Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Tổ chức kế toán nguyên vật liệu ở công ty cổ phần mía đường hoà bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.07 KB, 72 trang )

BÀI LUẬN
ĐỀ TÀI

Tổ chức kế toán nguyên vật liệu ở công ty
Cổ phần mía đường Hoà Bình

GVHD: NGUYỄN HẢI HÀ

1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt giữa các đơn vị, doanh
nghiệp sản xuất cùng sản xuất một loại mặt hàng hoặc các loại mặt hàng khác nhau
là quy luật tất yếu. Để đứng vững được mỗi đơn vị luôn xác định cho mình một vị
trí trong cạnh tranh. Muốn vậy cần có một chiến lược cạnh tranh kinh doanh khả thi
trong mỗi thời kỳ ngắn, có quyết định đúng trong mỗi trường hợp và vai trò kế toán
được phát huy.
Kế toán từ lâu đã có vai trò vô cùng quan trọng không thể thiếu đối với bất
kỳ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nào cũng như các đơn vị hoạt động trong lĩnh
vực khác. Một hệ thống kế toán được coi là hợp lý nghĩa là tổ chức tốt các thành
phần kế toán trong sự kết hợp giữa việc tuân thủ các quy định của nhà nước về kế
toán với điều kiện thực tế ở doanh nghiệp. Điều đó sẽ giúp cho các nhà quản trị
trong việc ra quyết định sản xuất kinh doanh của mình cũng như việc hoạch định
chiến lược sản xuất kinh doanh.
Quyết định sản xuất kinh doanh dựa trên nhiều yếu tố nhưng một yếu tố
không thể thiếu khi tiên hành sản xuất đó là nguyên vật liệu. Nguyên vật liệu là yếu
tố đầu tiên cần được tính toán, xác định định mức, mức tiêu hao khi sản xuất một
loại sản phẩm nào đó. Là yếu tố cấu thành nên giá thành sản phẩm và tác động đến
chỉ tiêu lợi nhuận. Thực tế việc phấn đấu không ngừng để tiết kiệm chi phí sản xuất
hạ giá thành sản phẩm đạt tới lợi nhuận cao nhất là mục tiêu lớn nhất của bất kỳ


doanh nghiệp nào. Chính vì vậy, Kế toán nguyên vật liệu có vai trò quan trọng
không thể thiếu và phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản của kế toán đó là kịp thời,
chính xác, toàn diện.
Là một sinh viên thực tập với cơ sở lý luận đã được trang bị trong những
năm học ở trường và những kết quả tìm hiểu thực tế trong thời gian thực tập tại

2


công ty, em đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu tình hình kế toán NVL ở công ty với đề
tài: “ Tổ chức kế toán nguyên vật liệu ở công ty Cổ phần mía đường Hoà Bình”
Đề tài gồm có 3 phần chính:
Phần 1: Cơ sở lý luận chung về nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản
xuất.
Phần 2: Thực trạng công tác kế toán NVL ở công ty cổ phần mía đường Hoà
Bình.
Phần 3 : Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác kế toán nguyên vật liệu
ở công ty cổ phần mía đường Hoà Bình.

3


PHẦN 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. VỊ TRÍ CỦA NGUYÊN VẬT LIỆU ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH SẢN XUẤT

Quá trình sản xuất là sự kết hợp 3 yếu tố: Sức lao động, tư liệu lao động, đối
tượng lao động.
Đối tượng lao động là tất cả mọi vật thiên nhiên ở xung quanh ta mà lao

