điều này thì tác giả hiểu rất rõ.
Ở định nghĩa dạng (2), tác giả cho rằng, đây mới là định nghĩa trực tiếp, rõ ràng về vật
chất với tư cách nó là những sự vật vật chất hữu hình, cụ thể trong hiện thực khách

quan. Nhưng tác giả đã không thấy ra một điều là, nội dung “thực tại khách quan được
đem lại cho chúng ta trong cảm giác” cũng là một sự giải thích trực tiếp cho vật chất
được hiểu như là một vật tư duy, một trừu tượng triết học, một khái niệm.
Từ những phân tích ở trên, chúng ta có thể kết luận rằng, các định nghĩa trên, dù là cách
phát biểu khác nhau, nhưng nội dung của chúng, về thực chất, chỉ là một.
Việc phân chia thành hai dạng định nghĩa có thể dẫn đến một hậu quả ngoài ý muốn:
người ta có thể ngộ nhận ở định nghĩa (1), vật chất mới là một khái niệm, phạm trù. Còn
vật chất là chủ từ trong định nghĩa dạng (2) không phải là một trừu tượng triết học, một
phạm trù, mà là vật tồn tại trong hiện thực khách quan. Nhưng đáng tiếc rằng, trong hiện
thực khách quan không có cái vật chất như thế tồn tại, mà chỉ có những vật cụ thể, hữu
hình tồn tại mà thôi.
2. Về những thuộc tính của vật chất
Ở phần một, chúng ta đã hiểu rằng, khái niệm là một hình thức phản ánh chủ quan
những thuộc tính cơ bản, bản chất của đối tượng, sự vật. Nội dung phản ánh này được
ghi nhận đầy đủ vào trong định nghĩa. Qua đó, chúng ta nhận biết được đối tượng ấy
trong sự khác biệt với những cái khác; hiểu được sự hình thành, những hình thái tồn tại
và khuynh hướng phát triển của nó.
Nhưng, sự hiểu biết của khái niệm, những nội dung mà nó vạch ra có “lấp đầy” những
thuộc tính cơ bản nhất, bản chất nhất của đối tượng hay không?
Chúng ta biết rằng, để có một bức tranh đầy đủ, hoàn chỉnh (dĩ nhiên còn tương đối) về
sự vật trong vận động, biến đổi thì phải cần đến sự tổng hợp của nhiều trừu tượng, nhiều
khái niệm về chúng. Điều này giải thích vì sao có những thuộc tính cơ bản của đối tượng
không được phản ánh vào trong khái niệm, mà nó lại phản ánh, biểu hiện vào trong
những khái niệm khác, những trừu tượng khác được thực hiện bằng những con đường
khác nhau của quá trình nhận thức.
Ví dụ, trong toán học, khái niệm hình thang đã chỉ ra hai thuộc tính cơ bản của nó: a) là


một tứ giác (lồi); b) hai cạnh đối song song. Nhưng hình thang không chỉ có hai thuộc
tính cơ bản đó. Người ta đã chỉ ra được nhiều thuộc tính có tính bản chất khác, như tính

chất về góc, đường trung bình, diện tích của nó được phản ánh ở trong các định lý.
Trở lại định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin. Có một điều rõ ràng ở định nghĩa này: nó là
sự biểu hiện chủ quan hai thuộc tính cơ bản, phổ biến nhất của vật chất.
Thế nhưng, có lẽ, tác giả (P.V.C) đã có một sự nhầm lẫn nào đó giữa định nghĩa của
khái niệm với tính chất của đối tượng, nên từ định nghĩa này, tác giả đã đi tới một kết
luận chưa đúng: “vật chất có hai thuộc tính căn bản, phổ biến…”.
Chúng ta đã biết, vận động, phát triển, không gian và thời gian cùng nhiều thuộc tính
khác đều là những thuộc tính cố hữu của vật chất mà tính căn bản, phổ biến của nó cũng
chẳng kém gì hai thuộc tính trên.
Vật chất là vô cùng, vô tận và luôn biến đổi. Việc tác giả khuôn chúng lại chỉ vẻn vẹn có
hai phẩm chất thôi là kết quả của một tư duy triết học cứng nhắc. Hậu quả của việc làm
này là đã đem lại cho chúng ta một bức tranh quá nghèo nàn về thế giới. Nhưng thực ra,
sự tìm tòi, sự nhận thức triết học của chúng ta về nó là một quá trình đầy gian khổ và lâu
dài như bản thân sự tồn tại của chúng ta vậy.
(∗) Nhân bài viết của TS. Phạm Văn Chung đăng trên Tạp chí Triết
học, số 7, 2007, tr. 49 - 57.
(∗∗) Cử nhân triết học.



×