Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Đề cương ôn thi môn quản lý nhà nước về kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.96 KB, 26 trang )

1

Câu 1 : Quản lý Nhà nước về kinh tế là gì ? Vì sao nói quản lý Nhà nước vừa
là một khoa học vừa là nghệ thuật? Để kết hợp được cả 2 yếu tố này đạt hiệu
quả cao, cần thiết phải tiến hành những công việc gì trong công tác quy hoạch,
đào tạo, xây dựng và sử dụng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về kinh tế?
Bài làm
1. Khái niệm quản lý Nhà nước về kinh tế :
Quản lý Nhà nước về kinh tế là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của
Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực
kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, đểđạt được các mục tiêu phát
triển kinh tếđất nước đặt ra trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế.
Theo nghĩa rộng, quản lý Nhà nước về kinh tế dược thực hiện thông qua cả ba loại
cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp của Nhà nước.
Theo nghĩa hẹp, quản lý Nhà nước về kinh tếđược hiểu như hoạt động quản lý có
tính chất Nhà nước nhằm điều hành nền kinh tế, được thực hiện bởi cơ quan hành
pháp (Chính phủ).
2. Quản lý Nhà nước về kinh tế vừa là một khoa học vừa là nghệ thuật, nghề
nghiệp :
a) Quản lý Nhà nước về kinh tế là một khoa học vì nó cóđối tượng nghiên cứu
riêng và có nhiệm vụ phải thực hiện riêng. Đó là các quy luật và các vấn đề mang
tính quy luật của các mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp giưã các chủ thể tham gia
các hoạt động kinh tế của xã hội.
Tính khoa học của quản lý Nhà nước về kinh tế có nghĩa là hoạt động quản lý của
Nhà nước trên thực tế không thể phụ thuộc vào ý chí chủ quan hay sở thích của
một cơ quan Nhà nước hay cá nhân nào mà phải dựa vào các nguyên tắc, các
phương pháp, xuất phát từ thực tiễn vàđược thực tiễn kiểm nghiệm, tức là xuất
phát từ các quy luật khách quan vàđiều kiện cụ thể của mỗi quốc gia trong từng
giai đoạn phát triển.
Để quản lý Nhà nước mang tính khoa học cần :
- Tích cực nhận thức các quy luật khách quan, tổng kết thực tiễn đểđề ra nguyên lý


cho lĩnh vực hoạt động quản lý của Nhà nước về kinh tế.
- Tổng kết kinh nghiệm, những mô hình quản lý kinh tế của Nhà nước trên thế
giới.
- Áp dụng các phương pháp đo lường định lượng hiện đại, sựđánh giá khách quan


2

các quá trình kinh tế.
- Nghiên cứu toàn diện đồng bộ các hoạt động của nền kinh tế, không chỉ giới hạn
ở mặt kinh tế - kỹ thuật mà còn phải suy tính đến các mặt xã hội và tâm lý tức là
phải giải quyết tốt vấn đề thực chất và bản chất của quản lý.
b) Quản lý Nhà nước về kinh tế còn là một nghệ thuật và là một nghềvì nó lệ thuộc
không nhỏ vào trình độ nghề nghiệp, nhân cách, bản lĩnh của đội ngũ cán bộ quản
lý kinh tế, phong cách làm việc, phương pháp và hình thức tổ chức quản lý; khả
năng thích nghi cao hay thấp v.v... của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước.
Tính nghệ thuật của quản lý Nhà nước về kinh tế thể hiện ở việc xử lý linh hoạt các
tình huống phong phú trong thực tiễn kinh tế trên cơ sở các nguyên lý khoa học.
Bản thân khoa học không thểđua ra câu trả lời cho mọi tình huống trong hoạt động
thực tiễn. Nó chỉ có thểđưa ra các nguyên lý khoa học là cơ sở cho các hoạt động
quản lý thực tế. Còn vận dụng những nguyên lý này vào thực tiễn cuộc sống phụ
thuộc nhiều vào kiến thức, ý chí và tài năng của các nhà quản lý kinh tế. Kết quả
của nghệ thuật quản lý làđưa ra quyết định quản lý hợp lý tối ưu nhất cho một tình
huống quản lsy.
* Dùng người phải căn cứ vào phẩm chất và năng lực: khi tuyển chọn, bổ nhiệm
cán bộ quản lý kinh tế, phải dựa theo tiêu chuẩn đức, tài chứ không lấy thân tín làm
trọng. Nó đòi hỏi bộ phận quản lý, nhân sự và các cán bộ lãnh đạo phải thật công
tâm, xuất phát từ lợi ích của nhân dân và Nhà nước, phải uốn nắn những biểu hiện
không tốt như lợi dụng chức quyền để mưu cầu lợi riêng.
* Phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm, hạn chế mặt yếu: Bất cứ

người nào cũng có những mặt mạnh vừa có cả những mặt yếu. Vì thế bộ phận quản
lý, nhân sự và các cán bộ quản lý nhân sự khi đối xử với một cán bộ quản lý kinh
tế đều phải phân tích toàn diện, khảo sát tổng hợp, cân nhắc kỹ lưỡng.
* Kiểm tra sát hạch, đề bạt, tiến cử một cách khoa học: Khảo sát những
kiến thức cơ bản, kỹ năng làm việc, trình độ nghiệp vụ, năng lực và thái độ làm
việc của các cán bộ quản lý kinh tế, thực hiện chế độ kiểm tra sát hạch để tránh
tình trạng việc dùng người lấy thân tín làm trọng, để đảm bảo chất lượng nhân
viên.
* Bổ sung trí tuệ và tài năng lẫn nhau, tạo nên một cơ cấu hợp lý:
Một người đứng riên lẻ không thể hoàn thiện, toàn mỹ, không thể đồng
thời có tất cả các kiến thức và tài năng thuộc mọi phương diện. Thế nhưng, một tập


3

thể được hợp thành bởi nhiều người, có thể bổ sung lẫn nhau để hình thành nên
một cơ cấu tối ưu, có thể làm nên sự nghiệp mà một người không thể làm nổi.
* Luôn luôn đổi mới và chuyển đổi một cách hợp lý:
Để thích ứng với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội, để theo kịp với trào
lưu tiến bộ của thời đại. Việc thay thế các cán bộ mới, đồng thời điều chỉnh cơ cấu,
chất lượng của ban lãnh đạo các cấp là cần thiết.

Câu 2: Nguyên tắc quản lý Nhà nước về kinh tế? Phân tích mối liên hệ giữa
quy luật kinh tế và nguyên tắc quản lý kinh tế?
2.2.1. KHÁI NIỆM
Nguyên tắc quản lý là các qui tắc chỉ đạo, những tiêu chuẩn hành vi mà các
cơ quan quản lý Nhà nước phải tuân thủ trong quá trình quản lý kinh tế.
Mối liên hệ giữa quy luật kinh tế và nguyên tắc quản lý kinh tế???????
2.2.2. YÊU CẦU CỦA CÁC NGUYÊN TẮC QUẢN LÝ KINH TẾ
Các nguyên tắc quản lý kinh tế do con người đặt ra nhưng không phải do sự

suy nghĩ chủ quan mà phải tuân theo các đòi hỏi khách quan của qui luật:
- Các nguyên tắc phải phù hợp với các mục tiêu quản lý.
- Các nguyên tắc phải phản ánh đúng tính chất và các quan hệ quản lý
- Các nguyên tắc phải đảm bảo tính hệ thống, tính nhất quán và phải được
đảm bảo bằng pháp luật.
Nguyên tắc phân định và kết hợp tốt chức năng quản lý nhà nước về kinh tế với
chức năng quản lý kinh doanh của các doanh nghiệp.
* Mục tiêu quản lý nhà nước về kinh tế: Phát triển nền kinh tế quốc dân ổn
định chính trị xã hội, tăng thu nhập.
* Mục tiêu của các doanh nghiệp: “Tối đa hoá lợi nhuận “
* Quan hệ quản lý: - Nhà nước với tư cách là chủ thể quản lý.
- Các doanh nghiệp là đối tượng bị quản lý của Nhà
nước.


