Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

VẬN DỤNG tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH về đạo đức TRONG VIỆC GIÁO dục đạo đức CHO cán bộ ĐẢNG VIÊN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (407.69 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ TRANG NHUNG

VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO CÁN BỘ ĐẢNG
VIÊN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60220301

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Người hướng dẫn khoa học
PGS.TS Nguyễn Văn Phúc

HÀ NỘI - 2016


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU…………………………………………………………

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ VẬN DỤNG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC TRONG VIỆC GIÁO DỤC
ĐẠO ĐỨC CHO CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN HUYỆN CHƠN THÀNH,
TỈNH BÌNH PHƯỚC…………………………………………………....


8

1.1. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức…………………………………………………………………………

8

1.2. Thực chất việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
trong giáo dục đạo đức và sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn
Thành, tỉnh Bình Phước…………………………………………………..

15

Chương 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
ĐẠO ĐỨC TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO CÁN BỘ ĐẢNG
VIÊN HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC: THỰC
TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP………………………….

37

2.1. Một số nhân tố tác động tới vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn
Thành, tỉnh Bình Phước …………………………………………………..

37

2.2. Những thành tựu và nguyên nhân của vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện
Chơn Thành, tỉnh Bình Phước…………………………………………….


41

2.3. Những hạn chế và nguyên nhân của vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện
Chơn Thành, tỉnh Bình Phước…………………………………………….

52

2.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho cán
bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước……………………….

58

KẾT LUẬN……………………………………………………….

78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………….

82


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới. Tư tưởng của Người là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và một trong những nội dung quan trọng
được Người quan tâm, đó là vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng

viên.
Đạo đức ra đời từ rất sớm trong lịch sử loài người và tồn tại, phát triển cùng
với sự xuất hiện của loài người. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, thể hiện vai
trò quan trọng trong việc đảm bảo sự ổn định của xã hội nói chung và sự phát triển
con người nói riêng. Việc giáo dục đạo đức cho mỗi người, nhất là cho cán bộ đảng
viên luôn được xã hội, Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Chúng ta muốn xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước ngày càng giàu
mạnh, thì chúng ta cần có những con người cách mạng và người cách mạng đó phải
có đức, có tài, trong đó đức là gốc, như Bác đã dạy “Cũng như sông thì có nguồn
mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây
héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng
không lãnh đạo được nhân dân” [33, tr.252-253].
Cán bộ đảng viên là những người trực tiếp thay mặt Đảng và Nhà nước quan
tâm, giải quyết các vấn đề liên quan đến cuộc sống hằng ngày của người dân, liên
quan đến lợi ích quốc gia, dân tộc. Muốn thực hiện được mục đích cao đẹp và nặng
nề này thì cán bộ đảng viên phải là người có phẩm chất, đạo đức tốt. Nhận thấy tầm
quan trọng của đạo đức và giáo dục đạo đức, nhất là đạo đức cho cán bộ đảng viên;
xác định tầm quan trọng của đạo đức theo tấm gương tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
trong thời kỳ đổi mới, năm 2006 Đảng ta đã chính thức phát động cuộc vận động học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (Chỉ thị số 06-CT/TW ngày
07/11/2006), đến năm 2011 tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14/5/2011
“Về việc đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và
đến nay tiếp tục thực hiện bằng Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính
trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Tại Hội nghị lần thứ 12 (khóa XI) Đảng ta đã đánh giá: Bên cạnh kết quả đạt
được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có
những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm


giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách

thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Hội nghị đã chỉ rõ
một trong những vấn đề cấp bách đó là: Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên,
trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao
cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau
về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy
theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô
nguyên tắc...
Vì vậy, Nghị quyết số 12-NQ/TW, ngày 16/01/2012 của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã xác định
ba vấn đề cấp bách hiện nay là:
- Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết
là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân đối với Đảng.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cấp Trung
ương, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
- Xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy, chính quyền
trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị; tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng.
Đất nước ta đang trên con đường đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH, đang chủ
động hội nhập quốc tế. Chính vì vậy, yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ đảng viên là
phải luôn nâng cao chất lượng về năng lực, vững vàng về chính trị, đạo đức, lối sống
là việc cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Huyện Chơn Thành trong những năm qua cùng với sự hội nhập, phát triển
của cả nước, Đảng bộ, Chính quyền và Nhân dân huyện đã gặt hái được nhiều thành
tựu đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng. Song, thực tế
cho thấy tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên vẫn
còn diễn biến. Việc nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh và vận dụng để giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên cần được đẩy mạnh
và thường xuyên hơn.

Từ những lý do trên, việc nghiên cứu và vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh về đạo đức trong việc giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn
Thành, tỉnh Bình Phước là rất cần thiết, để góp phần cùng huyện Chơn Thành hòa


nhập theo trào lưu phát triển chung của đất nước theo đúng chủ trương, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Với đề tài tâm đắc nhất này, học viên muốn nêu lên một cách khái quát nhất,
nhưng đầy đủ nhất tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức. Từ đó, tìm hiểu, đánh giá thực
trạng và những nhân tố tác động trong quá trình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
đạo đức cách mạng trong học tập, rèn luyện nâng cao đạo đức cách mạng của đội
ngũ cán bộ đảng viên tại huyện Chơn Thành. Phân tích nguyên nhân, hạn chế và đề
ra một số giải pháp chủ yếu giúp cho cán bộ đảng viên của Đảng bộ huyện Chơn
Thành nâng cao hơn nữa ý thức tự rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, góp phần xây dựng Đảng bộ huyện trong sạch, vững mạnh. Hoàn thành
thật tốt nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn hiện nay.
Và thông qua luận văn, học viên muốn bày tỏ lòng kính yêu vô hạn của mình
đến lãnh tụ Hồ Chí Minh, một tấm gương sáng ngời về đạo đức của Đảng và dân tộc
Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, một di sản tinh thần vô giá mà Bác đã để
lại cho chúng ta. Việc nghiên cứu tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, giáo
dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ
rất sớm. Trong Đại hội VII của Đảng (năm 1991), Đại hội IX (năm 2001), khi Đảng
ta đưa nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh vào văn kiện Đại hội thì việc nghiên cứu, giáo
dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được toàn Đảng, toàn dân quan tâm học
tập, giáo dục và triển khai sâu rộng. Có rất nhiều tác giả, tác phẩm, tài liệu, nội dung
nghiên cứu liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh, liên quan đến đạo đức và giáo dục
đạo đức nói chung và cụ thể là giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên. Nhiều tác
phẩm, tác giả, đề tài tiêu biểu liên quan đến vấn đề này là: các tài liệu học tập ở các

Trường đại học, cao đẳng, Trường chính trị; các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị của
Đảng.
Các tác phẩm, bài viết của một số tác giả trong và ngoài nước như: các giáo
trình môn Tư tưởng Hồ Chí Minh dùng trong các Trường cao đẳng, đại học, sau đại
học, các Trường chính trị: giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh của Hội đồng Trung
ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh (biên soạn và phát hành năm 2003) giảng dạy trong các trường
học chuyên ngành, đào tạo sau đại học; giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (do Bộ giáo
dục và đào tạo biên soạn và phát hành năm 2004) giảng dạy trong các trường cao


