Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Tiểu luận KTPT Nguồn nhân lực CLC tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (443.62 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ QUỐC TẾ
=======000=======

TIỂU LUẬN KINH TẾ PHÁT TRIỂN
Đề tài: Nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam
Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm số 09
Trần Minh Thu Hiền
Nguyễn Thị Ánh Phượng
Lương Kiều Trinh
Tạ Phương Thảo
Nguyễn Minh Phương
Kỳ Thanh Tuyến
Hồ Thị Minh Hằng
Dương Thu Hương
Trần Thanh Hằng
Phạm Thị Hương Giang
Phan Thị Hằng
Nguyễn Thị Thùy Dung
Lê Minh Châu
Trịnh Hồng Thu

Lớp: KTE406.5, Khối 7 Kinh tế, Khóa 52
Giảng viên hướng dẫn: Ths. Hoàng Bảo Trâm

Hà Nội – 09/2015
Mục lục

1311160047
1312160093
1311160129


1313160108
1311160091
1315160133
1313160043
1311110280
1313160044
1312160034
1314160040
1311160027
1311260211
1311160113


Lời mở đầu
Một quốc gia muốn phát triển thì cần phải có các nguồn lực của sự phát triển
kinh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con người … Trong
các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính chất quyết định
trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ trước đến nay.
Xét về hiện tại, trong xu thế kinh tế tri thức và toàn cầu hoá hiện nay, nguồn
nhân lực có sức khoẻ, học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật cao được coi là điều kiện
tiên quyết để tăng trưởng nhanh, rút ngắn khoảng cách tụt hậu.
Là một nước đông dân thứ hai trong khu vực Đông Nam Á, và đang được coi là
thời kỳ dân số vàng, xét một cách tổng quát thì nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay khá
dồi dào. Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu với
nguồn nhân lực có qui mô lớn, cơ cấu trẻ nhưng trình độ học vấn không cao. Bên cạnh
đó, thành phần tầng lớp tri thức, lao động lành nghề là rất ít, chưa đủ để trở thành động
lực để phát triển kinh tế.
Do vậy nhóm 09 đã chọn thực hiện nghiên cứu về đề tài “Nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Việt Nam” trong bộ môn Kinh tế phát triển. Bài tiểu luận sẽ tập trung
phân tích thực trạng nguồn nhân lực chất lượng cao và các nhóm giải pháp cho những

vấn đề còn tồn tại đã được nêu, đưa người lao động có trình độ học vấn và chuyên
môn kỹ thuật đạt tiêu chuẩn và trở thành đội ngũ nhân lực cao.

2


Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn
Khái niệm
Khái niệm nguồn nhân lực
- Nguồn nhân lực được hiểu theo hai nghĩa:
● Theo nghĩa rộng, nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội,

1.1.
1.1.1.

cung cấp nguồn lực con người cho sự phát triển. Do đó, nguồn nhân lực bao gồm toàn
bộ dân cư có thể phát triển bình thường.
● Theo nghĩa hẹp, nguồn nhân lực là khả năng lao động của xã hội, là nguồn lực cho sự
phát triển kinh tế xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có khả
năng tham gia vào lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn bộ các cá nhân cụ thể tham gia
vào quá trình lao động, là tổng thể các yếu tố về thể lực, trí lực của họ được huy động
vào quá trình lao động.
- Tiếp cận dưới góc độ của Kinh tế Chính trị có thể hiểu: nguồn nhân lực là tổng
hoà thể lực và trí lực tồn tại trong toàn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia,
trong đó kết tinh truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong
lịch sử được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu
hiện tại và tương lai của đất nước.
1.1.2.

Nguồn nhân lực chất lượng cao

- Nhân lực chất lượng cao phài là nhân lực với 4 đặc trưng chính: có trí tuệ, nhân
cách, tay nghề vượt trội và có năng lực thực tế hoàn thành nhiệm vụ được giao một
cách xuất sắc nhất so với mặt bằng chung phù hợp với nền kinh tế - xã hội hiện đại
mang tính chất tri thức.
- Xây dựng nhân lực chất lượng cao có nghĩa là xây dựng đội ngũ nhân lực khoa
học và công nghệ, nhất là các chuyên gia, tổng công trình sư, kỹ sư đầu ngành, công
nhân có tay nghề cao, có trình độ chuyên môn - kỹ thuật tương đương với các nước
tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
- Nhân lực chất lượng cao trước hết phải được thừa nhận trên thực tế, không phải
ở dạng tiềm năng. Điều đó có nghĩa là nó không đồng nghĩa với học vị cao. NLCLC là
những người có năng lực thực tế hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách xuất sắc
nhất, sáng tạo và có đóng góp thực sự hữu ích cho công việc của xã hội.
1.2.

Các tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao
3


Nguồn nhân lực chất lượng cao là một bộ phận đặc biệt của nguồn nhân lực nói chung,
bao gồm những người có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên đang làm việc
trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, có những đóng góp thiết thực và
hiệu quả cho sự phát triển bền vững của cộng đồng nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Với cách hiểu như vậy, có thể đưa ra 3 tiêu chí để đánh giá nguồn nhân lực chất lượng
cao đó là:
·

Về chuyên môn: Có chuyên môn và trình độ thành thạo nghiệp vụ cao, đặc biệt có

năng lực thực tế tạo nên kết quả cao và vượt trội trong công việc, có năng lực cạnh
tranh, có đóng góp thực sự hữu ích cho xã hội.

·

Về kĩ năng: Nguồn nhân lực chất lượng cao cần có khả năng thay đổi, thích ứng

nhanh, hội nhập cao với môi trường lao động và với tiến bộ khoa học công nghệ mới.
Có kỹ năng làm việc nhóm, sáng tạo trong công việc. Có ý chí vượt khó, bền bỉ trong
công việc, có năng lực điều chỉnh bản thân
·

Về nền tảng cơ bản: Có sức khỏe tốt, có đạo đức nghề nghiệp thể hiện qua tinh

thần kỷ luật, ý thức trách nhiệm, tinh thần dân chủ, hợp tác và ý thức về tập thể, vì
cộng đồng cao.
1.3. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao đối với phát triển kinh tế xã hội
-

Nguồn nhân lực chất lượng cao là nguồn lực chính quyết định quá trình tăng trưởng và
phát triển kinh tế- xã hội.
Việc chuyển từ sử dụng lao động thủ công sang sử dụng lao động được đào tạo cùng
với công nghệ tiên tiến, hiện đại sẽ tạo ra năng suất lao động xã hội cao, là nhân tố
chính thúc đấy quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách bền vững cho quốc
gia.