động có ích có thể tác động vào và nguyên vật liệu chính là đối tượng lao động. Tất
nhiên không phải bất cứ một đối tượng lao động nào cũng là nguyên vật liệu mà đối
tượng lao động muốn trở thành nguyên vật liệu thì đối tượng lao động đó phải được
lao động có ích tác động vào.
Vậy, nguyên vật liệu là đối tượng lao động đã được thay đổi do lao động có
ích của con người tác động vào nó. Trong các công ty sản xuất thì vật liệu chính là
tài sản dự trữ sản xuất thuộc tài sản lưu động.
Qua trên, ta thấy nguyên vật liệu là yếu tố cơ bản không thể thiếu được của
quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất đó, nguyên vật liệu chỉ tham gia vào
một chu kỳ sản xuất và hình thái vật chất ban đầu của nó bị biến đổi hoàn toàn - xét
về mặt hiện vật. Xét về mặt giá trị thì giá trị nguyên vật liệu được chuyển dịch hết
một lần vào giá trị sản xuất mới tạo ra.
Chính từ đặc điểm trên của nguyên vật liệu làm cho nó có một vị trí quan trọng
đối với quá trình sản xuất. Do giá trị của nguyên vật liệu được chuyển dịch hết một lần
vào giá trị sản phẩm mới tạo ra nên chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong
toàn bộ chi phí sản xuất, cũng như trong toàn bộ giá thành sản phẩm.

4


Ví dụ: Trong giá thành sản phẩm công nghiệp cơ khí chi phí nguyên vật liệu
chiếm từ 50 - 60%. Trong giá thành sản phẩm công nghiệp chế biến chi phí nguyên
vật liệu chiếm gần 70%.
Trong giá thành sản phẩm công nghiệp nhẹ, chi phí nguyên vật liệu chiếm
gần 60%. Và như chúng ta đã biết, giá thành sản phẩm là vấn đề được quan tâm
hàng đầu trong tất cả các doanh nghiệp sản xuất, đặc biệt trong nền kinh tế thị
trường hiện nay. Để tồn tại và phát triển trong điều kiện cạnh tranh ngày càng trở nên
gay gắt đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến mẫu mã sản phẩm cho
phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng, nâng cao chất lượng sản phẩm và phải hạ được
giá thành sản phẩm. Như trên đã trình bày, chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn

trong giá thành sản phẩm vì vậy phần đầu ra giá thành sản phẩm cũng đồng nghĩa với
việc giảm chi phí nguyên vật liệu một cách hợp lý. Như vậy, nguyên vật liệu có ý
nghĩa quan trọng đối với sự sống còn của doanh nghiệp.
Để sản xuất bất kỳ một loại sản phẩm nào thì người sản xuất ra nó cũng phải
dùng đến nguyên vật liệu, nhưng chất lượng của nguyên vật liệu cũng là một vấn đề
cần quan tâm. Một sản phẩm muốn được tồn tại và phát triển hơn nữa trên thị
trường thì nhất thiết sản phẩm đó phải vừa có mẫu mã đẹp vừa có chất lượng tốt. Vì
vậy chất lượng sản phẩm phải phụ thuộc vào chất lượng nguyên vật liệu: Các chi
tiết phụ tùng để lắp ráp một chiếc ô tô sẽ không bền nếu như chất lượng sắt thép để
sản xuất ra những chi tiết phụ tùng đó là tồi và tất nhiên nếu chất lượng sản phẩm
không tốt sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiêu thụ, dẫn đến thu nhập bấp bênh
và sự tồn tại của doanh nghiệp cũng không còn chắc chắn nữa. Mặt khác, xét về
mặt vốn nguyên vật liệu là thành phần quan trọng của vốn lưu động trong doanh
nghiệp, đặc biệt là vốn dự trữ. Để nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn cần phải
tăng tốc độ luân chuyển tốc độ vốn lưu động, nghĩa là không tách rời việc dự trữ và
sử dụng nguyên vật liệu một cách hợp lý và tiết kiệm. Như vậy nguyên vật liệu có

5


vị trí đặc biệt quan trọng không thể phủ nhận được trong quá trình sản xuất xuất
phát từ tầm quan trọng của nguyên vật liệu trong điều kiện nền kinh tế hiện nay thì
giảm chi phí nguyên vật liệu một cách hợp lý đảm bảo cho giá thành sản phẩm
giảm từ đó lợi nhuận Doanh nghiệp sẽ tăng, đồng thời với một lượng chi phí
nguyên vật liệu tương đối, có thể làm ra được nhiều sản phẩm nhất tức là hiệu quả
sử dụng đồng vốn được nâng cao.
1.2. ĐẶC ĐIỂM, YÊU CẦU QUẢN LÝ NGUYÊN VẬT LIỆU:

1.2.1 Đặc điểm của nguyên vật liệu trong các doanh nghiệp sản xuất:
Như đã nói ở trên, nguyên vật liệu là đối tượng lao động, giá trị nguyên vật

liệu tính trong giá trị sản phẩm sản xuất ra. Vì vây, có thể rút ra đặc điểm nguyên
vật liệu đó là: Nguyên vật liệu chỉ tham gia vào một chu kỳ sản xuất, không giữ
nguyên hình thái vật chất ban đầu. Để tạo ra một loại sản phẩm thì có nguyên vật
liệu, song quá trình sản xuất nguyên vật liệu đã được biểu hiện dưới hình thức
khác. Lúc này, có thể là thành phẩm đưa ra sử dụng cho nhu cầu sống như: Vải là
nguyên vật liệu để sản xuất quần áo, sau quá trình sản xuất vải biến thành quần áo
mặc và đó là thành phẩm. Nguyên vật liệu sau một quá trình sản xuất cũng có thể
chưa phải là thành phẩm cuối cùng mà nó lại được coi là nguyên vật liệu cho quá
trình sản xuất tiếp theo như: Tơ dùng để dệt vải, vải lại là nguyên liệu để sản xuất
quần áo.
* Nguyên vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất thì được tiêu dùng toàn
bộ. Giá trị nguyên vật liệu được dịch chuyển toàn bộ vào giá trị sản phẩm mới sản
xuất ra.
Nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong sản phẩm vì nguyên vật liệu là ối
tượng cấu thành lên thực thể sản phẩm nên toàn bộ giá trị sẵn có ban đầu của
nguyên vật liệu được làm cơ sở để xác định giá thành sản phẩm, tất nhiên phần chi

6


phí nhân công và các chi phí khác không thể thiếu vì nhờ có chúng mà giá trị
chuyển hoá của nguyên vật liệu mới được thực hiện.
1.2.2.Yêu cầu quản lý chung
* Tính khách quan của công tác quản lý nguyên vật liệu:
Quản lý nguyên vật liệu là yếu tố khách quan của mọi nền sản xuất xã hội
nhưng mỗi thời kỳ trong lịch sử phát triển xã hội loài người thì lại có các mức độ
và phương pháp quản lý khác nhau. Từ xa xưa khi con người biết chế tạo ra một
vật dụng gì đó, họ đã biết tính toán xem dùng vật liệu gì là hợp lý, khối lượng là
bao nhiêu thì đủ và sử dụng nó như thế nào cho nó hiệu quả nhất. Khi xã hội càng
phát triển thì các phương pháp quản lý cũng phát triển hoàn thiện hơn.

Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế của các nước cũng như khoa học công
nghệ đang phát triển rất cao, đời sống của người dân ngày một tăng làm cho nhu
cầu vật chất và tinh thần ngày càng cao. Để đáp ứng kịp thời nhu cầu đó bắt buộc
sản xuất ngày càng phát triển và mở rộng hơn. Bên cạnh đó, mục đích cuối cùng
của các Doanh nghiệp là lợi nhuận, nên sản xuất thì nhất thiết phải giảm chi phí
nguyên vật liệu, tức là phải sử dụng nguyên vật liệu một cách tiết kiệm, hợp lý, có
kế hoạch.
Vì vậy, công tác quản lý nguyên vật liệu là nhiệm vụ tất yếu, là yêu cầu của
phương thức sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nhằm tiết kiệm được
chi phí và mang lại hiệu quả kinh tế cao.
* Sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý nguyên vật liệu
Nền kinh tế quốc dân ngày càng phát triển, khối lượng sản phẩm đòi hỏi
ngày càng nhiều làm cho khối lượng cũng như chủng loại nguyên vật liệu ngày
càng tăng. Đối với nước ta, nguyên vật liệu sản xuất trong nước còn chưa đáp ứng
yêu cầu sản xuất, một số nguyên vật liệu còn phải nhập ngoại. Do đó cần phải quản