đẳng, đại học; giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh (do Bộ giáo dục và đào tạo tái bản có
sửa chữa, bổ sung năm 2011) dành cho sinh viên đại học, cao đẳng khối không
chuyên ngành Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Bài viết “Tiếp tục đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng” - PGS.TS.
Phạm Ngọc Anh - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Tạp chí Báo cáo viên
tháng 5/2016 của Ban Tuyên giáo Trung ương.
Ban Tuyên giáo Trung ương với cuốn sách 117 chuyện kể về tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh (Nxb Chính trị quốc gia - 2007). Ngoài ra, còn có các tài liệu khác
do Ban Tuyên giáo Trung ương ấn hành hàng năm phục vụ cho việc đẩy mạnh “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo chủ đề từng năm.
Nhiều tài liệu liên quan đến đề tài như: các Đề cương tuyên truyền về tư
tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh của Ban Tuyên giáo Trung ương; các Báo cáo sơ kết,
tổng kết Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” của
Tỉnh ủy Bình Phước và Huyện ủy Chơn Thành .v.v…
Bên cạnh đó, còn có sách “Đạo đức người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay,
thực trạng và giải pháp” Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2005 do PGS, TS Nguyễn
Thế Kiệt chủ biên; “Người cán bộ, đảng viên” Nxb Thanh niên, 2010 do TS Trần
Đình Thêm biên soạn; “Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và Nhân dân trong thời

kỳ mới” Nxb Chính trị quốc gia - sự thật, 2014 do Nguyễn Thế Trung - Ban Dân vận
Trung ương chủ biên…
Ngoài ra, còn có các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị như: Chỉ thị số 06-CT/TW,
ngày 7/11/2006 của Bộ Chính trị về “Tổ chức cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14/5/2011 của Bộ Chính
trị về “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”; Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; Nghị quyết số 12NQ/TW, ngày 16/01/2012 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ IV, khóa XI
về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay; văn kiện Đại hội Đảng bộ
huyện Chơn Thành lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 - 2020.
Đề tài về tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, về giáo dục đạo đức
Hồ Chí Minh cho các đối tượng khác nhau ở nước ta có thể nói là rất phong phú và
đó là cơ sở cho nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về giáo


dục đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành thì cho đến nay vẫn
chưa có luận văn nào đề cập nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu vào luận văn:

- Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong
giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
- Phạm vi nghiên cứu: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong
giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước từ năm
2005 đến nay.
4. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích của luận văn
Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lí luận về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
về đạo đức trong việc giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành,
tỉnh Bình Phước, luận văn đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhăm nâng cao hiệu quả của vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong việc

giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước hiện
nay.
- Nhiệm vụ của luận văn.
+ Hệ thống hóa và phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về đạo đức.
+ Đánh giá thực trạng và nguyên nhân của thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức trong việc giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn
Thành, tỉnh Bình Phước.
+ Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả của vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện
Chơn Thành, tỉnh Bình Phước hiện nay.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, giáo
dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho cán bộ đảng viên.
- Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện dựa trên các phương pháp nghiên cứu: phân tích tổng hợp, lịch sử - logic, đối chiếu, so sánh, khái quát hóa,...
6. Đóng góp mới của luận văn


- Luận văn góp phần làm rõ một số vấn đề lí luận trong việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện
Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
- Đánh giá thực trạng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
hiệu quả của vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho
cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước.
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là tài liệu tham khảo nghiên cứu và vận dụng trong việc nâng cao
hiệu quả của việc “Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”

và vận dụng tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ đảng viên ở địa phương.
- Luận văn cũng có thể làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan, đơn vị và
những người quan tâm đến vấn đề này. Đồng thời cũng có thể làm tài liệu tham khảo
để giảng dạy tại Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện Chơn Thành.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, Luận văn có phần nội
dung được chia thành 02 chương với 06 tiết.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VỀ VẬN DỤNG


TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
TRONG VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO CÁN BỘ ĐẢNG VIÊN
HUYỆN CHƠN THÀNH, TỈNH BÌNH PHƯỚC.
1.1. Những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
Đại hội lần thứ VII (năm 1991) đã đưa ra khái niệm về tư tưởng Hồ Chí
Minh và đến Đại hội lần thứ IX (năm 2001) của Đảng, một lần nữa Đảng ta xác định
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại...” [68, tr.11] Có thể thấy rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành từ 4
nguồn gốc, nguồn gốc từ tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; của các giá trị
văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam; từ tinh hoa văn hóa nhân loại và từ
phẩm chất cá nhân của Người. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống các quan
điểm lý luận toàn diện và sâu sắc. Song hành cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng và dân
tộc Việt Nam; tất cả những nội dung cơ bản nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh đều liên
quan trực tiếp đến cách mạng Việt Nam và tư tưởng của Người vẫn mãi là ngọn đèn

soi đường cho cách mạng Việt Nam, là tài sản vô giá của Đảng và Nhân dân ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là một bộ phận hợp thành, một phương
diện cốt lõi, cơ bản của hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Toàn bộ tư tưởng Hồ Chí
Minh về cách mạng Việt Nam, như: Tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp; về độc lập dân tộc gắn với CNXH; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn
kết dân tộc; về quyền làm chủ của nhân dân và xây dựng nhà nước thật sự của dân,
do dân, vì dân..., đều toát lên một tinh thần nhân văn, nhân đạo, cao cả; đều xuất phát
từ con người, nhân dân, dân tộc; đều hướng đến giải phóng giai cấp, dân tộc, giải
phóng con người, nghĩa là đều bao chứa phương diện đạo đức.
Cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức có nguồn gốc từ truyền thống văn hóa, đạo đức dân tộc Việt Nam, được hình
thành và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh còn là sự kế thừa, đổi mới và phát triển tư tưởng đạo đức phương Đông,
phương Tây, những tinh hoa văn hóa, đạo đức nhân loại. Trong số những giá trị tư
tưởng đạo đức nhân loại, những tư tưởng, những tấm gương đạo đức của các nhà


sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bởi lẽ, chủ nghĩa
Mác - Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất và chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới có
thể thật sự soi đường cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại, giải
phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cũng là kết tinh những nỗ lực của một nhân
cách vĩ đại. Ngay từ khi còn trẻ, Người đã có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, tự
tin, giàu lòng nhân ái, sớm có chí cứu nước, giải phóng đồng bào. Những phẩm chất
đó được rèn luyện, phát huy trong suốt cuộc đời hoạt động của Người. Nhờ vậy, giữa
thực tiễn sinh động, phong phú và phức tạp; giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác
biệt nhau; Hồ Chí Minh, với năng lực, tình cảm và bản lĩnh đặc biệt của mình đã
phân tích, khái quát, đánh giá và quyết chọn những giá trị của tư tưởng nhân loại để
hình thành tư tưởng và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh là một hệ thống những quan điểm, quan niệm hoàn chỉnh về đạo đức và xây