-

Nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện cần thiết để hội nhập kinh tế quốc tế.
Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, việc có một đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng
cao, đáp ứng đầy đủ các tiêu chí chuyên môn, kĩ năng và có nền tảng tốt theo các tiêu
chí ở trên, đáp ứng được nhu cầu nhân lực của mỗi ngành nghề theo chuẩn quốc tế sẽ
giúp chúng ta tận dụng được những lợi ích của hội nhập một cách tối đa, đồng thời


4


tránh được những mặt tiêu cực có thể xảy đến khi tham gia vào một cộng đồng kinh tế
chung.
Đơn cử, khi Việt Nam gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC), sẽ có những cơ
hội và thách thức với nguồn nhân lực
 Cơ hội: Để tạo thuận lợi cho việc tự do di chuyển và quyền tự do làm việc tại

các nước trong khu vực, các quốc gia đã thông qua các Thoả thuận về Công
nhận tay nghề tương đương (MRA) đối với 8 nhóm ngành nghề kế toán, kỹ sư,
khảo sát, kiến trúc, điều dưỡng, dịch vụ y tế, dịch vụ nha khoa và du lịch. Mặt
khác, AEC sẽ đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cấu trúc kinh tế, một số ngành sẽ
trở nên phát đạt và đem lại những cơ hội mới. Thị trường lao động được mở
rộng, chúng ta sẽ đón những lao động mới và tạo ra những việc làm mới cho lao
động Việt Nam trong khối thị trường ASEAN. Nguồn nhân lực chất lượng cao
đáp ứng được những tiêu chí đánh giá và các chuẩn mực năng lực chắc chắn sẽ
giúp Việt Nam tận dụng hết các cơ hội mà AEC mang lại, từ đó phát triển kinh
tế.
 Thách thức: Song thách thức cũng chính là phải tính đến những tác động tiềm

tàng của việc một số lượng lớn lao người lao động có tay nghề sẽ rời đất nước
để đi tìm những công việc có thu nhập cao hơn thông qua các MRA. Ở một khía
cạnh khác, trong lúc một số ngành tăng trưởng nhanh thì một số ngành khác lại
có khả năng phải cắt giảm việc làm. Lao động trong các ngành này có thể sẽ
không có những kỹ năng phù hợp để nắm bắt những cơ hội mới mà AEC đem
lại. Hiện nay, gần một nửa số lao động Việt Nam đang làm việc trong ngành
nông nghiệp, lĩnh vực có năng suất lao động, thu nhập và điều kiện lao động còn
ở mức thấp điển hình so với một vài nền kinh tế ASEAN khác. Rõ ràng những

lao động thiếu kỹ năng cũng như những lao động thiếu kinh nghiệm chắc chắn
sẽ không tìm được những cơ hội việc làm tốt. Vì vậy, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ giúp Việt Nam
phát huy được lợi thế và tránh những mặt tiêu cực khi hội nhập kinh tế quốc tế
1.4.

Các nhân tố ảnh hưởng đến nguồn nhân lực chất lượng cao
5


Hai nhân tố chính tác động đến chất lượng nguồn nhân lực là giáo dục- đào tạo và môi
trường lao động.
-

Giáo dục và đào tạo: Là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất

lượng nguồn nhân lực. Giáo dục trong các cấp bậc phổ thông là nhân tố tạo nền móng
ban đầu, là tiền đề để hình thành, phát triển kiến thức và kĩ năng cơ bản, một nền tảng
thể lực và đạo đức cho mỗi con người. Còn riêng với nguồn nhân lực chất lượng cao,
việc giáo dục - đào tạo trong các bậc học sau phổ thông sẽ giúp cho đội ngũ này có
kiến thức chuyên môn sâu sắc, vững vàng, có trình độ thành thạo nghiệp vụ cao, có
năng lực thực tế như tiêu chí đánh giá đầu tiên đã đưa ra. Ở cả hai cấp bậc (phổ thông
và sau phổ thông), giáo dục - đào tạo đều là yếu tố quan trọng đến chất lượng nguồn
nhân lực
-

Môi trường lao động: Để nguồn nhân lực đã qua đào tạo có thể phát huy hết những

gì đã được học, đồng thời ngày càng trở nên vững vàng về chuyên môn, kĩ năng
nghiệp vụ,… và trở thành nguồn nhân lực chất lượng cao thì cần có môi trường lao

động phù hợp với đội ngũ này và có thể sử dụng tối đa. Ví dụ, môi trường nghiên cứu
khoa học cần phải hạn chế những yếu tố phi học thuật làm ảnh hưởng; môi trường kinh
tế - kinh doanh mở cửa và cạnh tranh lành mạnh, hạn chế độc quyền, lũng đoạn và sự
kiểm soát chặt chẽ của Nhà nước…
Ngoài ra, để hai yếu tố trên thực sự thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực thì các chính
sách vĩ mô của Nhà nước là một yếu tố quan trọng. Các chính sách mà Nhà nước nên
tập trung vào có thể kể đến:
-

Chính sách đầu tư phát triển giáo dục cơ bản và tập trung

-

Chính sách liên quan đến từng lĩnh vực cụ thể

- Chính sách phát triển dân số: làm giảm tỷ lệ gia tăng dân số và mức sinh từ đó nâng
cao chất lượng dân số nói chung và từ đó, nâng cao nền tảng cơ bản như mức sống, thể
lực của đội ngũ lao động
-

Chính sách thu hút, sử dụng, đãi ngộ nguồn nhân lực chất lượng.

Các chính sách này sẽ tác động tới những nhân tố kể trên, đồng thời góp phần làm tăng
chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao.
6


7



Chương 2: Thực trạng đào tạo và phân bổ, sử dụng nguồn
nhân lực chất lượng cao tại Việt Nam
2.1.