4

* Về đối tượng quản lý của Nhà nước về kinh tế: Quan hệ giữa một cơ quan
có quyền lực chính trị với những tập thể đại diện cho quyền sử dụng những tài sản
thuộc sở hữu toàn dân được giao phó (đất đai, rừng, biển, hầm mỏ, nhà máy).
* Công cụ quản lý của Nhà nước: chủ yếu bằng pháp luật.
* Nguyên tắc tổ chức bộ máy (tập trung dân chủ): Theo nguyên tắc này thì
bộ máy Nhà nước quản lý về kinh tế là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng
của nhân dân, nắm giữ tài sản của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách
nhiệm trước nhân dân, Bộ máy quản lý nhà nước về kinh tế được phân thành nhiều
cấp từ cấp cao nhất là chính phủ, các bộ đến cơ quan quản lý nhà nước là quan hệ
cấp trên và cấp dưới.
Câu 3: Tại sao các nhà quản lý kinh tế phải hiểu và nắm vững các quy luật
giá trị, quy luật cung cầu- giá cả để làm căn cứ khoa học điều hành nền kinh
tế vĩ mô có hiệu quả?

Quy luật giá trị, quy luật cung cầu – giá cả là những quy luật kinh tế cơ bản, có
tầm ảnh hưởng to lớn đối với sự hình thành và phát triển trong nền kinh tế thị
trường của nước ta trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như trong điều
hành nền kinh tế vĩ mô. Đó là những quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao
đổi hàng hóa. Các quy luật kinh tế của thị trường quyết định sự vận động của thị
trường, do đó quyết định sự vận động của nền kinh tế thị trường. Các quy luật này
có những đặc trưng chủ yếu sau:
- Các quy luật kinh tế của thị trường tạo ra động lực kinh tế, đó chính là lợi ích vật
chất, mà những người tham gia thị trường có thể đạt tới. Động lực này có vai trò
quyết định trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
+ Trong nền kinh tế bao giờ cũng tồn tại đồng thời các loại lợi ích: lợi ích xã
hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp.
Tiếp đến là lợi ích xã hội, lợi ích tập thể. Thực tế nước ta cho thấy nhiều chủ
trương, chính sách và biện pháp của Nhà nước do quan tâm thích đáng đến lợi ích
cá nhân, nên chúng đã nhanh chóng đi vào cuộc sống và được mọi người ủng hộ.
+ Trong nền kinh tế có nhiều thành phần, thì kinh tế tư nhân thường rất nhạy
cảm với các quy luật kinh tế của thị trường so với các thành phần kinh tế khác. Vì
vậy, đối với các nước dựa chủ yếu vào kinh tế Nhà nước và kinh tế tập thể thì khi
chuyển sang kinh tế thị trường, nhiệm vụ đặt ra không chỉ là phải chuyển dịch các


5

hình thức sở hữu, thực hiện cổ phần hoá và tư nhân hoá một phần, mà còn phải đặc
biệt quan tâm tạo ra động lực kinh tế cho khu vực kinh tế Nhà nước và tập thể.
- Trong nền kinh tế thị trường, các quy luật kinh tế của thị trường là quy luật trung
tâm, là cơ sở, là động lực của các quy luật kinh tế khác và chi phối các hiện tượng
kinh tế, nhưng chúng lại hoạt động một cách tự phát, vì vậy trong quản lý vĩ mô
nền kinh tế, trước hết phải nhận thức rõ để vận dụng các điều tiết chúng vì lợi ích
của quốc kế dân sinh.

- Các quy luật kinh tế của thị trường phát sinh và phát triển gắn với sự phát sinh và
phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Quan hệ sản xuất không làm thay
đổi được bản chất của các quy luật kinh tế đó. Sự phát triển của sức sản xuất rất
khác nhau của các nền kinh tế ở các quốc gia chỉ làm cho hoạt động của các quy
luật mang nhiều màu sắc khác nhau mà thôi.
- Các quy luật kinh tế của thị trường có mối quan hệ mật thiết với nhau, trong đó
quy luật giá trị có vai trò quan trọng nhất. Các quy luật này tác động đến giá cả,
đến các yếu tố thị trường theo những chiều hướng khác nhau, do đó, nó tạo ra sự
đa dạng và phong phú của các hiện tượng giá trị thị trường.
+ Quy luật giá trị, với tư cách là quy luật cơ bản của sản xuất hàng hoá, đã
tạo ra cho người mua và người bán những động lực cực kỳ quan trọng. Trên thị
trường, người mua bao giờ cũng muốn tôi đa hoá lợi ích sử dụng. Vì vậy, người
mua luôn luôn muốn ép giá thị trường với mức gia thấp. Ngược lại, người bán bao
giờ cũng muốn tôi đá hoá lợi nhuận, và do đó, muốn bán với giá cao. Để tồn tại và
phát triển, những người bán, một mặt phải phấn đấu giảm chi phí (đặc biệt là ở các
giai đoạn trước khi đưa hàng hoá ra thị trường) để chi phí cá biệt bằng hoặc nhỏ
hơn chi phí xã hội trung bình. Mặt khác, họ lại tranh thủ tối đa các điều kiện của
thị trường để bán với giá cao. Họ cố gắng dùng mọi thủ đoạn và biện pháp để bán
được hàng với giá cao nhất, nhằm tối đa hoá lợi nhuận. Vì vậy, xét trên phương
diện này, quy luật giá trị tác động tới người bán theo hướng thúc đẩy họ nâng giá
thị trường lên cao. Tuy nhiên đó chỉ là xu hướng.
+ Quy luật cung cầu – giá cả: quyết định trực tiếp mức giá thị trường thông
qua sự vận động của quan hệ cung cầu. Mức giá thị trường thực hiện các chức
năng: một là, cân đối cầu cung ở ngay thời điểm mua bán (và chỉ ở thời điểm đó
mà thôi). Hai là, chỉ cho các nhà sản xuất biết cần phải giảm hay tăng khối lượng


6

sản xuất, khối lượng hàng hoá cung ứng ra thị trường. Xét về mặt thời gian, giá thị

trường là cái có trước quan hệ cung cầu. Đây là hiện tượng phổ biến của sự hình
thành và vận động của giá cả trên thị trường. Thông qua sự vận động của giá thị
trường, các nhà sản xuất có thể nhận biết tương đối chính xác cầu của thị trường và
họ có thể chủ động đưa ra thị trường một khối lượng hàng hoá tương đối phù hợp
với nhu cầu đó. Sự cân bằng cung cầu là cơ sở quan trọng để ổn định giá cả của
từng loại hàng.
Qua đó ta thấy rằng Nhà nước cần phải quản lý giá, sự quản lý đó thể hiện sự
nhận thức và vận dụng các quy luật kinh tế của thị trường

Câu 4: Các hình thức quản lý Nhà nước về kinh tế? Gồm những hình thức
nào? Trong số các hình thức đó, hình thức nào quan trọng nhất, vì sao?
KHÁI NIỆM
Là tổng thể những phương tiện hữu hình và vô hình mà nhà nước sử dụng để
tác dùng lên mọi chủ thể kinh tế và xã hội nhằm thực hiện mục tiêu quản lý kinh tế
quốc dân.
Gồm những hình thức sau:
a. Pháp luật
* Khái niệm: Hệ thống các quy tắc xử sự có tính chất bắt buộc chung
(quy phạm pháp luật) thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và cộng đồng xã hội, do
nhà nước đặt ra, thực thi và bảo vệ, nhằm mục tiêu bảo toàn và phát triển xã hội
theo đặc trưng đã định.
* Vai trò của pháp luật quản lý nhà nước về kinh tế
- Tạo tiền đề pháp lý vững chắc để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, duy trì sự
ổn định lâu dài của nền kinh tế quốc dân, nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng
kinh tế bền vững.
- Tạo cơ chế pháp lý hữu hiệu để thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và
nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân.
- Tạo cơ sở pháp lý cần thiết để kết hợp hài hoà phát triển kinh tế và phát
triển xã hội và bảo vệ môI trường