dựng đạo đức. Dưới đây là những nội dung cơ bản trong tư tưởng đạo đức của Người
1.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của đạo đức
Theo Hồ Chí Minh, đạo đức có vai trò rất quan trọng trong đời sống xã hội
và trong mỗi bản thân con người. Với chức năng nhận thức và giáo dục, giúp con
người kế thừa tri thức đạo đức, từ đó điều chỉnh hành vi, mối quan hệ giữa người với
người, cá nhân với tập thể,... và phát triển dần thành thói quen, truyền thống, tập
quán đạo đức tốt đẹp. Sự phát triển tiến bộ của xã hội không thể thiếu vai trò của đạo
đức. Đặc biệt, đối với người cách mạng, người cán bộ đảng viên, đạo đức cách mạng
là điều không thể thiếu được. Hồ Chí Minh ví đạo đức như gốc của cây, nguồn của
sông. Sông phải có nguồn mới có nước, không có nước thì sông cạn. Người cách
mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân. Bởi lẽ, muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho nhân loại, đó là công
việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, thì không thể làm được. Người còn nói,
làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang,
nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài,
gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có
đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được nhiệm vụ vẻ vang.
Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc trau dồi đạo đức cách mạng cho cán bộ
đảng viên. Người nhấn mạnh rằng, mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có
thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không. Đạo đức có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp
biến đổi xã hội cũ thành xã hội mới. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian


khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước; khi gặp thuận lợi và thành công
cũng vẫn giữ vững được tinh thần chịu đựng gian khổ, không kèn cựa về mặt hưởng
thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, hủ hóa. Bởi vậy, ngay từ
tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã nêu ra 23 điều về tư cách một người cách
mạng, thực hiện 3 mối quan hệ cơ bản: Đối với mình, đối với người, đối với việc.
Trong suốt những năm 40, 50, 60 của thế kỷ thứ XIX, Người luôn có những bài viết
ngắn gọn, súc tích về vai trò của đạo đức cách mạng, về sự cần thiết tu dưỡng đạo

đức cách mạng. Cho đến lúc đi xa Người vẫn không quên căn dặn, Đảng ta là một
Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên, cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng,
thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch,
phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng
cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo
họ thành những người thừa kế xây dựng CNXH vừa hồng vừa chuyên.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về những chuẩn mực cơ bản của đạo đức
cách mạng
Một là, trung với nước, hiếu với dân:
Trung, hiếu là những khái niệm cũ trong tư tưởng đạo đức truyền thống của
dân tộc Việt Nam và của phương Đông, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa và phát
triển trong điều kiện mới. “Trung với vua, hiếu với cha mẹ” được Hồ Chí Minh vận
dụng thành nội dung mới, phù hợp với hoàn cảnh mới “Trung với nước, hiếu với
dân”. Người nói: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời.
Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên trời” [34,
tr.320-321]. Theo Người, trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là nước
của dân, còn dân lại là chủ nhân của đất nước; bao nhiêu lợi ích đều vì dân, cán bộ là
đầy tớ của dân chứ không phải là “Quan cách mạng”.
Trung với nước là yêu nước, yêu CNXH, tuyệt đối trung thành với sự nghiệp
dựng nước và giữ nước, với sự phát triển đi lên của đất nước, có trách nhiệm bảo vệ
và làm cho đất nước ngày càng giàu mạnh; là suốt đời phấn đấu cho Đảng, cho cách
mạng.
Hiếu với dân là thương dân, tin dân, quý dân, lấy dân làm gốc, ra sức phục
vụ, chăm lo cho nhân dân hết lòng, hết sức. Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh
yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện
dân sinh, nâng cao dân trí.


Trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất, chuẩn mực nền tảng của đạo đức
cách mạng, đối với mỗi cán bộ, đảng viên, phải “Tuyệt đối trung thành với Đảng, với

nhân dân”, phải “Tận trung với nước, tận hiếu với dân” [31, tr.32].
Hai là, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư:
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư là chuẩn mực đạo đức trung tâm,
điều chỉnh hành vi ứng xử trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người, là nền tảng của
đời sống mới.
Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, bọn phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm,
chính, nhưng không bao giờ thực hiện mà lại bắt nhân dân tuân theo để phụng sự
quyền lợi cho chúng. Ngày nay, chúng ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính là để cho cán
bộ đảng viên thực hiện và làm gương cho nhân dân. Với ý nghĩa như vậy, cần, kiệm,
liêm, chính, chí công, vô tư cũng là một biểu hiện cụ thể, một nội dung của phẩm
chất “Trung với nước, hiếu với dân”.
Hồ Chí Minh quan niệm cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính của con
người, như trời có bốn mùa (Xuân, Hạ, Thu, Đông), đất có bốn phương (Đông, Tây,
Nam, Bắc) và Người giải thích cặn kẽ, cụ thể nội dung từng khái niệm.
Cần: Cần cù, siêng năng, chăm chỉ; lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có
năng suất cao với tinh thần tự lực cánh sinh, không ỷ lại, lười biếng, dựa dẫm.
Kiệm: Là tiết kiệm (tiết kiệm thời gian, tiết kiệm công sức, tiết kiệm tiền
của…) không hoang phí của bản thân và đặc biệt quan trọng nhất là không hoang phí
của nước, của dân, không phô trương hình thức.
Cần, kiệm: Là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống, trong công
tác.
Liêm: Liêm khiết, trong sạch, không tham lam tiền tài, địa vị, danh vọng; là
luôn tôn trọng của công và của dân; là không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của
nước, của nhân.
Chính: Chính trực, thẳng thắn, đứng đắn, không tà, thật thà đối với mình, với
người và đối với việc. Đối với mình - không tự cao, tự đại, phải khiêm tốn học hỏi,
phát huy những mặt tốt, khắc phục những mặt còn hạn chế, yếu kém; đối với người không nịnh người trên, khinh kẻ dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân
thành, khiêm tốn, đoàn kết; đối với việc - thì để việc công lên trên, lên trước việc tư,
việc nhà. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được, việc thiện nhỏ mấy cũng
nên làm, việc ác nhỏ mấy cũng nên tránh.

Liêm, chính là phẩm chất của người cán bộ khi thi hành công vụ.


Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt
chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện. Tuy nhiên, là cán bộ đảng viên phải thực hành
trước tiên để làm kiểu mẫu cho dân.
Chí công, vô tư: Là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị; làm việc
gì cũng nghĩ đến nhân dân, đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết; chỉ biết vì
Đảng, vì dân tộc, phải biết “Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Chí công, vô tư là
nêu cao chủ nghĩa tập thể, từ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Đây là chuẩn mực của người
lãnh đạo.
Cần, kiệm, liêm, chính có quan hệ chặt chẽ với nhau và với chí công, vô tư.
Cần, kiệm, liêm, chính sẽ dẫn đến chí công, vô tư. Ngược lại, nếu đã có chí công,
một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm,
chính.
Ba là, gương mẫu, nói đi đôi với làm:
Hồ Chí Minh coi việc nói đi đôi với làm là nguyên tắc quan trọng bậc nhất
trong xây dựng một nền đạo đức mới. Bản thân Hồ Chí Minh là tấm guơng trong
sáng tuyệt vời về lời nói đi đôi với việc làm. Nói đi đôi với làm là đặc trưng bản chất
của tư tuởng đạo đức Hồ Chí Minh. Nói đi đôi với làm đối lập hoàn toàn với thói đạo
đức giả của giai cấp bóc lột, nói một đằng làm một nẻo, thậm chí nói mà không làm.
Ngay sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những biểu
hiện của thói đạo đức giả ở một số cán bộ, “Vác mặt làm quan cách mạng”, nói mà
không làm, làm tổn hại đến uy tín của Đảng và Chính phủ truớc nhân dân.
Đối với mỗi người, lời nói phải đi đôi với việc làm, có như vậy công việc
mới có hiệu quả thực sự cho bản thân mình và cho người khác. Còn nếu như nói
nhiều, làm ít, nói mà không làm thì chẳng có tác dụng gì.
Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phuơng
Đông. Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức.
Nói đi đôi với làm trước hết là sự nêu gương tốt. Sự làm gương của thế hệ đi

trước với thế hệ đi sau, của lãnh đạo với nhân viên.... là rất quan trọng. Người yêu
cầu, trong gia đình thì cha mẹ làm gương cho các con, anh chị làm gương cho em,
ông bà làm gương cho con cháu; ở trường học, thầy cô giáo làm gương cho học sinh;
trong tổ chức, tập thể là tấm gương cho lãnh đạo, còn lãnh đạo làm gương cho cán
bộ, nhân viên cấp dưới, đảng viên phải làm gương trước quần chúng; đối với xã hội,
người này là tấm gương để người kia noi theo, thế hệ đi trước là tấm gương cho thế
hệ con cháu noi theo. Người nói: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên


trán chữ “Cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người
có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người
khác bắt chước” [31,tr.37].
1.1.3.Tư tưởng Hồ Chí Minh về những nguyên tắc xây dựng đạo đức
Một là, phải tu dưỡng đạo đức suốt đời
Đã là con người thì ai cũng có những ưu điểm và những khuyết điểm, mỗi
người đều có một vài hạn chế, ai cũng có tính thiện - ác ở trong mình, không ai hoàn
mĩ. Quan trọng là chúng ta có dám tự nhận và sửa chữa hay không? Một nền đạo đức
mới chỉ có thể được xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi người.
Đạo đức không phải tự nhiên mà có, phải do rèn luyện mà nên. Đạo đức cách mạng
gắn liền với cống hiến, dấn thân cho cách mạng, đạo đức trong hành động vì độc lập
tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo đức cách
mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của mình. Hồ Chí Minh đưa ra một lời khuyên rất
dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng
sáng, vàng càng luyện càng trong” [9, tr293] .
Hai là, nêu gương đạo đức:
Tấm gương đạo đức của Bác là tấm gương sáng ngời để cho tất cả mọi
người, các thế hệ người Việt Nam mãi noi theo. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nói chung
thì các dân tộc phương Đông đều giàu tình cảm và đối với họ một tấm gương sống
còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [1, tr.263]. Với ý nghĩa đó,

Hồ Chí Minh đã đào tạo các thế hệ cán bộ cách mạng Việt Nam không chỉ bằng lý
luận cách mạng tiền phong, mà còn bằng chính bất cứ một lĩnh vực nào khác, trong
việc xây dựng một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải đặc biệt chú trọng
“Đạo làm gương”. Người nói: “Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục
lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức
cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới” [12, tr.558]. Để làm được như
thế, phải chú ý phát hiện, xây dựng những điển hình người tốt, việc tốt rất gần gũi
trong đời thường, trong các lĩnh vực lao động sản xuất, trong chiến đấu, trong học
tập để mọi người học tập, noi theo.
Ba là, xây đi đôi với chống
Trong đời sống thường ngày, hiện tượng người tốt - xấu, đúng - sai, có đạo
đức - vô đạo đức vẫn song hành tồn tại cùng nhau, đan xen nhau, biểu hiện thông qua
hành vi của mỗi người. Cho nên, cùng với việc xây dựng đạo đức, bồi dưỡng những


phẩm chất tốt đẹp, nhất thiết phải chống những biểu hiện phi đạo đức, sai trái, xấu
xa, sai với yêu cầu của đạo đức mới. Xây đi đôi với chống, muốn xây phải chống,
chống nhằm mục đích xây. Xây dựng đạo đức mới trước hết phải được tiến hành
bằng cách giáo dục, giáo dục từ trong gia đình đến nhà trường, tập thể và toàn xã hội.
Những phẩm chất chung nhất phải được cụ thể hoá sát hợp với các tầng lớp, đối
tượng. Hồ Chí Minh đã cụ thể hoá các phẩm chất đạo đức cơ bản đối với từng giai
cấp, tầng lớp, lứa tuổi và nhóm xã hội. Trong giáo dục, vấn đề quan trọng là phải
khơi dậy ý thức đạo đức lành mạnh của mọi người, để mọi người nhận thức được và
tự giác thực hiện.
Trong đấu tranh chống lại cái tiêu cực, lạc hậu, trước hết phải chống lại chủ
nghĩa cá nhân, phải phát hiện sớm, phải chú ý phòng ngừa, ngăn chặn.
Để xây và chống cần phát huy vai trò của dư luận xã hội, tạo ra phong trào
quần chúng rộng rãi, biểu dương cái tốt, phê phán cái xấu. Người đã phát động cuộc
thi đua “Ba xây, ba chống”, viết sách “Người tốt, việc tốt” để tuyên truyền, giáo dục
về đạo đức, lối sống.

1.2. Thực chất việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong
giáo dục đạo đức và sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đản viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình
Phước
1.2.1. Thực chất việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong
giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước
Để làm rõ thực chất việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong
giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước, cần
xác định khái niệm cán bộ đảng viên.
Như chúng ta biết, Cán bộ là cách gọi quen thuộc trong ngôn ngữ chính trị
của các nước XHCN theo mô hình Xô Viết, bắt đầu từ thời Lênin sau thắng lợi của
Cách mạng Tháng Mười, khi Đảng Cộng sản đã cầm quyền và nước Nga Xô Viết đã
ra đời, thể chế quyền lực Nhà nước đã định hình và đi vào hoạt động.
Ở Việt Nam, cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ
nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc Tỉnh (gọi
chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.