Đào tạo

2.1.1. Quy mô đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
-

Cùng với sự phát triển ngày càng nhanh của hệ thống cơ sở giáo dục đào tạo thì
quy mô tuyển sinh vào các trường đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp
cũng không ngừng tăng lên.
Theo số liệu của Bộ Giáo dục và đào tạo:



Năm 2012, cả nước có 204 trường Đại học, Học viện và 215 trường Cao đẳng với
1.448.021 sinh viên Đại học và 756.292 sinh viên Cao đẳng. Có 2074 học sinh đạt giải



các kỳ thi quốc gia và 19 học sinh tham gia Olympic quốc tế, đạt 19 huy chương.
Đến năm 2013, cả nước có 207 trường Đại học, Học viện và 214 trường Cao đẳng với
724.232 sinh viên Cao đẳng và 1.453.067 sinh viên Đại học. Ở bậc phổ thông, có 2119
học sinh đạt giải các kỳ thi quốc gia và 23 học sinh tham gia Olympic quốc tế với 23
huy chương.
- Quy mô tuyển sinh không ngừng tăng lên này đã góp phần nâng cao trình độ học vấn
của lực lượng lao động. Kết quả điều tra cho thấy, tỷ trọng dân số 15 tuổi trở lên có
chứng chỉ, bằng cấp chuyên môn kỹ thuật tăng lên sau 5 năm, tương ứng 18,0% năm
2014 so với 13,3% năm 2009. Trong đó, đáng lưu ý là tỷ trọng này giảm ở nhóm

người có trình độ chứng chỉ sơ cấp nghề (1,8% năm 2014 so với 2,6% năm 2009) và
tăng lên ở nhóm người đạt bằng cấp có trình độ cao hơn. Tỷ lệ người có trình độ cao
nhất là đại học và trên đại học đã tăng lên 2 lần sau 5 năm: từ 4,4% năm 2009 lên
7,3% năm 2014.
- Quy mô đào tạo tăng nhưng nhìn một cách tổng thể, tỷ trọng lực lượng lao động đã
qua đào tạo ở nước ta vẫn còn thấp so với tổng số người lao động. Năm 2013, trong
tổng số 53,2 triệu người từ 15 tuổi trở lên thuộc lực lượng lao động của cả nước, chỉ
có 9,7 triệu người đã được đào tạo, chiếm 18,2% tổng lực lượng lao động. Ngược
lại, cả nước có hơn 43,5 triệu người (chiếm 81,8% lực lượng lao động) chưa được
đào tạo để đạt một trình độ chuyên môn kỹ thuật nào đó.
Xét cơ cấu lao động theo trình độ học vấn của nước ta từ năm 1989 - 2012
Bảng 1 :Cơ cấu lao động theo trình độ học vấn
8


Các chỉ tiêu

1989

1999

2009

2012

Không có trình độ CMKT 92,7

91,9

82,4


83,2

Công nhân kỹ thuật

2,2

2,4

6,3

4,7

Trung cấp chuyên nghiệp

3,2

3,0

4,4

3,7

Cao đẳng, đại học trở lên

1,9

2,7

6,9


8,4

Bảng 1 cho thấy xu hướng giảm dần tỷ lệ lao động không có trình độ chuyên môn
kỹ thuật so với tổng dân số, từ 92,7% năm 1989 xuống còn 83,2% năm 2012, giảm
9,5% qua hơn 20 năm. Nhìn chung, xu hướng này là tiến bộ; tuy nhiên, mức giảm của
tỷ lệ lao động không có trình độ CMKT còn chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa
và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Đối với công nhân kỹ thuật, tăng từ 2,2% lên
6,3% giai đoạn 1989-2009 nhưng sau đó lại giảm xuống còn 4,7 % năm 2012. Mức độ
tăng này là chậm so với yêu cầu và không ổn định, điều này đặt ra nhiệm vụ là mở
rộng và hoàn thiện hệ thống dạy nghề trong nền kinh tế quốc dân.
2.1.2. Chất lượng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Nhận thức được vai trò quan trọng của con người đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước, trong những năm gần đây, công tác đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm. Tuy nhiên, chất lượng giáo dục và
đào tạo nguồn nhân lực vẫn chưa cao.
-

Về cơ sở vật chất: Cơ sở vật chất phục vụ giáo dục - đào tạo để trang bị và bồi

dưỡng tri thức ở nhiều trường còn thiếu và lạc hậu.
Ở nhiều trường đại học, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và nghiên cứu khoa
học còn thiếu, lạc hậu, hoặc không đồng bộ, sử dụng không hiệu quả. Tinh trạng học
chay, giảng chay vẫn còn khá phổ biến, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng học tập.
Điều kiện bảo đảm cho thực tập,thực hành còn hạn chế, nhiều trường chưa quan tâm
đúng mức.

9



-

Về đội ngũ giảng viên: Đội ngũ giảng viên, quản lý giao dục còn hạn chế, chưa

đáp ứng tốt yêu cầu.
Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong số 1.002 ngành/chuyên ngành
đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ được kiểm tra, rà soát năm 2012 có tới 161 chuyên ngành thuộc
50 cơ sở giáo dục đại học đào tạo thạc sĩ không đảm bảo điều kiện theo quy định
.Nhiều cơ sở đào tạo đã xác định năng lực đào tạo cao học vượt qua năng lực của đội
ngũ, đặc biệt là ở ngành đào tạo thạc sĩ về quản trị kinh doanh.
-

Về nội dung và phương pháp giảng dạy:
● Nội dung : Nội dung, chương trình chưa chú trọng đúng mức đến trang bị cho
người học phương pháp làm việc khoa học và khả năng thích ứng với môi
trường làm việc trong nước và quốc tế.

Hơn 60% người tham gia khảo sát cho biết, kiến thức ở trường chưa đủ đáp ứng
yêu cầu thực tế công việc (Nguồn Báo điện tử VietnamNet).
● Phương pháp giảng dạy: Không ít giảng viên chỉ chú trọng dạy chữ, chưa thực

sự quan tâm đến bồi dưỡng, rèn luyện trình độ tư duy, phương pháp cho người
học. Người học chưa tiếp thu được tốt từ chinh trình độ tư duy, phương pháp
-

làm việc của giảng viên trong quá trình dạy - học
Về cơ chế, chính sách: cơ chế, chính sách cho giáo dục - đào tạo nguồn nhân

lực chất lượng cao trong các trường đại học ở Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế.