7

* Các loại văn bản pháp luật
+ Văn bản quy phạm pháp luật: gồm 3 loại
- Văn bản do quốc hội và uỷ ban thường vụ quốc hội ban hành: Hiến pháp,
luật, nghị quyết, pháp lệnh.
- Văn bản do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác ở trung ương ban
hành để thi hành văn bản quy phạm pháp luật của quốc hội và uỷ ban thường vụ
quốc hội ban hành: Lệnh, quyết định, chỉ thị, nghị quyết, thông tư.
- Văn bản do hội đồng nhân dân Uỷ ban nhân dân các cấp ban hành để thi
hành văn bản quy phạm pháp luật của quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và
văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên ngoài ra còn để thi hành nghị quyết cuả hội
đồng Nhân dân cùng cấp
+ Văn bản áp dụng quy phạm pháp luật
Là những văn bản có tính chất cá biệt do các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền ban hành, nhưng không có đầy đủ các yếu tố của văn bản quy phạm pháp
luật thường được ban hành để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể đối với đối tượng cụ
thể như các quy định bổ nhiệm, miễn nhiệm, đề bạt, nâng cao, khen thưởng, kỷ luật
điều động công tác đối với Cán bộ công chức nhà nước
* Đổi mới kinh tế pháp luật và quản lý nhà nước về kinh tế
- Nghiên cứu và ban hành các điều luật có liên quan đến việc tạo môi trường
pháp lý chính thức, ổn định cho sự hình thành và phát triển các quan hệ kinh tế thị
trường.
- Quán triệt đầy đủ nguyên tắc bình đẳng trong quá trình xây dựng và thực
thi hệ thống pháp luật quản lý nhà nước về kinh tế
b. Kế hoạch
* Khái niệm: Phương án hành động trong tương lai hoặc là quá trình xây
dựng quán triệt chấp hành và giám sát kiểm tra việc thực hiện phương án hành
động trong tương lai.

* Nội dung hoạt động của kế hoạch
- Chiến lược phát triển kinh tế xã hội là đường lối chung tổng quát và
phương pháp chủ yếu, tổng thể để phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong một
thời gian dài (ở nước ta thường 10 năm)


8

- Quy hoạch phát triển kinh tế xã hội là sự cụ thể hoá một bước chiến lược
phát triển kinh tế xã hội, nó là tập hợp các mục tiêu và sự bố trí sắp xếp các nguồn
lực tương ứng để thực hiện mục tiêu theo không gian và thời gian.
- Kế hoạch trung hạn là phương tiện chủ yếu để cụ thể hoá các mục tiêu và
các giải pháp đã được lựa chọn trong chiến lược.
- Kế hoạch hàng năm là sự cụ thể hoá kế hoạch trung hạn nhằm thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
- Chương trình là để xác định một cách đồng bộ các mục tiêu cần đạt, các
bước công việc phải tiến hành các nguồn lực cần huy động để thực hiện một ý đồ
nào đó.
- Dự án là tổng thể các hoạt động các nguồn lực và các chi phí được bố trí
chặt chẽ theo thời gian và không gian nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội
cụ thể (dự án xoá đói giảm nghèo của đồng bào các xã đặc biệt khó khăn ở vùng
sâu vùng xã).
- Ngân sách là bản tường trình bằng con số sự huy động và phân bổ các
nguồn lực cho việc thực hiện các chương trình dự án trong một giai đoạn phát
triển.
* Vai trò của quản lý kế hoạch vĩ mô
- Là căn cứ cơ bản của quản lý kinh tế quốc dân
- Là một khâu quan trọng và là một bộ phận cấu thành hữu cơ của quản lý
kinh tế quốc dân
- Là một công cụ quan trọng của nhà nước để điều hành kinh tế vĩ mô

* Đổi mới công tác kế hoạch hoá vĩ mô
- Kết hợp kế hoạch với thị trường
- Chuyển kế hoạch cụ thể trực tiếp sang kế hoạch định hướng gián tiếp
- Nâng cao chất lượng công tác lập kế hoạch đồng thời tăng cường chỉ đạo
việc thực hiện kế hoạch
c.Chính sách
* Khái niệm: là một tập hợp các giải pháp nhất định để thực hiện các mục
tiêu bộ phận trong qúa trình đạt tới mục tiêu chung của sự phát triển kinh tế xã hội
* Các loại chính sách (Theo lĩnh vực hoạt động)
+ Các chính sách kinh tế chủ yếu


9

- Chính sách cơ cấu kinh tế
- Chính sách tài chính
- Chính sách tiền tệ
- Chính sách giá cả
- Chính sách kinh tế đối ngoại
+ Các chính sách xã hội (phi kinh tế)
- Chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình
- Chính sách lao động và việc làm
- Chính sách giáo dục
- Chính sách văn hoá
- Chính sác khoa học và công nghệ
- Chính sách bảo hiểm
- Chính sách bảo vệ sức khoẻ toàn dân
- Chính sách an ninh quốc phòng
- Chính sách xoá đói giảm nghèo
- Chính sách bảo vệ môi trường

* Vai trò của chính sách trong quản lý nhà nước về kinh tế
- Tạo ra những kích thích đủ lớn cần thiết để biến đường lối chiến lược của
Đảng thành hiện thực.
- Là bộ phận năng động nhất có độ nhạy cảm cao nhất trước những biến
động trong đời sống kinh tế xã hội của đất nước nhằm giải quyết những vấn đề bức
xúc mà xã hội đặt ra.
* Hoàn thiện hệ thống các chính sách pháp lý cuả nhà nước về kinh tế
- Phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa vì sự nghiệp dân giàu nước
mạnh (trước đây là vì hạnh phúc của nhân dân).
- Tăng trưởng kinh tế phải gắn với mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội.
- Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển kinh tế là vì con người và do
con người.
d. Tài sản quốc gia


10

* Khái niệm: Theo nghĩa rộng bao gồm tất cả mọi nguồn lực của đất
nước, theo nghĩa hẹp là nguồn vốn và các phương tiện vật chất - kỹ thuật mà Nhà
nước có thể sử dụng để tiến hành quản lý kinh tế quốc dân.
* Các loại tài sản quốc gia
+ Công sở: Nơi làm việc của cơ quan hành chính nhà nước là nơi công
chức và nhân viên Nhà nước thực hiện nhiệm vụ quản lý kinh tế - xã hội của mình.
+ Ngân sách nhà nước: Hồ sơ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự
toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một
năm đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình.
+ Tài nguyên thiên nhiên: gồm đất, nước, khoáng sản, rừng, biển,
khoảng không, môi trường là tài sản vô giá của quốc gia, là tư liệu sản xuất hàng
đầu và là thành phần quan trọng bậc nhất của sự tồn tại và phát triển của mọi xã
hội.