Cán bộ là những người có chức vụ, quyền hạn, có vai trò và cương vị nòng
cốt trong một cơ quan, tổ chức, có tác động, ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan,
tổ chức đó và các quan hệ trong lãnh đạo, điều hành, góp phần vào sự phát triển của
địa phương.
Như vậy, khái niệm “Cán bộ” để phân biệt với “Quần chúng”, với những
người dân bình thường trong xã hội hay những người làm việc ở các công sở nhà
nước, các cơ quan đoàn thể không giữ chức vụ.
Đảng viên: Theo Điều 1 của Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam, thông qua
ngày 19/1/2011 tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI “Đảng viên Đảng cộng sản
Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai cấp công nhân

Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, suốt đời phấn đấu cho
mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước; có lao
động, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo đức và lối sống lành mạnh; gắn bó
mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng, giữ gìn đoàn kết thống
nhất trong Đảng”.
Đảng viên phải là những người có trách nhiệm, góp phần xây dựng đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức thực hiện
mọi đường lối, chủ trương, chính sách đó. Đảng viên phải là người tiên phong gương
mẫu trong việc chấp hành các chủ trương, chính sách. Đảng viên dù ở cương vị nào
cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người phục vụ quần chúng, mỗi đảng viên đều là
người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích cho dân hiểu những chính
sách của Đảng và Nhà nước, để dân tin và vui lòng thực hiện. Mỗi cán bộ đảng viên
đều phải nhận thức được rằng mình vào Đảng để làm đầy tớ cho dân, chứ không phải
làm quan cách mạng.
Như vậy, trong luận văn này, học viên dùng cụm từ cán bộ đảng viên để chỉ
đảng viên và những người giữ một chức trách, nhiệm vụ và thẩm quyền trong việc
thực hiện công việc nào đó (những người này có thể không là đảng viên).
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ đảng viên phải có một đời tư trong
sáng, phải là một tấm gương sáng trong cuộc sống. Điểm nổi bật ở Chủ tịch Hồ Chí
Minh so với nhiều danh nhân khác ở trong nước và trên thế giới là toàn bộ cuộc đời
của Người là tấm gương sáng về đạo đức. Cùng với sự phát triển đất nước, sức mạnh
của đạo đức đã lan toả, thẩm thấu trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, trở thành


giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của văn hoá trong các thế hệ, các dân tộc ở trên đất nước
Việt Nam. Nếu cán bộ không có một đời tư trong sáng thì sẽ không thuyết phục, vận
động được nhân dân trong các phong trào cách mạng. Người cán bộ, ngoài việc phải
hoàn thành tốt công việc chung của Đảng đã được phân công, còn phải là một thành

viên tốt của gia đình, là một người công dân tốt, kiểu mẫu ở khu dân cư và ngoài xã
hội, sống cuộc sống chan hoà, gần gũi với mọi người chung quanh trong cùng bản
làng, thôn xóm.
Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn đề cập đến việc cán bộ đảng viên phải thường
xuyên rèn luyện đạo đức cách mạng, trau dồi quan điểm và thái độ đúng đắn đối
với quần chúng, coi việc tôn trọng quần chúng, học hỏi quần chúng, có quan hệ mật
thiết với quần chúng là một vấn đề thuộc về phẩm chất, tư cách, đạo đức của đảng
viên. Người kêu gọi mọi cán bộ đảng viên phải hành động thiết thực để nhân dân tin
Đảng và Đảng phải vững mạnh để phục vụ nhân dân.
Để làm rõ thực chất của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước
cũng cần tìm hiểu khái quát về huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước và về cán bộ
đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước hiện nay.
Huyện Chơn Thành nằm ở phía Nam Tây Nguyên và Đông Bắc Sài Gòn, nơi
có hai tuyến quốc lộ 13 và 14 đi qua, đồng thời là điểm cuối tuyến đường Hồ Chí
Minh, phía Tây của tỉnh Bình Phước, phía Bắc giáp huyện Hớn Quản, phía Nam giáp
huyện Bến Cát, Phú Giáo (tỉnh Bình Dương), phía Đông giáp huyện Đồng Phú, thị
xã Đồng Xoài, phía Tây giáp huyện Dầu Tiếng (tỉnh Bình Dương).
Hiện nay, nay diện tích tự nhiên của huyện là 389,83 km². Chơn Thành là
huyện trung du, có 14 dân tộc anh em đang sinh sống, gồm 8 xã và 01 thị trấn với
hơn 75 nghìn nhân khẩu. Có 4 tôn giáo chính (Công giáo, Phật giáo, Tin lành và Cao
đài) và một số ít người theo các tôn giáo khác, với tổng số tín đồ khoảng 12.596
người. Các cư dân từ mọi miền đất nước tụ hội về Chơn Thành lập nghiệp, chung
sống đoàn kết, tạo cho quê hương Chơn Thành với một diện mạo phong phú, đa dạng
về văn hóa - xã hội.
Huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước là một vùng đất giàu truyền thống
cách mạng. Ngay từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và lãnh đạo, nhân dân Chơn
Thành đã một lòng một dạ sắt son theo Đảng. Từ sau khi quê hương được giải



phóng, Đảng bộ và nhân dân Chơn Thành lại tiếp tục bước vào công cuộc khôi phục
và phát triển đất nước, xây dựng quê hương Chơn Thành giàu mạnh, văn minh.
Khi mới bắt đầu thành lập huyện (năm 2003), đội ngũ cán bộ đảng viên,
công chức của huyện vừa thiếu vừa yếu, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, tỷ lệ cán
bộ có trình độ đại học thấp. Sau nhiều nỗ lực, từ 909 cán bộ, công chức, viên chức
ban đầu, đến năm 2013 đã nâng lên 1.626, trong đó có 564 người trình độ đại học trở
lên, 291 cao đẳng, 562 trung cấp. Về trình độ lý luận chính trị: sơ cấp 956 người,
trung cấp 321 người và cao cấp 80 người. Trong đó, trình độ học vấn cán bộ chủ
chốt: 100% đại học; 70% trình độ cao cấp và trung cấp lý luận chính trị. Đến năm
2014, toàn huyện có 54 chi, đảng bộ trực thuộc Huyện ủy với 1.681 đảng viên (năm
2003 chỉ có 38 chi, đảng bộ trực thuộc với 908 đảng viên). Từ năm 2004 đến 2014,
huyện đã lựa chọn và đưa đi đào tạo, bồi dưỡng 392 cán bộ chủ chốt cấp xã, thị trấn,
trong đó chuyên môn nghiệp vụ 242 người (đại học 80, trung cấp 162), cao cấp lý
luận chính trị 34 người và phối hợp với Trường Chính trị tỉnh mở 2 lớp trung cấp lý
luận chính trị cho 201 học viên tham gia.
Trong 6 tháng đầu năm 2016, tổng số đảng viên của toàn huyện là 1.864
đảng viên, 57 chi, đảng bộ trực thuộc Huyện ủy và 141 chi bộ trực thuộc cơ sở. Kết
nạp được 16 đảng viên mới, chuyển đảng chính thức cho 27 đảng viên dự bị. Cử 08
cán bộ, công chức tham gia lớp bồi dưỡng chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính. 1
đồng chí tham gia lớp bổi dưỡng chức danh Trưởng ban Dân vận Huyện ủy. 2 đồng
chí học cao cấp lý luận chính trị. 2 đồng chí học lớp trung cấp lý luận chính trị. 1
đồng chí học lớp hoàn thiện bằng cao cấp lý luận chính trị. Để làm tốt vai trò chủ
chốt trong lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và phát triển huyện nhà, đội ngũ cán bộ đảng
viên huyện Chơn Thành cần được liên tục giáo dục đạo đức, trong đó nền tảng là
giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức.
Từ những sự xác định và khái quát trên, có thể thấy, thực chất của vận dụng
tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên
huyện Chơn Thành bao gồm các nội dung và gắn liền với chúng là các chủ thể giáo
dục sau:
Xuất phát từ việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí

Minh và qua thực tiễn, Đảng ta đã đút kết thành cơ sở lý luận - thực tiễn nhằm phối
hợp giữa tự giác và uốn nắn cán bộ đảng viên học tập và làm theo tấm gương, tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Thực chất của vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức trong giáo dục đạo đức là:


Giáo dục cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành biết giữ gìn đạo đức,
nhân phẩm, lương tâm, danh dự là phải luôn thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, coi
đạo đức cách mạng là gốc; đức gắn với tài; trong đức có tài, trong tài có đức; tài càng
cao, đức càng phải lớn. Phải thật sự trung với nước, hiếu với dân; cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư; nói đi đôi với làm; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời; nêu gương
đạo đức; đấu tranh kiên quyết chống những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống. Những chuẩn mực, những yêu cầu đạo đức này phải được thể hiện
ra trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cán bộ đảng viên, trong mỗi tổ
chức, cơ sở Đảng nhằm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện thành công chiến lược và các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của huyện nhà. Chỉ có như vậy mới phục vụ
được nhiệm vụ chính trị, mới đưa sự nghiệp CNH, HĐH đến thắng lợi. Nâng cao trí
tuệ trước hết phải nắm vững và vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, những thành tựu của thời đại và thế giới vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam nói chung, huyện Chơn Thành nói riêng, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới
đạt hiệu quả cao.
Chủ thể của việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho cán bộ
đảng viên huyện Chơn Thành trước hết là Đảng bộ huyện Chơn Thành với vai trò là
tổ chức cao nhất của huyện, có chức năng lãnh đạo, chỉ đạo Ban Tuyên giáo Huyện
ủy, Ban Tổ chức Huyện ủy, Ủy ban kiểm tra Huyện ủy, Trung tâm Bồi dưỡng chính
trị, các trường học trên địa bàn huyện, các chi, Đảng bộ trực thuộc, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể áp dụng nhiều hình thức, phương pháp giáo dục như: Tuyên truyền,
triển khai cho cán bộ đảng viên học tập chính trị, nghị quyết của Đảng; hướng dẫn tổ
chức sinh hoạt đảng và hoạt động tự phê bình và phê bình; thông qua hoạt động thực
tiễn lãnh đạo, quản lý; thông qua các tấm gương tiêu biểu về đạo đức, qua học tập

các chuyên đề tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh hàng năm… để giáo dục cho cán bộ
đảng viên thấm nhuần những giá trị, chuẩn mực đạo đức, lối sống, những yêu cầu
của nhiệm vụ cách mạng và nhiệm vụ, chức trách của từng đối tượng. Và để xây
dựng các quan hệ xã hội tốt đẹp giữa các tổ chức và cá nhân, giữa cấp trên với cấp
dưới, giữa cán bộ, công chức với cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên và quần
chúng nhân dân.
Ban Tuyên giáo Huyện ủy có nhiệm vụ ban hành kế hoạch, hướng dẫn, theo
dõi các ngành trong khối tuyên truyền, các ban ngành đoàn thể, đảng ủy các xã, thị
trấn đẩy mạnh công tác tuyên truyền về những tấm gương đạo đức theo chuyên đề
học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, gương người tốt việc tốt,...


Theo dõi, nắm bắt dư luận xã hội về tâm trạng của các tầng lớp nhân dân, cán bộ
đảng viên, kịp thời báo cáo cấp trên có hướng chỉ đạo kịp thời, nhằm giáo dục đạo
đức, lối sống cho cán bộ đảng viên.
Ủy ban kiểm tra Huyện ủy, hàng năm xây dựng các chuyên đề kiểm tra,
giám sát các chi đảng bộ và cán bộ đảng viên,... kịp thời phát hiện những hạn chế,
khuyết điểm để có hướng xử lý, khắc phục và giáo dục.
Ban Tổ chức Huyện ủy, theo dõi, nắm bắt số lượng cán bộ đảng viên, số
lượng các chi đảng bộ. Rà soát tham mưu tham gia học tập, bồi dưỡng, tập huấn để
nâng cao trình độ chuyên môn, nâng cao trình độ lý luận chính trị, nâng cao phẩm
chất đạo đức (cao cấp lý luận chính trị hệ tập trung hoặc hệ vừa làm vừa học, thạc sỹ,
văn bằng 2, chuyên viên chính, chuyên viên, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an
ninh đối tượng 2, 3). Tham mưu để bổ sung hay đưa ra khỏi quy hoạch những cán bộ
đảng viên thoái hóa, biến chất, không đủ phẩm chất đạo đức.
Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện, phối hợp với Ban Tuyên giáo Huyện
ủy, Ban Tổ chức Huyện ủy mở các lớp bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng, bồi dưỡng
lý luận chính trị cho đảng viên mới, các lớp cập nhật kiến thức, các lớp chuyên đề
của các đoàn thể, các lớp kiến thức quốc phòng - an ninh (đối tượng 4, 5). Với mục
đích rèn luyện, giáo dục đạo đức cho cán bộ công chức, cán bộ đảng viên nâng cao

trình độ, học tập tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, giáo dục để cán bộ nói chung và
cán bộ đảng viên nói riêng nhận thức được rằng khi đứng vào hàng ngũ của đảng, là
đảng viên thì cần làm gì, thái độ ra sao, đạo đức tác phong như thế nào?... Tổ chức
lồng ghép, tuyên truyền việc học tập và làm theo gương Bác vào các lớp bồi dưỡng
để mỗi học viên có cách nhìn nhận sâu sắc hơn về tấm gương của Bác, ra sức học tập
và noi theo bằng những hành động cụ thể, thiết thực
Để nâng cao nhận thức, đạo đức, trách nhiệm, ý thức và để xác định rõ trách
nhiệm, quyền hạn và nghĩa vụ của mình. Mỗi cán bộ đảng viên với tư cách là chủ thể
tự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức cho bản thân
cần chủ động rèn luyện, nâng cao đạo đức, lối sống, tác phong của một người cán bộ,
một người lãnh đạo theo phong cách, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Theo những
phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời đại mới theo tư tưởng
Hồ Chí Minh
Giáo dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cho cán bộ đảng
viên huyện Chơn Thành là một quá trình lâu dài và liên tục với nhiều hình thức và
hành động thiết thực nhằm nâng cao nhận thức và phẩm chất đạo đức. Do đó, nội