10


Các chương trình, đề án như Đề án 165 của Bộ Chính trị khóa X “Đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ lãnh đạo, quản lý ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước” năm 2008; của Bộ
Giáo dục và Đào tạo, của các trường đại học, viện khoa học về đào tạo nguồn nhân
lực, đặc biệt là nhân lực bậc cao... chưa được thực hiện triệt để và có hiệu quả, còn
chạy theo số lượng, chất lượng không được chú ý đúng với tầm quan trọng của vấn đề.
=> Hệ quả : Chất lượng nguồn nhân lực đã qua đào tạo vẫn còn thấp. Theo đánh giá
của Ngân hàng Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam đạt mức 3,79 điểm
(trong thang điểm 10), xếp hạng thứ 11 trong số 12 quốc gia được khảo sát tại Châu Á.
Trong khi Hàn Quốc đạt 6,91 điểm; Ấn Độ đạt 5,76 điểm; Malaysia đạt 5,59 điểm.
Nguồn nhân lực nước ta yếu về chất lượng, thiếu năng động và sáng tạo, tác phong lao
động công nghiệp) ...
Nhiều sinh viên ra trường chưa đáp ứng tốt yêu cầu xã hội, yêu cầu phát triển sản xuất,
kinh doanh của doanh nghiệp và người sử dụng lao động. Theo kết quả điều tra gần
đây, hiện tại ở nước ta 63% số sinh viên tốt nghiệp đại học chưa có việc làm, nhiều cơ
quan, doanh nghiệp nhận sinh viên vào làm việc phải mất từ 1 đến 2 năm đào tạo lại.
Trong số 37% sinh viên ra trường có việc làm thì về cơ bản cũng chưa đáp ứng được
yêu cầu công việc...và nhiều người không làm đúng ngành nghề được đào tạo, trong
khi đó có nhiều doanh nghiệp, kể cả doanh nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan
trọng khác rất thiếu nguồn nhân lực chuyên nghiệp” .Theo kết quả khảo sát gần đây, số
lao động qua đào tạo phát huy được tác dụng chưa tới 40%. Tình trạng bằng cấp không
đúng thực chất, “bằng rởm” không phải là hiện tượng cá biệt. Ngay cả những trường
hợp được học hành, đào tạo rất quy củ, bài bản một cách nghiêm túc nhưng khi ra làm
việc thực tế vẫn không đáp ứng được yêu cầu, không phát huy được tác dụng…
2.2.

Phân bổ nguồn nhân lực chưa hợp lý.
Đây là một trong những vấn đề cần quan tâm trong công tác phát triển nguồn

nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay. Cơ cấu nguồn nhân lực hợp lí là kết quả
hình thành của một quá trình phân bổ nguồn nhân lực hợp lí. Nó phản ánh tỷ trọng
nguồn nhân lực theo từng tiêu thức nghiên cứu trong nguồn nhân lực xã hội. Thực tế
cho thấy, phân bố nguồn nhân lực chất lượng cao của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập.

11


-

Có sự chênh lệch lớn về tỷ lệ lực lượng lao động chất lượng cao giữa các vùng, giữa
thành thị, nông thôn … Cụ thể, ta có bảng tỷ lệ lực lượng lao động chất lượng cao năm
2013.
Bảng 2: Tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo, năm 2013
Nơi cư trú

Tổng số

Dạy nghề

Trung cấp

Cao đẳng

Đại học

Cả nước

18,2


5,4

3,7

2,0

7,1

Nam

20,6

8,2

3,5

1,5

7,5

Nữ

15,7

2,4

4,0

2,6


6,7

Thành thị

33,9

8,4

5,7

3,1

16,7

Nôngthôn

11,5

4,0

2,9

1,6

2,9

Trung du và
miền núi phía
Bắc


15,9

4,5

4,6

2,3

4,4

Đồng bằng
sông Hồng

20,2

8,4

3,7

2,4

5,8

Bắc Bộ và
duyên hải
miền Trung

16,4

4,4


4,1

2,2

5,7

Tây Nguyên

13,5

3,4

3,5

1,7

4,9

Đông Nam
Bộ

16,5

5,2

3,4

1,8


6,0

Đồng bằng
sông Cửu
Long

10,5

2,7

2,6

1,2

4,0

Hà Nội

36,9

10,1

5,0

2,9

19,0

Các vùng


12


Thành phố
Hồ Chí Minh

31,4

7,6

3,4

2,6

17,8

Nguồn: Báo cáo điều tra lao động việc làm 2013
Tỷ lệ lao động đã qua đào tạo cao nhất là ở Hà Nội (36,9%) và thấp nhất là ở
đồng bằng sông Cửu Long (10,5%). Tỷ trọng lực lượng lao động có trình độ đại học
trở lên khác nhau đáng kể giữa các vùng. Nơi có tỷ trọng này cao nhất là Hà Nội
(19%) và Thành phố Hồ Chí Minh (17,8%). Ngược lại đồng bằng sông Cửu Long là
vùng có tỷ trọng lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên thấp nhất (4%).
=> Sự phân bố lực lượng lao động giữa các vùng chưa tương xứng với tiềm năng
của các vùng đó, do đó chưa khai thác được lợi thế của các vùng kinh tế đó. Chẳng
hạn, 2 vùng kinh tế Tây Bắc và Tây Nguyên là 2 vùng có diện tích đất tự nhiên lớn, có
thể phát triển và sản xuất những cây đặc sản có giá trị kinh tế cao (cây công nghiệp,
cây ăn quả…), nhưng lao động tập trung ở 2 khu vực này là rất thấp. Vì vậy sự phát
triển kinh tế ở khu vực này còn nhiều khó khăn, việc thiếu nguồn nhân lực có trình độ
để chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên cơ sở lợi thế của vùng.
-


Bên cạnh đó còn tồn tại sự mất cân đối về số lượng giữa các ngành nghề đào tạo.
Theo khảo sát đầu năm 2014, lao động trình độ cao đang tập trung nhiều nhất trong
ngành giáo dục và đào tạo (chiếm 30% số lao động trình độ cao), hoạt động của Đảng,
tổ chức chính trị xã hội, Quản lý Nhà nước và An ninh quốc phòng (chiếm 19%), y tế
và hoạt động trợ giúp xã hội (chiếm 8%).
Công nghiệp chế biến, chế tạo – là ngành chủ lực trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa chỉ chiếm 9% tổng số lao động trình độ cao, trong khi với các nước phát
triển tỷ lệ nâng lên đến 40-60%.
Cơ cấu lao động trình độ cao theo ngành năm 2014