+ Kết cấu hạ tầng: Tổng thể một số ngành sản xuất mang tính chất phục
vụ cung cấp có trả tiền hoặc không trả tiền hàng hoá và dịch vụ cho nhu cầu sinh
hoạt dân cư và nhu cầu sản xuất kinh doanh trong đó chủ yếu là hệ thống năng
lượng, hệ thống cấp thoát nước, hệ thống bảo vệ môi trường.
+ Công khố: kho bạc nhà nước các nguồn dự trữ bằng tiền, ngoại tệ,
vàng bạc, kim cương, đá quý được sử dụng với chức năng chủ yếu là dự trữ bảo
hiểm các bất trắc xảy ra trong quá trình tồn tại và phát triển của xã hội.
+ Doanh nghiệp nhà nước: Tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn
thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao.
+ Hệ thống thông tin nhà nước: Tập hợp những con người, các thiết bị
phần cứng, phần mềm dữ liệu, thực hiện hoạt động thu nhập lưu trữ xử lý và phân
phối thông tin nhằm phục vụ quản lý kinh tế vĩ mô.
* Vai trò của tài sản quốc gia và quản lý nhà nước về kinh tế
- Tài sản quốc gia là cơ sở vật chất mà kinh tế nhà nước dựa vào đó để tồn
tại và phát triển tạo nền tảng cho các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh phát
triển.
- Là một công cụ tối quan trọng mà nhà nước sử dụng để can thiệp trực tiếp
vào nền kinh tế quốc dân, kịp thời giải quyết những trục trặc, lệch lạc, mất cân đối.


11

- Là bộ khung vật chất kĩ thuật của nền kinh tế quốc dân có ảnh hưởng trực
tiếp năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn xã hội.
* Tăng cường quản lý tài sản quốc gia
- Về quản lý ngân sách nhà nước là phương hướng chung là tăng thu giảm
chi thực hiện cân bằng thu chi ngân sách phấn đấu ngân sách có số dư tránh thâm
hụt ngân sách.
- Về quản lý tài nguyên thiên nhiên là tiến hành kiểm kê và kiểm soát việc

khai thác sử dụng các tài nguyên thiên nhiên. Thực hiện nguyên tắc sử dụng tài
nguyên thiên nhiên phải trả tiền kết hợp khai thác sử dụng với bảo vệ và khôi phục.
- Về quản lý kết cấu hạ tầng là tăng cường sự phối kết hợp giữa các ngành
kết cấu hạ tầng và việc xây dựng khai thác sử dụng và bảo vệ các công trình kết
cấu hạ tầng. Thực hiện xây dựng kết cấu hạ tầng theo quy hoạch thống nhất và
nhanh chóng đưa vào sử dụng. Trong quá trình sử dụng cần có kế hoạch khai thác
đồng thời phải tăng cường bảo vệ.
- Về quản lý doanh nghiệp nhà nước là thực hiện chuyển đổi cơ cấu sở hữu,
sắp xếp lại và đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả hoạt
động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước.
Phương hướng cơ bản
- Giữ doanh nghiệp nhà nước toàn phần ở một số ngành lĩnh vực then chốt.
- Cổ phần hoá một số doanh nghiệp vừa.
- Giao bán, khoán, cho thuê những doanh nghiệp nhà nước có quy mô nhỏ.
- Giúp nhập giải thể hoặc phá sản những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài

Câu 5: Văn bản quản lý nhà nước có ý nghĩa gì trong quản lý kinh tế của Nhà
nước? Trong hệ thống văn bản quản lý Nhà nước, loại văn bản nào là quan trọng
nhất? Tại sao? Cho ví dụ minh họa?
Văn bản quản lý nhà nước (VBQLNN) là những quyết định và thông tin quản lý
thành văn (được văn bản hoá) do các cơ quan quản lý nhà nước ban hành theo
thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức nhất định và được nhà nước đảm bảo thi


12

hành bằng những hình thức khác nhau nhằm điều chỉnh các mối quan hệ quản lý
nội bộ nhà nước hoặc giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức và công dân.
Văn bản quản lý kinh tế nhà nước là các văn bản xác lập mối quan hệ kinh tế giữa

các chủ thể kinh tế và hoạt động kinh tế trong một quốc gia.
Quản lý kinh tế nhà nước đòi hỏi phải dựa trên những cơ sở nhất định. Một trong
những cơ sở đó là các văn bản quản lý của Nhà nước. Chúng vừa có tính chất
pháp lý cho quản lý kinh tế, vừa có tính chất quyết định đến các hoạt động kinh tế.
Văn bản quản lý nhà nước giúp cho các nhà hoạch định kinh tế đưa ra được các
văn bản quản lý kinh tế, làm cơ sở cho toàn bộ hoạt động của nền kinh tế. Văn bản
quản lý kinh tế xác lập quan hệ kinh tế và hoạt động kinh tế trong mỗi quốc gia,
nhằm đảm bảo cho hệ tống kinh tế hoạt động một cách cân đối, nhịp nhàng, mang
lại hiệu quả kinh tế cao, đồng thời còn quyết định các hoạt động của các bộ phận
kinh tế về số lượng và chất lượng.
Dựa vào các văn bản quản lý nhà nước các nhà kinh tế có thể hiểu được những
vấn đề chung của pháp luật nhà nước trong lĩnh vực quản lý kinh tế, từ đó có thể:
- Soạn thảo chiến lược sản xuất kinh doanh của nhà nước, của doanh nghiêp.
Soạn thảo kế hoạch sản xuất kinh doanh của Nhà nước, của doanh nghiệp.
- Soạn thảo các cự án đầu tư, cho mở rộng sản xuất kinh doanh….
Văn bản quản lý nhà nước gồm 2 loại cơ bản:
-

Văn Bản quy phạm Pháp luật
Văn bản hành chính.

Trong đó, Văn bản quy phạm pháp luật là quan trọng nhất
Văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) là văn bản do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự luật định, trong đó có các quy tắc xử sự
chung nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội và được Nhà nước đảm bảo thực hiện.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật bao gồm:
+ Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội


13


+ Pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
+ Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước
+ Nghị định của Chính phủ
+ Quyết định của Thủ tướng Chính phủ
+ Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thông tư
của Chánh án Toà án nhân dân tối cao
+ Thông tư của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
+ Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ
+ Quyết định của Tổng Kiểm toán Nhà nước
+ Nghị quyết liên tịch giữa Uỷ ban Thường vụ Quốc hội hoặc giữa Chính
phủ với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội
+ Thông tư liên tịch giữa Chánh án Toà án nhân dân tối cao với Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao; giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
giữa các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.
+ Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp
+ Quyết định, Chỉ thị của Ủy ban nhân dân các cấp

Câu 6: Quyết định quản lý kinh tế Nhà nước là gì? Nó đóng vai trò gì trong
quản lý kinh tế? Những căn cứ và phương pháp ra quyết định quản lý nhà
nước về kinh tế?
*Quyết định QLKT của NN là: những hành vi sáng tạo tư cách là sản phẩm lao
động của NN, nhằm định ra chương trình, tính chất hoạt động của người, hoạt động
phải thực hiện quyết định đó
* Vai trò của quyết định QLKT


14


của NN trong quản lý kinh tế:
Quyết định quản lý nhà nước chiếm vị trí trung tâm trong hoạt động QLNN, là
phương tiện không thể thiếu để các chủ thể QLNN sử dụng nhằm thực hiện chức
năng QLNN. Quyết định QLNN có vai trò quan trọng trong việc hoạch định chủ
trương, đường lối, nhiệm vụ lớn cho hoạt động quản lý; đặt ra, sửa đổi, bãi bỏ các
quy phạm pháp luật hành chính hoặc làm thay đổi phạm vi hiệu lực của chúng; làm
phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quan hệ pháp luật hành chính cụ thể.
*Những căn cứ ra quyết định QLNN về kinh tế:
Mục tiêu lâu dài của đất nước.
Yêu cầu của quy luật khách quan.
Đặc điểm, xu thế biến động, phát triển của thời đại, đối tượng QL.
Thực trạng đất nước (nguồn lực, văn hóa...)
Thời gian cho phép.
Quy phạm ra quyết định.
*Phương pháp ra quyết định:
-Đối với quyết định chuẩn tắc (q/đ sử dụng nhiều lần, thông lệ).
+ Thủ tục: là những bước của quy trình liên quan tới nhau theo kiểu hệ quả dùng
để xử lý những vấn đề có cấu trúc chặt chẽ.
+ Chuẩn mực: là những quy định nói rõ cho các thành viên hay phân hệ trong hệ
thống biết họ được làm và ko đc làm gì. Trong QLNN về KT, chuẩn mực được
hiểu là toàn bộ hệ thống văn quản QPPL quy định hành vi cho tổ chức, cá nhân.
-PP ra quyết định đối với những q/đ ko chuẩn tắc:
+ Là những quyết định đặc biệt quan trọng có ảnh hưởng lâu dài đến nhân sự và
kết quả hoạt động của tổ chức, thường do 1 nhóm hoặc 1 tập thể quyết định.
+ Ưu điểm: Có đc nhiều thông tin đầy đủ hơn, tạo nhiều phương án hơn, tăng độ
chấp nhận và tính pháp lý.
+ Nhược điểm: Tốn thời gian, có sự lấn át thiểu số, trách nhiệm ko rõ ràng, có sức
ép phải đồng ý.
-