dung để giáo dục, nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên của Đảng bộ
huyện Chơn Thành thời gian qua chủ yếu tập trung vào những vấn đề cơ bản sau: Về
vai trò của đạo đức, nội dung, phương pháp để tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách
mạng và các giá trị, chuẩn mực đạo đức cách mạng,… Rèn luyện để cán bộ đảng
viên có tính tự giác, tự tu dưỡng rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng cho bản
thân. Bên cạnh đó phải khơi dậy tính chủ động tích cực, chính kiến. Đồng thời phải
giáo dục để cán bộ đảng viên nâng cao hiểu biết về chủ trương, đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, các văn bản
pháp luật. Giáo dục nâng cao tinh thần yêu nước, bản lĩnh chính trị, lòng trung thành
với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân. Giáo dục nâng cao phẩm chất cần, kiêm, liêm,
chính, chí công, vô tư, lối sống trong sạch, lành mạnh, thực hành tiết kiệm, chống
tham ô, lãng phí, quan liêu, sửa đổi lối làm việc. Giáo dục tư tưởng tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh về ý thức trách nhiệm, hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ
nhân dân, xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh, “Là đạo đức, là văn
minh”. Những nội dung trình bày này có thể khái quát việc giáo dục đạo đức cho cán
bộ đảng viên của huyện Chơn Thành ở một số hình thức chủ yếu sau:
Qua những lớp tập huấn, bồi dưỡng, các lớp học lý luận chính trị (tổ chức ở
Trung tâm bồi dưỡng chính trị huyện) cán bộ công chức, cán bộ đảng viên được học
tập những chuyên đề như:
Lớp bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đảng viên mới: Có 9 chuyên đề,
trong đó có 01 chuyên đề nói nhiều nhất về đảng viên, về đạo đức, đó là “Không
ngừng phấn đấu và rèn luyện để xứng đáng với danh hiệu Người đảng viên Đảng
cộng sản Việt Nam”, trong chuyên đề này sẽ giúp học viên nhận thức được vị trí, vai
trò, nhiệm vụ của người đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam và làm gì để xứng đáng
với danh hiệu đảng viên.
Lớp bồi dưỡng kết nạp Đảng: Có 05 chuyên đề, trong đó có 02 chuyên đề
nói đến đảng viên, về học tập, rèn luyện, giáo dục đạo đức, đó là chuyên đề “Học tập
và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, thông qua chuyên đề này
trang bị cho học viên những kiến thức cơ bản về vị trí, vai trò của tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh đối với đời sống xã hội, từ đó nâng cao ý thức tự giác học tập làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Chuyên đề “Phấn đấu để trở thành đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam”, qua chuyên đề, cho học viên biết được định hướng động cơ
phấn đấu, rèn luyện về tư tưởng chính trị rõ ràng, đạo đức trong sáng, có thái độ tích


cực trong đấu tranh chống biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Các lớp tập huấn cho đoàn viên, hội viên đều có lồng ghép 01 chuyên đề
“Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, hoặc nói chuyện thời sự về
các chuyên đề học tập và làm theo tấm gương Bác
Tổ chức tuyên truyền kỷ niệm ngày sinh, ngày mất của chủ tịch Hồ Chí
Minh, tuyên truyền kỷ niệm ngày Bác Hồ về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng,

ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước,.. Tuyên truyền về việc học tập và làm theo
tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, tuyên truyền, giới thiệu những gương
điển hình tiêu biểu học theo tấm gương đạo đức, chuẩn mực Hồ Chí Minh.
Thông qua các phong trào, đặc biệt là phong trào thi đua học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, từ khi Bộ Chính trị tổ chức phát động tổ chức
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn
Đảng, toàn dân từ ngày 3/2/2007.
Khuyến khích tinh thần tự rèn luyện, tự giáo dục của mỗi cán bộ đảng viên
huyện Chơn Thành thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của mỗi cán bộ
đảng viên và qua tất cả các lĩnh vực sinh hoạt của mỗi người
1.2.2. Sự cần thiết vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo
dục đạo đức cho cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành, tỉnh Bình Phước:
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức là nội
dung cơ bản của giáo dục đạo đức cho người cán bộ đảng viên huyện Chơn Thành,
tỉnh Bình Phước
Xây dựng đạo đức cán bộ đảng viên, công chức, viên chức là công việc được
Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm, xem trọng ngay từ khi thành lập nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Việc xây dựng và giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên là
cả một quá trình lâu dài, cùng với sự phát triển và hình thành đất nước. Xuất phát từ
đạo lý của dân tộc và qua thực tiễn đã đút kết thành cơ sở lý luận - thực tiễn.
Trong đội ngũ cán bộ đảng viên có những đảng viên không phải là cán bộ,
không phải là công chức nhưng với tư cách là đảng viên thuộc một cơ sở Đảng nhất
định, họ có vai trò là người lãnh đạo, tham gia lãnh đạo một lĩnh vực hoặc một địa
bàn nhất định. Mà đã là lãnh đạo thì đều là công bộc của nhân dân. Bởi vậy, như Chủ
tịch Hồ Chí Minh căn dặn, trong bầu trời không gì quý bằng dân; việc gì có lợi cho
dân dù nhỏ nhất cũng phải làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ nhất cũng phải tránh.
Nói cách khác, họ đều cần được giáo dục đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh.


Đội ngũ cán bộ đảng viên là công chức, viên chức xuất thân từ nhân dân,

được hưởng lương từ ngân sách nhà nước, mà ngân sách Nhà nước lại chủ yếu là do
nhân dân đóng thuế. Cho nên, xét về mặt đạo lý và lương tâm con người, cán bộ,
công chức, viên chức tất phải yêu dân, kính trọng dân, bảo vệ dân, vì dân phục vụ,
Nhà nước ta hay bất cứ Nhà nước dân chủ nào trên thế giới đều có các quy định về
đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức, người làm công ăn lương của Nhà nước,
theo các tiêu chuẩn và nguyên tắc được xã hội thừa nhận. Các tiêu chuẩn và nguyên
tắc đó của Nhà nước ta là: Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khách quan, trung
thực, nghiêm chỉnh chấp hành chính sách, pháp luật; không ngừng học tập mở mang
kiến thức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để phụng sự đất nước được tốt
nhất và đem lại lợi ích cho dân được nhiều nhất. Trong luật công vụ hay luật đạo đức
công chức của nhiều nước trên thế giới, người ta dựa vào các tiêu chuẩn, nguyên tắc
này để đào tạo, tuyển chọn, sàng lọc và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức Nhà
nước nhằm đạt tới mục tiêu chất lượng, hiệu quả, chuyên nghiệp.
Đất nước ta đang trong quá trình xây dựng XHCN, cho nên đạo đức cán bộ,
đảng viên phải là đạo đức cách mạng của người cộng sản với nguyên tắc chỉ đạo
hành động của người có đạo đức cách mạng là: Lý luận gắn với thực tiễn; lời nói gắn
với việc làm; cách mạng gắn với khoa học công nghệ tiên tiến; lợi ích cá nhân gắn
kết hài hòa với lợi ích xã hội và sẵn sàng biết chia sẻ, hy sinh, cống hiến cho dân tộc
và đất nước. Muốn thực hiện được, người có đạo đức cách mạng phải được trang bị,
thường xuyên cập nhật và nâng cao những kiến thức về chính trị, kinh tế, văn hóa,
hành chính, pháp luật, quản lý, an ninh, quốc phòng, đối ngoại,… phù hợp với quá
trình CNH - HĐH đất nước và chủ động hội nhập quốc tế. Vì vậy, có thể nói, những
cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức cách mạng phải là những người có tinh thần
học tập không ngừng để nâng cao kiến thức, hiểu biết cho bản thân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng căn dặn: Mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên nỗ lực, phấn đấu để
đạt đến yêu cầu “Vừa hồng, vừa chuyên”, tức là vừa có đức, vừa có tài, bởi theo
Người, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó, còn có tài mà không có đức
thì sẽ trở thành người vô dụng.
Xây dựng và nâng cao đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên nhất thiết
phải thường xuyên gắn với việc tự phê bình và phê bình để “Tẩy rửa” chủ nghĩa cá