13


Nguồn: TCTK, Điều tra Lao động Việc làm 6 tháng đầu năm 2014
Đào tạo công nhân kỹ thuật còn chiếm tỷ trọng thấp; nhân lực được đào tạo các ngành
kỹ thuật - công nghệ, nông-lâm-ngư chiếm tỷ trọng thấp, còn tỷ trọng các ngành xã
hội, luật, kinh tế, ngoại ngữ lại quá cao. Thiếu nhiều công nhân kỹ thuật lành nghề,
trước hết là trong các ngành trọng điểm (cơ khí, điện tử - kỹ thuật điện, hóa chất...) và
ở các khu công nghiệp lớn, các khu kinh tế mới.
Trong khi đó, còn thiếu nhiều nhân lực trình độ cao trong các ngành, lĩnh vực quan
trọng như: Nghiên cứu hoạch định chính sách, tư vấn luật pháp (nhất là luật pháp quốc
tế), chuyên gia cao cấp về quản trị kinh doanh, tài chính, ngân hàng, thương mại quốc
tế và lao động kỹ thuật trình độ cao. Việt Nam cũng chưa sở hữu hay làm chủ được bất
kỳ công nghệ nguồn, công nghệ cốt lõi nào thuộc lĩnh vực công nghệ cao (CNC). CNC
hầu như còn vắng bóng ở hầu hết các ngành kinh tế.
2.3.
-

Sử dụng.

Năm 2013, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo là 18,2% (bảng trên) nhưng chỉ có 17,9 % đã
qua đào tạo và đang làm việc
14


Bảng 2: Tỷ lệ lao động đang làm việc đã qua đào tạo, năm 2013
Nơi cư trú

Tổng số

Dạy nghề Trung cấp

Cao đẳng

Đại học

Cả nước

17,9

5,3

3,7

2,0

6,9

Nam


20,3

8,1

3,5

1,4

7,3

Nữ

15,4

2,4

3,9

2,5

6,5

Thành thị

33,7

8,4

5,6


3,0

16,6

Nông thôn

11,2

4,0

2,9

1,5

2,8

=> Sử dụng nhân lực không hợp lý
-

Hiện tượng “chảy máu chất xám”
Chảy máu chất xám (tiếng Anh: human capital flight hoặc brain drain) là thuật ngữ
dùng để chỉ vấn đề di cư quy mô lớn của nguồn nhân lực có kiến thức và kĩ thuật từ
một nước qua những nước khác.
Ở Việt Nam, đây là một hiện tượng đáng báo động, gây ra những hậu quả khó
lường cho phát triển kinh tế. Nguồn chất xám bị chảy máu khiến kinh phí đào tạo của
quốc gia không ngừng thất thoát, đồng thời phải bỏ ra một nguồn kinh phí lớn để trả
lương cho các chuyên gia nước ngoài mời về.


Các nhà vô địch cuộc thi kiến thức Đường lên đỉnh Olympia, tổ chức từ năm

1999, dành cho học sinh trung học phổ thông, được Đại học Kỹ thuật
Swinburne Úc trao tặng 100% học bổng. Trong số 13 người đã tốt nghiệp chỉ

có duy nhất 1 người trở về nước làm việc.
• Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) cho biết, hiện có trên 3 vạn lưu học sinh du
học theo các con đường: Hiệp định giữa hai chính phủ, với học bổng của các tổ
chức nước ngoài, học bổng của chính phủ trong khuôn khổ đề án đào tạo cán bộ
khoa học kỹ thuật của các cơ sở nước ngoài bằng nguồn ngân sách Nhà nước
(Đề án 322) và du học tự túc. Với Đề án 322, từ năm 2000 đến hết 2010, Việt
15


Nam đã chi hơn 2.500 tỉ đồng cho 4.590 cán bộ, giảng viên đi nước ngoài học
tập; và trong số 2.268 người được đưa đi đào tạo tiến sĩ, thì chỉ có 1.074 tiến sĩ
về nước. Chi phí bình quân cho mỗi du học sinh theo đề án này là khoảng
22.000 USD/năm. Như vậy, trong 10 năm nhà nước phải chi cho mỗi người là
220.000USD, tức gần 4,4 tỉ đồng.
Không chỉ vậy, theo thống kê của Bộ GD&ĐT, chỉ tính riêng ở Mỹ, hiện nay số lượng
du học sinh Việt Nam ngày càng tăng, theo đó, năm 2013 có 16.098 người, năm 2014
là 16.579 người ra nước ngoài học tập, tăng 3%, xếp thứ 8 trong nhóm 10 nước có số
lượng du học sinh đông nhất tại Mỹ. Như vậy, nếu tính một suất du học Mỹ tốn
khoảng 36.564 USD ( số liệu của ngân hàng HSBC) thì mỗi năm Việt Nam chuyển ra
bên Mỹ gần 700 triệu USD. Nhưng sau đó, phải có đến 70% những sinh viên Việt
Nam mới tốt nghiệp ở nước ngoài không quay trở về đất nước.

Bảng xếp hạng 10 nước có nhiều du học sinh nhất tại Mỹ.

16



Ảnh: Open Doors Report

17


Chương 3: Thành tựu và một số nhóm biện pháp cụ thể
3.1.
3.1.1

Thành tựu của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong

việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Thành tựu của một số quốc gia phát triển
a. Mỹ
- Về thu hút nhân tài: Chính phủ Mỹ không chỉ chú ý đến việc đào tạo mà còn
chú trọng việc thu hút và sử dụng nhân lực, đặc biệt là người tài từ các quốc gia khác.
Những nhân tài kiệt xuất của nước Đức, những nhà khoa học lỗi lạc của Nga và châu
Âu, những chuyên gia tầm cỡ quốc tế của Ấn Độ, Trung Quốc và nhiều quốc gia đang
phát triển khác đã “hội tụ” về Mỹ. Hiện nay toàn cầu có 1,5 triệu lưu học sinh và học
giả đang học tập hoặc làm công tác nghiên cứu ở nước ngoài, trong đó có 500.000
người tập trung ở Mỹ. Con số này làm cho Mỹ trở thành quốc gia của người nhập cư.
Trong quá trình thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nước Mỹ đặc biệt chú trọng
thu hút đội ngũ các nhà khoa học sáng chế và đội ngũ chuyên gia trong các ngành
công nghệ cao, tạo điều kiện tốt về lương, chỗ ở, điều kiện đi lại…để các chuyên gia
làm việc và cống hiến.
Về phát triển giáo dục – đào tạo: Hệ thống giáo dục đại học của Mỹ được xây
dựng với hai đặc trưng cơ bản là tính đại chúng và tính khai phóng. Chỉ hơn 324 triệu
dân nhưng Mỹ có tới hơn 4.200 trường đại học. Theo kết quả đánh giá và xếp hạng 200
trường đại học hàng đầu thế giới, Mỹ có tới 88trường , chiếm 44%. Mỹ phát triển rộng
rãi hệ thống đại học cộng đồng (nơi đào tạo đại trà, giải quyết số lượng), tỷ lệ là 1/30.