Những hạn chế trong ban hành và thực hiện các quyết định QLNN hiện nay
Hiện nay, hoạt động xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện các quyết định
QLNN của chủ thể QLNN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tất cả những
hoạt động này đều hướng tới vì mục tiêu thực hiện quyền lực của nhân dân, phục
vụ nhân dân, thi hành pháp luật, đưa pháp luật vào đời sống để bảo đảm kỷ cương
xã hội. Tuy nhiên, việc bảo đảm tính hợp pháp và tính hợp lý khi xây dựng, ban
hành và tổ chức thực hiện các quyết định QLNN trong giai đoạn hiện nay còn
nhiều bất cập.


15

Nhiều quyết định QLNN không đúng thẩm quyền, đúng chủ thể, phù hợp với
pháp luật, chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Thậm chí, một số
quyết định QLNN được ban hành trái với thẩm quyền của chủ thể ban hành, có dấu
hiệu vi phạm pháp luật, nội dung chưa phù hợp với lợi ích của Nhà nước và xã hội.
Theo thống kê của Bộ Tư pháp, qua kiểm tra 1.506 văn bản pháp luật đã ban hành
của cấp bộ và địa phương trong năm 2007, phát hiện 320 văn bản có dấu hiệu trái
pháp luật. Năm 2008, kiểm tra 1.968 văn bản thì phát hiện 490 văn bản có dấu hiệu
trái pháp luật (trong đó có 93 văn bản cấp bộ và 397 văn bản của địa phương). Như
vậy, khoảng từ 20-25% số văn bản được kiểm tra có dấu hiệu vi phạm (1).)

Câu 7: Thế nào là một quy trình ra quyết định quản lý? Hãy lấy một ví dụ trong
thực tế để minh họa cho quy trình đó?
BÀI LÀM
Một trong những chức năng của quản lý là ra quyết định quản lý. Quyết định
quản lý liên quan đến thành bại, đến hiệu quả cao thấp của toàn bộ quy trình quản
lý. Quyết định quản lý được coi là sản phẩm của người lãnh đạo quản lý, người
lãnh đạo thể hiện tài năng của mình là ở khâu ra quyết định và tổ chức thực hiện
quyết định quản lý. Vì vậy, để có quyết định chính xác, đúng đắn, khả thi và hiệu

quả, người quản lý phải nắm vững các đặc điểm, vài trò và yêu cầu của quyết định
quản lý, phương pháp xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định một cách khoa
học.
Quyết định quản lý là hành vi có tính chất chỉ thị do một cơ quan hay một
người đưa ra nhằm định hướng, tổ chức hoạt động của tập thể lao động thực hiện
mục tiêu quản lý. Ra quyết định là việc lựa chọn các mục tiêu cũng như nguồn lực
và đề ra các phương pháp thực hiện để đạt được mục tiêu đó.
Quyết định quản lý ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý bởi vì một quyết
định đúng đắn, kịp thời sẽ đem lại sự giàu có, phát triển ngược lại nếu quyết định
sai và không đúng lúc có thể gây trì trệ, ách tắt và nhiều khi dẫn đến phá sản. Mặt
khác chu kỳ sống của một quyết định quản lý thường trải qua 5 giai đoạn, để phát
huy tối đa hiệu quả của quyết định, người lãnh đạo quản lý phải lựa chọn và ra


16

quyết định kịp thời ngay tại điểm quyết định phát huy tác dụng ở mức cao nhất và
phải thay đổi quyết định khi quyết định thể hiện sự trì trệ, kìm hãm sự phát triển.
Do quyết định quản lý là sản phẩm của chủ thể quản lý nên nội dung của nó
thường chứa đựng ý chí chủ quan của người quản lý chi phối như : cá tính, quan
điểm, trình độ năng lực nhận thức và vận dụng quy luật của người lãnh đạo quản
lý. Cho nên, để đảm bảo cho các quyết định quản lý có chất lượng thì khi đề ra các
quyết định phải dựa trên các cơ sở khách quan. Đó là : yêu cầu của quy luật khách
quan tác động tới đối tượng quản lý; đặc điểm và xu thế phát triển của đối tượng
quản lý và điều kiện vật chất và thời gian có thể thực hiện quyết định. Quyết định
quản lý cũng mang những đặc điểm khác như : do chủ thể quản lý ban hành và chỉ
đề ra khi các vận đề đã chín muồi, quyết định hướng trực tiếp vào tổ chức, hoạt
động của đối tượng quản lý và có liên quan trực tiếp tới quá trình thu nhận, xứ lý
thông tin, lựa chọn phương tiện hoạt động và cuối cùng là phải được hình thành
trên cơ sở hiểu biết quy luật và sự vận động của hệ thống quản lý, ra quyết định.

Vì tính chất quan trọng của quyết định quản lý nên nội dung của quyết định
quản lý phải đảm bảo các yêu cầu như phải mang : tính khoa học, tính toàn diện,
tính khả thi, tính thống nhất, tính kịp thời, tính hiệu quả, tính linh hoạt và tính hợp
pháp. Một quyết định khoa học là quyết định phù hợp với định hướng, mục tiêu
của tổ chức, phù hợp với quy luật, nguyên tắc, nguyên lý khoa học và xu thế khách
quan, phù hợp với điều kiện cụ thể, với tình huống cần đưa ra quyết định và được
xây dựng dựa trên cơ sở vận dụng các phương pháp khoa học. Một quyết định toàn
diện là quyết định có nội dung bao quát được nhiều vấn đề, thỏa mãn cao các mục
tiêu, phù hợp với những ràng buộc nhất định, được sự ủng hộ của số đông. Quyết
định có tính thống nhất cao là quyết định được ban hành bởi các cấp, các bộ phận
chức năng phải thống nhất theo cùng một hướng do mục tiêu chung xác định và
các quyết định được ban hành tại các thời điểm khác nhau thì không được mâu
thuẩn, trái ngược và phủ định (những quyết định nào hết hiệu lực phải được bãi
bỏ). Một quyết định của tính kịp thời là quyết định ban hành vào thời điểm quyết
định có hiệu quả cao nhất, đáp ứng được sự mong đợi của đối tượng quản lý. Một
quyết định linh hoạt là quyết định phản ánh được mọi nhân tố mới trong lựa chọn
quyết định, phản ánh được tính thời đại, đáp ứng được sự biến đổi môi trường mà
quyết định ra đời và thực hiện. Quyết định hợp pháp, hiệu quả và khả thi là quyết
định đúng thẩm quyền ban hành, thủ tục, thể thức, không trái với pháp luật quy
định; mang lại hiệu quả kinh tế và có khả năng thực hiện được trong thực tế