nhân, vị kỷ và thói quen vun vén, thủ lợi còn len lõi trong một bộ phận cán bộ đảng
viên. Thực tế cho thấy, “Chủ nghĩa cá nhân” là nguyên nhân, gốc rễ của các tệ nạn,
hiện tượng tiêu cực trong bộ máy công quyền và khiến cho không ít cán bộ, đảng


viên sai lạc vào con đường hư hỏng, tội lỗi, bị kỷ luật, thậm chí bị vướng vào tù tội.
Sự suy thoái đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên là một trong
những nhân tố gây khó khăn, thiệt hại cho sự phát triển kinh tế - xã hội và làm cho
nhân dân giảm sút niềm tin vào Đảng, Nhà nước.
Đạo đức cán bộ đảng viên có tác động, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng,
hiệu quả, tiến độ thực thi chính sách, pháp luật nói chung và đặc biệt là đến quan hệ
hợp tác quốc tế. Mức độ tin tưởng vào Nhà nước và việc thực hiện chính sách, pháp
luật của người dân như thế nào một phần phụ thuộc vào cách nhìn nhận, đánh giá của
họ về đạo đức của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Mỗi thái độ, lời nói, việc làm có lý, có
tình của người cán bộ, đảng viên khi tiếp xúc, giải quyết công việc, nhu cầu của
người dân sẽ có tác dụng lôi kéo, khích lệ họ chấp hành chính sách, pháp luật. Ngược
lại, người dân sẽ thất vọng, phản ứng, thậm chí đối phó, bất hợp tác và gây khó khăn,
phức tạp cho công tác quản lý Nhà nước. Trong quan hệ quốc tế, chúng ta có được sự
đánh giá tốt đẹp của người nước ngoài về đất nước, con người Việt Nam trước hết là
do sự giao lưu, tiếp xúc của họ với những cán bộ đảng viên có đức, có tài. Ngược lại,
sự kém đức, bất tài của một bộ phận cán bộ đảng viên có thể sẽ trở thành cơ hội cho
những kẻ xấu bên ngoài tung tin thất thiệt, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, an ninh
quốc gia.
Đạo đức cán bộ đảng viên còn là điểm tựa, là bản lề cho việc xây dựng văn
hóa gia đình, đạo đức xã hội và Nhà nước pháp quyền XHCN. Vì mỗi con người là
một thành viên của gia đình và mỗi gia đình lại là tế bào của xã hội, cho nên một xã
hội đạo đức phải bao gồm trong nó các cá nhân và gia đình đạo đức. Một xã hội đạo
đức chính là một dân tộc, quốc gia đạo đức - dân tộc, quốc gia đó sẽ có sức mạnh và
phát triển bền vững. Từ cách suy diễn như vậy mới thấy đạo đức cán bộ, đảng viên
có sự ảnh hưởng, tác động rất lớn đối với việc xây dựng gia đình văn hóa, xã hội đạo

đức và Nhà nước pháp quyền XHCN. Từ sự trải nghiệm cuộc sống mà người ta
thường thấy, những cán bộ, đảng viên có đạo đức là những người có thể chất và tinh
thần tốt, có gia đình văn hóa, có quan hệ xã hội và bạn bè tốt. Trái lại, những cán bộ,
công chức, viên chức kém đạo đức thì không những tâm trạng và đời sống gia đình
của họ thường bất an, mà việc thực thi công vụ, nghiệp vụ và pháp luật của họ cũng
thường có sự sai lệch, thiếu sót, thậm chí gây oan sai, thiệt hại cho người dân.
Những kết quả bước đầu trong thực hiện NQTW 4 khóa XI về “Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” cho thấy khi Đảng ta giữ vững được bản
lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và


CNXH; cán bộ, đảng viên của Đảng gương mẫu đi đầu thì niềm tin của nhân dân vào
sự lãnh đạo của Đảng được giữ vững, củng cố và tăng cường; sức mạnh của cách
mạng nước ta vì thế mà được khơi nguồn, giữ gìn và phát huy cao nhất. Thực tiễn ấy
khẳng định việc xây dựng Đảng về đạo đức là giải pháp cơ bản quan trọng nhất để
củng cố và tăng cường đoàn kết trong Đảng, đoàn kết nhân dân và đoàn kết quốc tế
trực tiếp xây dựng sức mạnh nội sinh của cách mạng nước ta.
Hiện nay, công tác xây dựng Đảng đứng trước khó khăn rất lớn ảnh hưởng
trực tiếp tới năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, sức mạnh của Đảng… quyết định tới
vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với cách mạng, sự tồn vong của chế độ và
vận mệnh của dân tộc. Do đó, Đại hội XII đưa việc thường xuyên giáo dục, rèn luyện
phẩm chất đạo đức thành một nội dung quan trọng trong mục tiêu xây dựng Đảng là
hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với yêu cầu xây dựng Đảng, đáp ứng nguyện vọng của
cán bộ, đảng viên và nhân dân. Xây dựng Đảng về đạo đức là xây dựng Đảng từ gốc,
xây dựng sức mạnh nội sinh cho cách mạng nước ta. Muốn vậy mỗi cán bộ, đảng
viên phải tiếp tục gương mẫu đi đầu trong tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng,
thực sự là tấm gương cho quần chúng làm theo. Bên cạnh đó nhân dân cũng cần nhận
thức rõ quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm với công tác xây dựng Đảng. Tham gia
xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo cách mạng là nhân
dân đang góp phần xây dựng cuộc sống “Ấm no, tự do và hạnh phúc” của mình.

Trong Điều 2 của Điều lệ Đảng cũng nhấn mạnh “Đảng viên phải không
ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác, phẩm chất
chính trị, đạo đức cách mạng, có lối sống lành mạnh; đấu tranh chống chủ nghĩa cá
nhân, cơ hội, cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các biểu hiện khác. Chấp
hành quy định của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được
làm”. Điều đó cho thấy, cán bộ đảng viên phải học tập, rèn luyện thường xuyên về
mọi mặt và đặc biệt là phải nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng và đạo đức của
người cán bộ đảng viên lãnh đạo lại càng quan trọng hơn.
Đạo đức người cán bộ đảng viên rất quan trọng, việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về đạo đức trong giáo dục đạo đức là nội dung cơ bản của giáo dục đạo
đức cho cán bộ đảng viên nói chung và đối với Đảng bộ huyện Chơn Thành cũng tự
nhìn nhận rằng: Giáo dục đạo đức cho cán bộ đảng viên của huyện Chơn Thành, tỉnh
Bình Phước nói riêng cũng là nội dung rất quan trọng, cấp bách. Bởi vì việc xây
dựng, giáo dục con người có đủ đức, đủ tài và biết phát huy nhân tố con người trong
giai đoạn hiện nay đối với đội ngũ cán bộ đảng viên là rất cần thiết, có ý nghĩa quyết


×