Tức là cứ có một trường đại học nghiên cứu thì có 30 trường đại học cộng đồng. Mức
học phí cũng khác nhau phù hợp với mọi đối tượng; học phí trường đại học cộng đồng
rẻ hơn nhiều so với đại học nghiên cứu. Với hệ thống giáo dục đại học đa dạng (trường
công lập, trường tư thục, trường cộng đồng …), nước Mỹ đã đào tạo được một nguồn
nhân lực chất lượng cao đồi dào, chiếm tới 40% tổng số lực lượng lao động quốc gia.
b.
Đức
Hệ thống đại học của Đức có hai loại trường, tạo thành hai trụ cột phân biệt nhau
là trường đại học tổng hợp (Uni-Universitaten), đại học tổng hợp kĩ thuật (TUTechnische Universitaten) và trường đại học thực hành hay đại học khoa học ứng dụng
(FH- Fachhochschule).
Chỉ học sinh tốt nghiệp Trung học hệ 12/13 năm của Đức mới được xin nhập học
vào các trường ĐH Tổng hợp (Universitaten) hay trường ĐH Tổng hợp kỹ thuật
18


(Technische Universitaten). Còn học sinh tốt nghiệp Trung học hệ 12 năm của Đức
(hay tương tự),chỉ được xin nhập học vào các trường ĐH Khoa học ứng dụng
(Fachhochschulen).
Khi học dự bị ĐH (Studienkolleg) của các trường ĐH Khoa học ứng dụng thì sau
khi tốt nghiệp thành công (Feststellungsprufung - FSP) chỉ được nhập học vào các
Fachhochschulen thôi. Ngược lại, khi học dự bị ĐH của các Universitaten hay
Technische Universitaten thì được nhập học vào tất cả các Universitaten, Technische
Universitaten và Fachhochschulen sau khi thi thành công Feststellungsprufung.
c.

Nhật

Nhằm huy động các nguồn lực từ xã hội cho công tác đào tạo nhân lực, Chính phủ
Nhật khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành hệ thống giáo dục đào
tạo nghề trong các công ty, doanh nghiệp. Không chỉ là một quốc gia có nền giáo dục

phát triển mà Nhật cũng rất coi trọng việc tiếp thu các kinh nghiệm, thành tựu về đào
tạo nguồn nhân lực của các quốc gia phát triển khác. Việc cử người đi học tập ở nước
ngoài được Nhà nước chú trọng, khuyến khích, với nhiều nguồn kinh phí khác nhau,
sử dụng kinh phí của Nhà nước, người đi học, đối tác nước ngoài khác...
d.

Singapore

Các nhà lãnh đạo Singapore quan niệm rằng: thắng trong cuộc đua về giáo dục sẽ
thắng trong cuộc đua về phát triển kinh tế:


Chính phủ Singapore đã dành một khoản đầu tư rất lớn để phát triển giáo dục.
Từ mức đầu tư khoảng 3% GDP những năm 1990 đã tăng dần lên 3,6%, 4% và
dự kiến tăng lên tới 5% trong những thập niên đầu thế kỷ XXI. Mức chi cho
giáo dục tài khóa 2007 – 2008 là 6,796 tỷ đô la Singapore (SGD), 2008 – 2009
là 8,22 tỷ SGD và 2009 – 2010 là 8,7 tỷ SGD.



Xây dựng một hệ thống trường cao đẳng nghề, trường đại học quy mô lớn và
khuyến khích các công ty tham gia đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước.



Có những chính sách để thu hút sinh viên nước ngoài tới học tập và làm việc.
Tại ĐH Quốc gia Singapore (NUS), học phí cho sinh viên nước ngoài được
chính phủ hỗ trợ 80% và sinh viên không phải hoàn lại sau khi học xong, thay
19



vào đó, sinh viên sẽ ký hợp đồng đồng ý làm việc ba năm cho bất cứ công ty
hoặc cơ quan nào đóng tại Singapore.
Ngoài ra, NUS có nhiều khoản vay dành cho sinh viên nước ngoài để chi trả học phí.
Sinh viên có thể vay sinh hoạt phí là 3.600 đôla Sing/năm.Trả trong vòng 20 năm với
lãi suất là 5,25%/năm. Mỗi tháng phải trả tối thiểu là 100 đôla Sing. Điều này đảm bảo
rằng không một sinh viên giỏi nào không thể tiếp tục học chỉ vì lí do kinh tế.
3.1.2

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Thứ nhất, để có thể tập trung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thực sự thì
việc phân luồng nguồn nhân lực là bước đầu tiên và quan trọng nhất. Phải xác định rõ
mục tiêu đào tạo đối với từng cấp học, bậc học, nhu cầu, quy hoạch nhân lực của
ngành, vùng miền, địa phương để định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Cần nhanh
chóng hoàn thiện để đưa vào vận hành Hệ thống thông tin và dự báo nhu cầu nhân lực
quốc gia nhằm cung cấp kịp thời cho người lao động cũng như học sinh- sinh viên để
họ có định hướng đúng đắn nhất.
Ngoài ra, có thể thấy đào tạo nguồn nhân lực của nước ta chưa đáp ứng đúng yêu cầu
về số lượng, chất lượng so với nền kinh tế. Trong khi nền kinh tế nước ta còn đang chủ
yếu phát triển các ngành có công nghệ trình độ thấp và trung bình thì chúng ta lại ồ ạt
phát triển giáo dục đại học, các trường cao đẳng, trung cấp đua nhau lên thành trường
đại học, nhiều trường đại học mới được thành lập dàn trải, không có chất lượng tốt gây
lãng phí và không hiệu quả.
Cơ cấu trình độ đào tạo ở Việt Nam hiện nay được coi là mất cân bằng nghiêm trọng,
cơ cấu trình độ giữa đại học, cao đẳng với trung cấp và công nhân kỹ thuật được cho
là tối ưu ở các nước công nghiệp là 1:4:20. Tuy nhiên, vì mở rộng số lượng các
trường đại học mà không chú ý đúng mức đến quản lý chất lượng, cộng tâm lý thích
học đại học của người dân làm cho tỷ lệ người theo học đại học cao hơn hẳn so với
những người mong muốn trở thành công nhân kỹ thuật lành nghề ở nước ta. Vì vậy,