17

Để tổ chức xây dựng và thực hiện một quyết định, nhà quản lý phải tuân thủ chặt
chẽ những bước trong quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định
Quy trình ra quyết định bao gồm 2 giai đoạn, mỗi giai đoạn thực hiện nhiều
bước.
Giai đoạn chuẩn bị : giai đoạn này nhà quản lý thực hiện việc phát hiện những
vấn đề mà yêu cầu của tổ chức hoặc yêu cầu từ thực tiễn đặt ra, những vấn đề này

phải thuộc phạm vi mình quản lý và thuộc thẩm quyền mình ban hành. Trên cơ sở
xác định những vấn đề cần ra quyết định nhà quản lý sẽ đánh giá tình huống, xác
định những mục tiêu nhiệm vụ phải làm và tìm hiểu những thông tin có liên quan,
tác động đến vấn đề đặt ra. Căn cứ trên việc xác định những thông tin có liên quan
cần phải thu thập và các mục tiêu phải đạt được, nhà quản lý sẽ dự đoán kết quả,
lựa chọn các chỉ tiêu, các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của các phương án và
xác định mức độ ưu tiên (trọng số) cho từng tiêu chí đã đặt ra.
Giai đoạn chủ yếu : bước đầu tiên của giai đoạn này thực hiện thu thập thông
tin để làm rõ nhiệm vụ cần giải quyết (bao gồm những thông tin về môi trường, thị
trường, công nghệ, thông tin về các yếu tố mang tính chính trị :áp lực của nhóm
lợi ích, nghiệp đoàn, nhà nước...). Trên cơ sở các thông tin đã thu thập, nhà quản
lý sẽ chọn và mời những chuyên gia, những nhà chuyên môn sâu cùng tham gia
xây dựng chính thức các nhiệm vụ và các phương án giải quyết vấn đề, thực hiện
việc phân tích, so sánh, đánh giá hiệu quả và khả năng đáp ứng của các phương án
đối với các mục tiêu mong đợi nhằm chọn ra phương án tối ưu và cuối cùng là ban
hành quyết định quản lý. Để chọn lựa phương án tối ưu, trước khi đưa ra quyết
định cuối cùng, người lãnh đạo quản lý cần thiết phải tham khảo ý kiến tập thể và
các chuyên gia, bảo đảm tinh thần dân chủ thực sự và tập trung đúng nghĩa. Mặt
khác, trong thực tế khi ban hành một quyết định quản lý, ít khi gặp những trường
hợp vấn đề đặt ra hoàn toàn mới, do đó, người lãnh đạo trước khi ra quyết định
mới cần phải đánh giá lại nội dung và kết quả thực hiện của các quyết định cũ trên
cả 2 mặt : cái được và cái chưa được, phân tích nguyên nhân và những kinh
nghiệm rút ra từ đó, những yếu tố hợp lý nào cần phải được giữ lại. Kinh nghiệm
thực tế cũng cho thấy rằng một quyết định đúng đắn là quyết định có căn cứ và sự
phân tích tình hình một cách cụ thể, không chỉ phân tích tình huống mà còn phân
tích xu hướng phát triển của vấn đề. Đối với những quyết định mà đối tượng thực
hiện và chịu sự tác động là lực lượng đông đảo trong xã hội thì khi chuẩn bị ra


18


quyết định quản lý, nhà quản lý phải quan tâm tới nhân tố xã hội ảnh hưởng tới quá
trình tổ chức thực hiện quyết định như: điều kiện thực hiện, trình độ nhận thức và
phản ứng, thái độ của người thực hiện, chính sách của Nhà nước, phát triển công
nghệ, mục tiêu, thị trường… Trong trường hợp ở phạm vi nhỏ, tính chất công việc
đơn giản có thể cho phép người lãnh đạo bỏ qua một số bước nào đó trong các
bước kể trên.
Tóm lại, vấn đề ra quyết định quản lý và tổ chức thực hiện quyết định là một quá
trình không hề đơn giản, nó bao gồm nhiều bước phức tạp và gắn với nó là sự sáng
tạo, nhạy bén của tư duy nhà lãnh đạo quản lý trên cơ sở thực tiển kết hợp với các
phương pháp khoa học và các quy luật khách quan
* Liên hệ phân tích một quyết định cụ thể . Trong thực tiễn cho thấy có những
quyết định quản lý khi ban hành được triển khai rộng rãi và được rất nhiều người
đồng tình ủng hộ, tham gia thực hiện nhưng cũng có những quyết định quản lý rất
khó tổ chức triển khai thực hiện. Đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, vốn là những
vấn đề rất nhạy cảm trong quần chúng nhân dân. Pháp luật nói chung và pháp luật
đất đai nói riêng đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu,
bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, quá trình này
cũng là quá trình đổi mới, quá trình hoàn thiện pháp luật để thích ứng với sự phát
triển của nền kinh tế xã hội. Sự phát triển của pháp luật với sự phát triển của thực
tế trong giai đoạn này không phải lúc nào cũng đạt được sự đồng bộ nhất nhất mà
có lúc, có nơi còn có những khoảng cách mà Nhà nước đã và đang cố gắng khắc
phục tình trạng này.
Lấy ví dụ như việc ban hành Nghị định 60/NĐ-CP của Chính phủ ngày
5/7/1994 về việc Quyền sử dụng nhà ở và Quyền sử dụng đất ở tại đô thị. Nội dung
chính của Nghị định này là nhà nước quy định đối với nhà và đất ở thuộc khu vực
đô thị thì chủ sở hữu nhà và chủ sử dụng đất sẽ được cấp 1 giấy chứng nhận trên
đó có cả 2 quyền : quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Đây là một quyết
định hợp pháp do được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức. Tuy nhiên, về
tính khoa học, tính linh hoạt, tính hiệu quả, tính toàn diện và tính khả thi của quyết

định có rất nhiều vấn đề cần phải xem xét
Về tính khoa học và tính thống nhất, quyết định này có nhiều yếu tố phù hợp với
mục tiêu mà chính phủ và cả người dân mong muốn : đó là nhằm quản lý chặt chẽ


19

hơn tình hình đất đai - nhà ở tại đô thị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện
các chính sách đền bù, giải toả, quy hoạch, chỉnh trang đô thị cũng như các quan hệ
giao dịch khác của người dân (thế chấp, chuyển nhượng ...). Rõ ràng việc gắn cả 2
quyền này vào cùng một giấy chứng nhận sẽ thuận tiện hơn cho người dân khi thực
hiện các quyền (chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn ...) và cũng
phù hợp xu thế hình thành một thị trường bất động sản ở nước ta. Tuy nhiên bản
thân của 2 quyền này có những điểm khác nhau rất cơ bản : đó là đối với quyền sở
hữu nhà thì người chủ sở hữu có thể toàn quyền định đoạt tài sản của mình, họ có
thể thế chấp, chuyển nhượng, thừa kế phần tài sản này cho bất cứ đối tượng nào mà
pháp luật không cấm, tuy nhiên về quyền sử dụng đất đai thì khác, quyền của
người sử dụng đất sẽ có những giới hạn nhất định, do đó có những trường hợp có
thể pháp luật về nhà ở, dân sự không cấm nhưng đối với pháp luật đất đai thì
không được phép chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp... Mặt khác, nội dung của Nghị
định còn giao cho cả 2 ngành Xây dựng và Địa chính trong phạm vi chức năng của
mình tổ chức thực hiện, mỗi ngành với nhân lực và nội dung quản lý riêng nên ban
hành hướng dẫn lại chưa thống nhất. Do đó, Nghị định này còn hạn chế về tính
khoa học và tính thống nhất.
Về tính khả thi, tính toàn diện và tính linh hoạt thì thực tế cho thấy rằng phương
án tổ chức thực hiện mà Nghị định đưa ra là phải có sự phối hợp của cả hai cơ
quan xây dựng và địa chính cùng thực hiện, quản lý hồ sơ lưu và bản lưu giấy
chứng nhận cũng ở cả hai đơn vị, điều này trên thực tế gây rất nhiều phiền hà cho
người dân vì khi có thay đổi nội dung trên giấy chứng nhận thì phải đến cả 2 cơ
quan để xác nhận. Mặt khác, do mỗi cơ quan chức năng quản lý khác nhau nên cơ

quan nào cũng muốn giấy chứng nhận phải thể hiện đầy đủ những thông tin mình
cần quản lý, điều đó càng làm cho quy trình thực hiện khó khăn hơn nhiều. Lực
lượng thực hiện của 2 bên cũng không đồng nhất nên cùng một nhà và đất ấy phải
đo vẽ nhà đất 2 lần. Ngoài ra, có rất nhiều hồ sơ nhà đất chưa đủ điều kiện cấp giấy
nên để được hợp thức hóa cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở thì người dân phải cùng một lúc phải nộp một khoản tiền khá lớn vừa
nhà, vừa đất. Bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng có khi chủ nhà hợp pháp về đất
nhưng do nhà xây dựng lấn chiếm không gian hoặc xây dựng trái phép và không
phù hợp với quy hoạch nên không được cấp quyền sở hữu nhà, do đó người chủ
nhà này cũng không được cấp GCN. Từ những vướng mắc trên cho thấy rằng tính
khả thi và tính toàn diện của Nghị định là rất thấp và sau 10 năm ban hành cả nước


20

cũng chỉ mới cấp được không quá 50% số trường hợp phải cấp, không thỏa mãn
những mục tiêu đã đề ra cũng như không đáp ứng được những vấn đề mà thực tế
diễn ra.
Ví dụ thứ 2 là việc ban hành Quyết định 19/2000/NĐ-CP của Thủ tướng Chính
phủ ngày 03/02/2000 về việc bãi bỏ các loại giấy phép trái quy định của Luật
doanh nghiệp. Nội dung chính của quyết định là bãi bỏ các loại giấy phép kinh
doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, giấy phép hành nghề, chứng chỉ
hành nghề và giấy phép dưới hình thức khác trái với Luật doanh nghiệp, kể cả
những loại giấy phép kinh doanh khác do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
ban hành mà không căn cứ vào luật, pháp lệnh, nghị định, nhưng chưa được liệt
kê vào Danh mục kèm theo Quyết định 19. Đối với điều kiện kinh doanh xét thấy
cần thiết phải có giấy phép thì các cơ quan hữu quan phải trình Chính phủ ban
hành nghị định để thực hiện đúng quy định tại Điều 6 Luật Doanh nghiệp.
Đây là quyết định ban hành hợp pháp do được ban hành đúng thẩm quyền,

đúng thể thức. Quyết định này cũng mang tính khoa học và mang tính hiệu quả cao
bởi vì nó phù hợp với xu hướng cải cách hành chính, giảm bớt những thủ tục phiền
hà và gây trở ngại cho doanh nghiệp, nhờ đó có tác động tích cực thúc đẩy sự tăng
trưởng phát triển kinh tế. Quyết định này mang tính toàn diện vì những vấn đề mà
quyết định nêu bao hàm rất nhiều ngành, (khoa học công nghệ, môi trường,
Thương mại, hải quan, Thủy sản, tài chính, công nghiệp, bưu điện, du lịch, y tế, lao
động – thương binh xã hội, văn hóa thông tin, giao thông vận tải, xây dựng, nông
nghiệp, kế hoạch đầu tư ...). Quyết định nàu cũng mang tính linh hoạt vì nội dung
của quyết định còn bao hàm cả những trường hợp mà quyết định chưa xác định
kịp nhưng dự đoán sẽ có xảy ra trong thực tế. Quyết định này cũng mang tính khả
thi cao vì phù hợp với nguyện vọng của đối tượng chịu tác động (các doanh
nghiệp) cũng như của những nhà quản lý có đạo đức nghề nghiệp. Quyết định này
cũng thống nhất với nội dung của Luật doanh nghiệp và chủ trương cải cách hành
chính của Đảng và nhà nước ta

Câu9: Nội dung, ý nghĩa và việc áp dụng các mô hình kế hoạch hóa vào thực
tiễn quản lý Nhà nước về kinh tế theo giai đoạn tác động. Những hạn chế và
nguyên nhân thất bại của kế hoạch hóa


21

a, Nội dung, ý nghĩa và việc áp dụng các mô hình kế hoạch hoá (KHH) vào thực
tiễn QLNN theo giai đoạn:
Mô hình tăng trưởng tổng hợp (MHTTTH)
- Là mô hình KHH đầu tiên và sơ đẳng nhất, nó đề cập đến toàn bộ nề kt vĩ mô,
như: tiêu dùng, sx, đầu tư, tiết kiệm, XNK.
- Thường dùng để x/định tốc độ phát triển của sản lượng QG với các giả thiết đơn
giản về tiết kiệm và đầu tư.
- Loại đơn giản nhất, thường s/dụng nhiều nhất là mô hình Harrod-Domer. Theo

mô hình này, tiết kiệm và đầu tư giới hạn tạo nên hạn chế chính đối với tăng
trưởng KT tổng hợp.
- Với tốc độ tăng trưởng tổng sp quốc dân cho trước, mô hình này được sd để x/đ
số lượng tiết kiệm cần thiết để tạo ra tăng trưởng tg ứng.
- Tại những nước thiếu hụt, dự trữ ngoại hối được xem như trở ngại chính ngăn cản
tăng trưởng KT thì mô hình TTTH tập trung nhiều hơn vào XK, NK, biến động tỷ
giá mậu dịch & các nguồn viện trợ tài chính (TC) của nc ngoài.
MH dự án khu vực:
- Thứ nhất, phân chia nền KT thành 2 hoặc nhiều khu vực chính (Nông nghiệp, phi
nông nghiệp, hàng tiêu dùng, khu vực sx) thì mục đích lập ra 1 KH trong nc 1 cách
nhất quán cho toàn bộ nền KT tập trung vào những triển vọng tăng trg của 1 số
giới hạn trong khu vực chính.
- Thứ hai, tập trung vào mức độ sx & tiêu dùng để điều tra khả năng tăng trg trog
từng khu vực của nền KT thì cách tiếp cận DA khu vực đơn nhất thường đc áp
dụng nhiều ở nền KT thiếu số liệu thống kê về MH tổng hợp, mô hình khu vực
hoàn chỉnh. Tuy nhiên, những KH từng phần chỉ là tập hợp ngẫu nhiên gồm các
DA phát triển đủ các loại mà ko có những quan hệ liên kết với nhau rõ ràng.
MH liên ngành toàn diện:
- MH liên ngành or MH đầu vào, đầu ra mô tả hđ của tất cả khu vực sx của nền kt
có mối liên hệ toán học với nhau.


22

- Các MH liên ngành xếp loại từ đầu ra, đầu vào đơn giản, gồm 10-30 ngành trong
nền kt đang pt, và 30-40 ngành có nền kt tiên tiến.
- Các MH phức tạp hơn như loại “chương trình tuyến” hay “phân tích hoạt động”
mà việc kiểm tra tính khả thi, tính tối ưu cũng đc đưa vào MH.
- Đặc điểm nổi bật của MH này là ý đồ muốn lập ra 1 kế hoạch phát triển thích hợp
với nội bộ và toàn diện cho toàn bộ nền kt.