cần có sự tách bạch rõ ràng trong đào tạo những người lao động có kỹ năng để lao
động trực tiếp với những người lao động có khả năng nghiên cứu nhằm đảm bảo đúng
cơ cấu lao động.
20


Thứ hai, sau khi đã tiến hành phân luồng, cần có chiến lược đầu tư thông minh cho cả
hai nhóm, đặc biệt là nhóm ưu tú hơn, nhóm này sẽ là mũi nhọn trong phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao.
-Tiến hành phát hiện, bồi dưỡng, tuyển dụng, trọng dụng nhân lực chất lượng cao, khai
thác được chất xám của họ trong nghiên cứu, chế tạo, ứng dụng thành quả nghiên cứu,
khuyến khích và đầu tư cho nhóm này những cơ hội học tập, nâng cao trình độ chuyên
môn, kỹ năng tốt nhất; từ đó, xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi ở các lĩnh vực, tổ
chức, doanh nghiệp.
- Ở bậc Đại học:


Đẩy mạnh xây dựng các chương trình Cử nhân tài năng, Kĩ sư tài năng, đầu tư
có chọn lọc các Viện nghiên cứu, hướng tới chuẩn Quốc tế từ giáo trình đến các
loại bằng cấp và chứng chỉ hành nghề. Lấy ví dụ ngành Y, theo Thỏa thuận
khung ASEAN thừa nhận lẫn nhau về hành nghề trong lĩnh vực y tế ( Thái Lan,
26 tháng 2 năm 2009) trong Hiêp định khung ASEAN về dịch vụ (AFAS) 1995
thì chỉ cần chứng chỉ hành nghề Y theo chuẩn ASEAN sẽ được tự do hoạt động
trên 11 quốc gia thuộc khối này. Song chúng ta vẫn chưa thực sự có một
chương trình đào tạo ở bất cứ khoa Y hay trường Y nào theo đúng chuẩn chứng
chỉ nêu trên và vì thế, chất lượng dịch vụ Y tế ở Việt Nam nói chung vẫn còn
rất thấp.




Đẩy mạnh khả năng thực hành, tự nghiên cứu để sinh viên ra trường hội tụ
những kĩ năng thực tế, kiến thức cần thiết cho những công việc cụ thể.



Đẩy mạnh nâng cao trình độ ngoại ngữ trong đó có tiếng Anh cho học sinh,
sinh viên càng sớm càng tốt, phải có chuẩn đầu ra hợp lý. Vì nắm bắt tốt ngoại
ngữ là điều kiện cần của hội nhập kinh tế quốc tế, như Singapore đã có chương
trình đào tạo song ngữ cho học sinh ngay khi còn nhỏ.

Thứ ba, huy động sự tham gia của các nguồn lực trong và ngoài nước vào công tác
đào tạo để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

21


Mặc dù các quốc gia có tiềm lực kinh tế lớn và nền giáo dục phát triển trên thế giới đã
dành một khoản rất lớn trong ngân sách để chi cho giáo dục và đào tạo nhân lực. Tuy
nhiên, để tăng cường nguồn lực tài chính cho công tác đào tạo nhân lực và đảm bảo
việc đào tạo luôn phù hợp với yêu cầu của các DN, các quốc gia này đều có những
chính sách khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp, công ty vào việc đào tạo
nguồn nhân lực.
Các quốc gia này cũng luôn biết tiếp thu, học hỏi kinh nghiệm, thành tựu trong đào tạo
nguồn nhân lực của các quốc gia phát triển khác. Đặc biệt như Hàn Quốc, Nhật Bản,
Singapore, không chỉ chủ trương xuất khẩu giáo dục mà còn thực hiện nhập khẩu
giáo dục, mời gọi các công ty, các trường đại học có uy tín trên thế giới liên doanh,
liên kết trong đào tạo nguồn nhân lực. Đây là một bài học rất đáng học hỏi cho Việt
Nam, một đất nước mà ngân sách còn hạn hẹp, mức chi cho giáo dục về mặt con số
tuyệt đối còn rất thấp, đang có nguy cơ bị tụt hậu về mặt giáo dục và đào tạo nhân lực
so với thế giới và khu vực.

Vì vậy, Việt Nam nên nghiên cứu mô hình và kinh nghiệm đào tạo phát triển
nhân lực trình độ cao thành công của các nước, tạo điều kiện cho các cơ sở đào tạo,
các cơ sở sử dụng lao động và nhân lực trình độ cao tham gia giao lưu, học hỏi, trao
đổi kinh nghiệm, ký kết hợp tác trong việc đào tạo, phát triển và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực cao tại Việt Nam.
3.2.

Các giải pháp chủ yếu nhằm tạo lập nguồn nhân lực chất lượng cao

cho phát triển kinh tế-xã hội ở Việt Nam
3.2.1. Nhóm giải pháp về Giáo dục và Đào tạo
❖ Nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo
-

Đổi mới nội dụng và phương pháp đào tạo

+

Khắc phục phương pháp giảng dạy cũ kĩ, lạc hậu

+

Tăng cường công nghệ thông tin trong tất cả các cấp học, tiến tới hội nhập với

chương trình giáo dục kỹ thuật nghề nghiệp và giáo dục đại học của các nước trong
khu vực
-

Xây dựng và nâng cao đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lí giáo dục
22



Phải kết hợp đào tạo và bồi dưỡng, tuyển dụng và sàng lọc đảm bảo đồng bộ về cơ
cấu, chuẩn hóa về trình độ đào tạo, vững vàng về tư tưởng chính trị và nghiệp vụ sư
phạm