Như vậy, MH này chỉ có tác dụng giới hạn đối với các nền KT đang phát triển.
* Áp dụng các mô hình kế hoạch hóa này vào:
+ Giai đoạn phát triển: nền kt ở giai đoạn phát triển thấp sẽ thích hợp hơn nếu tập
trung vào dự án đầu tư dự án công nhờ kinh phí xh, tạo đk để tiến hành cải cách
kinh doanh.
+ Cơ cấu kinh tế:
- Nơi nào mà thành phần kt tư nhân ko có tác dụng và thụ động thì khu vực nhà
nước sẽ đảm nhận phần thụ động và tạo ra kích thích ban đầu.
- Tuy nhiên, nếu kt tư nhân năng động thì sẽ tập trung tạo ra đk thuận lợi, giúp kt
tư nhân tự do kd -> đóng góp nhiều hơn lợi ích cho xh.
+ Khả năng sẵn có và chất lg của thông tin thống kê:
Độ tin cậy của thông tin thống kê là rất cần thiết và quan trọng cho việc lựa chọn
PP kế hoạch hóa. Trong điều kiện số liệu thống kê sơ sài, ko chắc chắn thì phạm vi
ứng dụng sẽ ít hơn những số liệu phân tích có độ tin cậy cao.
Tuy nhiên, khi mà thiếu thông tin thông kê, sẽ cản trở việc ứng dụng mô hình
toán nhất định -> việc lập KH chỉ mang tính mô phỏng, phỏng đoán theo thông tin
thực tế của nền KT có hoàn cảnh tương tự.
+ Giới hạn về nguồn lực:
Sự khan hiếm ngoại hối và vốn được coi là những bế tắc chính hạn chế phát triển
kinh tế nhanh chóng.


23

- Khi ngoại hối khan hiếm cần đẩy mạnh XK hoặc 1 hình thức kiểm soát NK sẽ có
tầm quan trọng hơn trong kế hoạch.
- Nếu vốn hạn chế thì cần tập trung đầu tư cho lĩnh vực sxkd có hiệu quả nhất.
- Những khó khăn khác có thể xuất hiện trong quá trình ph/triểnKT, như nhân lực
có trình độ cao, phương tiện GTVT, tài chính… của Chính phủ bị hạn chế.
+ Các ưu tiên & mục tiêu:

- Mục tiêu kinh tế: tăng thu nhập trên đầu ng, tạo công ăn việc làm, giá cả ổn định,
giảm nghèo, bất công trong thu nhập, cải thiện cán cân thanh toán…
- Mỗi mục tiêu có thể đúng với kỳ vọng, song dễ dàng nảy sinh mâu thuẫn nếu tất
cả đều theo đuổi mức độ như nhau.
Do đó, trên cở sở của điều kiện và giới hạn XH-KT và thể chế hiện hành cần lựa
chọn các thứ tự ưu tiên các mục tiêu nói trên trog kế hoạch phát triển KT-XH.
b. Hạn chế và nguyên nhân thất bại của kế hoạch hóa:
+ Hạn chế:
- kết quả thực tiễn trong những năm qua của hầu hết các nước đang phát triển chưa
chứng minh đc tính hơn hẳn của kế hoạch. vấn đề là ở chỗ kế hoạch hoá tồi chứ ko
phải chỉ tại việc KHH.
- NN muốn thúc đẩy CNH-HĐH bằng chính sách hỗ trợ nhưng lại làm cho mục
tiêu công ăn, việc làm xa rời.
- Mất cân đối giữa nông thôn, thành thị và sự di dân.
- Hạn chế của KHH ko phải do bản chất của nó mà do sự can thiệp chưa tốt của
NN vào nền KT.
- Hạn chế của KHH chính là chưa khắc phục được mâu thuẫn giữa sự đánh giá của
cá nhân & Xh về lợi ích & chi phí.
- Có lợi ích đứng trên quan điểm cá nhân, DN nhưng chưa có lợi cho XH. CHất
lượng của KH cần đc nâng cao.
+ Nguyễn nhân thất bại:


24

- Những thiếu sót trong KH & thực hiện KH.
- Số liệu ko đầy đủ, thông tin ko chính xác.
- Biến động KT trong nước, khu vực và TG.
- Yếu kém về thể chế.
- Thiếu “ý chí chính trị”.


Câu 10: Các yếu tố và điều kiện chi phối đến việc đưa công nghệ vào phát
triển kinh tế-xã hội? Vai trò của công nghệ và việc đổi mới cơ chế quản lý
khoa học công nghệ giai đoạn tới của nhà nước ta
a.Các yếu tố và ĐK chi phối đến việc đưa công nghệ (CN) vào pt KTXH:
+ Công nghệ là công cụ để giải quyết vấn đề chứ ko phải là lực lượng độc lập và tự
trị cho nên công nghệ còn phụ thuộc vào môi trường XH-KT-CT của mỗi QG.
+ Một công nghệ có thể phù hợp với MT này nhưng ko phù hợp với điều kiện
MT khác. Yêu cầu chất lượng, chủng loại, định hướng thị trường của sản phẩm …
là yếu tố lựa chọn CN.
+Xét về mặt kt, trong MQH sản xuất, công nghệ đc coi là phg tiện để thực hiện
quá trình sx, biến đổi đầu vào thành đầu ra là các sp & dv mong muốn.
b, Vai trò của CN trong pt KTXH:
- Vì kt luôn phát triển, nên vai trò công nghệ luôn luôn thay đổi. Ngày nay các
công nghệ mới và ngành mới có hàm lg KH-KT cao phát triển theo hướng sau:
+ Tạo ra các loại quy trình sx công nghệ mới đc tự động hoá trên cơ sở kết hợp
thành tựu của ngành điện tử, vi điện tử, chế tạo máy tính điện tử, kỹ thuật laser, tin
học,...
+ Tạo ra vật liệu mới, các vật liệu chuyên dụng, các vật liệu compusit mới,
compusit hỗn hợp, vật liệu gốm, siêu sạch, siêu dẫn nhiệt.
+ Mở rộng và hoàn thiện cơ sở năng lượng của nền sx trên cơ sở phát triển
năng lg nguyên tử, nhiệt hạch, năng lg sinh học, năng lg địa nhiệt & mặt trời.


25

+ Trên cơ sở các thành tựu kỹ thuật gen, tạo ra các ngành sx, sử dụng kỹ thuật
& công nghệ sinh học.
- Các CN mới về bản chất mang tính cải tạo, nghĩa là chúng thay đổi cơ bản điều
kiện sx HH. Chúng ko chỉ tạo ra nhiều loại sp mới hơn mà còn a/hg sâu sắc đến

QTSX.
- CN mới là kq của quá trình CNH-HĐH, là động lức chính của quá trình CNH.
Việc Pt CN mới là yếu tố quan trọng làm thay đổi trực tiếp sx công nghiệp.
- CN mới thực hiện những đột phá quan trọng có tác dộng mạnh mẽ đến quá trình
CNH, có thể nói pt công ngiệp trong tương lai trên cơ sở của công nghệ mới.
c, Đổi mới cơ chế QL KHCN:
- Về đường lối chủ trương:
+ Đào tạo và sd có hiệu quả đội ngũ cán bộ KHKT, bố trí lại lực lg KH&CN
theo hg gắn với GD&ĐT, nghiên cứu với sx, nhằm đưa KH&CN đi sâu vào thực
tiễn.
+ Hoàn thiện & XD mới các c/sách pt KHCN phù hợp với luật pháp hiện hành
& pt theo cơ chế thị trường.
+ Đổi mới công tác kế hoạch hóa trong lĩnh vực KHCN.
+ Thực hiện chế độ hạch toán KT trong hđ KHCN.
+ Đổi mới cơ cấu, tổ chức của QL KHCN …
- Về luật pháp:
+ Hệ thống VB quy phạm PL về KHCN đã đc sửa đổi bổ sung và ban hành
trong những năm gần đây (2005-2012) là cơ sở pháp lý để thực hiện QLNN về
KHCN.
+ NN đã có hàng trăm VB điều chỉnh QH XH chủ yếu trong lĩnh vực hđ kHCN
như:
. Kế hoạch hóa, QL chương trình, đề tài, chế độ hợp đồng …
. Pháp lệnh chuyển giao công nghệ nước ngoài vào VN.


×