+

-

Đẩy mạnh đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật trường học

-

Tập trung đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao

Tăng cường liên thông, liên kết từ giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp,

giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học
+

Tổ chức phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý và đào tạo, cơ sở đào tạo

với các đơn vị sử dụng lao động để có thông tin kịp thời về chất lượng nguồn nhân lực
+

Tổ chức liên kết đào tạo giữa các cơ sở đào tạo trong nước và nước ngoài

❖ Đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục
-


Xã hội hóa đào tạo nhân lực ở bậc cao đẳng và đại học

Phát triển hệ thống trường đại học, cao đẳng…tạo thêm chỗ học tập, nâng cao quy
mô đào tạo, giảm học phí…
-

Xã hội hóa đào tạo nhân lực ở bậc trung học chuyên nghiệp và dạy nghề

Việc xã hội hóa này có thể được hình thành dưới nhiều hình thức: đào tạo nghề
trong các doanh nghiệp, khuyến khích các cơ sở đào tạo nghề tư nhân đào tạo nghề
ngắn hạn và đào tạo nghề….
-

Xã hội hóa giáo dục ở bậc phổ thông

+

Thực hiện tốt công tác hướng nghiệp cho học sinh trung học phổ thông



Cung cấp cho học sinh phổ thông những thông tin về ngành nghề đào tạo, đặc

biệt là những ngành nghề mà thị trường lao động đang cần


Các trường đại học nên có những trung tâm hướng nghiệp cho sinh viên
+ Tăng cường cho đầu tư nghiên cứu vàphát triển (R&D)




Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của nguồn lực khoa học và công nghệ

trong phát triển kinh tế – xã hội


Nhanh chóng xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ đồng bộ, đủ các

loại hình hoạt động khoa học và công nghệ

23


+

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong giáo dục đào tạo cao đẳng, đại học và sau đại

học
+

Đổi mới và nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo; đẩy

mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí giáo dục


Thực hiện cơ chế đổi mới quản lí giáo dục theo hướng tự chủ, tự chịu trách

nhiệm trong hệ thống giáo dục



Hoàn chỉnh chính sách thu hút nhân tài, đặc biệt lưu ý tạo môi trường, điều kiện

làm việc và chính sách đãi ngộ…
3.2.2. Nhóm giải pháp phân bổ và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực

a. Giải pháp phân bổ nguồn nhân lực
Vấn đề cốt lõi là phải đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch lao động phù hợp với cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập.
Chính sách và giải pháp phân bổ hợp lí nguồn nhân lực con người thực chất là
các chính sách tạo động lực thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động theo
ngành, theo vùng và theo thành phần kinh tế… trong đó những vấn đề cần tập trung
xử lí là:
-

Tăng nhanh khả năng đầu tư, hướng vào các mục tiêu chuyển đổi mạnh cơ cấu

sản xuất nông nghiệp, nông thôn, phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh
có hiệu quả như kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, hợp tác xã kiểu mới… khuyến
khích các nhà đầu tư phát triển kinh tế tại các vùng miền núi, nông thôn.
-

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nông thôn, trước hết là hướng dẫn người

dân cách làm ăn, đào tạo ngắn hạn cho thanh niên nông thôn, gắn chặt với khuyến
nông lâm ngư với chuyển giao công nghệ mới.
-

Quy hoạch và xây dựng kế hoạch phát triển vào ngành kinh tế mũi nhọn và


công nghệ cao, khu công công nghiệp vừa và nhỏ.
-

Ban hành chính sách tự do di chuyển lao động và hành nghề để khuyến khích

người lao động chưa có việc làm di chuyển đến các vùng có nhu cầu lao động; có
chính sách hỗ trợ thông qua thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về phát
triển xã hội.

24


-

Có những chính sách ưu đãi đặc biệt cho những người rời thành phố lên vùng

miền núi, vùng sâu vùng xa công tác nhằm thu hút lực lượng lao động có trình độ cao
phát triển những vùng này.
b. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực
-

Nâng cao hiệu quả đào tạo nguồn nhân lực

+ Đối với đội ngũ quản lí, hằng năm cử cán bộ luân phiên nhau đi bồi dưỡng, tham dự
hội thảo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ quản lí trong nước và ngoài nước. Thường
xuyên cập nhật các kiến thức mới về quản lí, cung cấp kiến thức căn bản về kinh tế
thông qua bài giảng hoặc thông qua việc xây dựng, phân tích xử lí các tình huống, đào
tạo trực tiếp thông qua công việc.
+ Đối với đội ngũ lao động trực tiếp, đầu tư kinh phí cho họ đi học tập, tiếp thu công
nghệ mới. Đẩy mạnh hợp tác với các nước phát triển nhằm tiếp thu kinh nghiệm và

công nghệ hiện đại từ đó tạo ra đội ngũ công nhân kĩ thuật theo hướng chuyên nghiệp,
đem lại hiệu quả cao. Tổ chức các cuộc thi tay nghề lao động giỏi, sáng tạo trong lao
động để khuyến khích người lao động tìm tòi, sáng tạo, cải tiến kĩ thuật.
-

Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, đánh giá năng lực thực hiện công việc của

nguồn nhân lực
3.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao tình trạng sức khỏe, nâng cao chất lượng dân số,

cải thiện môi trường sống cho con người
a. Giải pháp nâng cao tình trạng sức khỏe người lao động
-

Kết hợp phù hợp chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với chính sách kế

hoạch hóa gia đình với từng vùng, từng địa phương.
- Duy trì mức sinh hợp lý để có cơ cấu dân số đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã
hội nhanh và bền vững; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; xây dựng và mở
rộng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe gia đình và phúc lợi xã hội; kiểm soát tỉ lệ giới
tính khi sinh; hỗ trợ cá nhân, gia đình có các vấn đề về bệnh di truyền; nâng cao phúc
lợi xã hội; đảm bảo các dịch vụ xã hội cơ bản cho người di cư.
- Tăng cường tuyên truyền sức khỏe thể chất, trí tuệ và tinh thần cho các nhóm
đối tượng đặc biệt triển khai các mô hình cung cấp dịch vụ và vận động để tăng cường
sự sàng lọc sơ sinh tại cộng đồng; đào tạo, cung cấp thiết bị cho các trung tâm tư vấn,
dịch vụ dân số cấp thành phố.
25



×