7


lý nguyên vật liệu trên tinh thần tiết kiệm, tăng cường đúng mức, đúng quy trình
công nghệ, đảm bảo sản xuất nhiều sản phẩm tốt nhất.
Nguyên vật liệu dùng cho công nghiệp nước ta phần lớn do nông nghiệp
cung cấp do nông nghiệp chưa thực sự coi là mặt trận hàng đầu, chưa được đầu tư
đúng mức trong khi công nghiệp thì ngày càng phát triển đòi hỏi nguyên vật liệu do
nông nghiệp cũng tăng cả về số lượng và chất lượng và chủng loại nên khả năng
này bị hạn chế.
Nguyên vật liệu do ngành công nghiệp cung cấp cho nhau cũng không chỉ
đáp ứng nhu cầu phát triển về mọi mặt của nền kinh tế.
Một số nguyên vật liệu ta còn phải nhập ngoại và phải thanh toán bằng ngoại
tệ mà điều kiện nước ta còn khó khăn thì việc nhập này cũng không được ổn định,

dễ gây ngừng trệ sản xuất. Do vậy việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp khai thác để tạo ra nhiều nguyên vật liệu cho sản xuất cần phải tìm mọi biện
pháp sử dụng nguyên vật liệu hợp lý, tiết kiệm.
Muốn vậy, cần phải quản lý tốt chúng. Yêu cầu của công tác quản lý nguyên
vật liệu là phải quản lý ở tất cả các khâu: Thu mua, bảo quản, dự trữ và sử dụng.
Ở khâu thu mua: Sản xuất sản phẩm phải sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu,
mỗi loại có công dụng riêng, do đó đối với quá trình thu mua phải quản lý cho đủ
số lượng, đúng chủng loại tốt về chất lượng (Kiểm tra thật kỹ vật liệu mua về), giá
cả hợp lý, quan tâm đến chi phí thu mua (địa điểm mua càng gần nơi sản xuất càng
tiết kiệm chi phí) chọn phương tiện vận chuyển hợp lý. Từ đó hạ thấp chi phí vật
liệu hạ giá thành sản phẩm.
Ở khâu bảo quản: Phải bảo quản theo đúng chế độ quy định, tổ chức hệ
thống kho hợp lý để nguyên liệu không thất thoát, hư hỏng, kém phẩm chất, ảnh
hưởng đến chất lượng sản xuất.

8


Ở khâu dự trữ: Để quá trình sản xuất được tiến hành liên tục bình thường cần
phải quản lý tốt khâu dự trữ, nguyên vật liệu dự trữ đúng mức tối đa, tối thiểu để
không gây ứ đọng, gián đoạn sản xuất.
Ở khâu sử dụng: Chi phí nguyên vật liệu chiếm tỷ trọng lớn trong chi phí sản
xuất. Vì vậy, phải sử dụng nguyên vật liệu đúng mức tiêu hao, đúng thứ, đúng loại
và đúng quy trình sản xuất đảm bảo tiết kiệm hợp lý, phát huy cao nhất hiệu quả sử
dụng nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ thấp chi phí nguyên vật
liệu trong giá thành sản phẩm.
Cùng với yêu cầu quản lý theo các khâu thì cũng đặt ra yêu cầu quản lý trên
cả hai chỉ tiêu giá trị và hiện vật.
Về giá trị: Tránh tình trạng nguyên vật liệu vẫn đảm bảo về số lượng nhưng
không sử dụng được hoặc sử dụng được nhưng không đảm bảo về chất lượng cho

sản phẩm tạo ra. Điều này là do chưa thực hiện tốt khâu dự trữ và bảo quản để yếu
tố bên ngoài tác động như: mưa, gió , nắng, nhiệt độ...hoặc quá thời hạn sử dụng.
Cũng có thể là do sử dụng nguyên vật liệu rẻ hơn nhưng không đảm bảo về chất
lượng.
Về hiện vật: Không để hư hỏng mất mát trong quá trình bảo quản và sử
dụng. Thực hiện điều này nên có sự phân công, phân nhiệm đến từng cá nhân, quản
lý chặt chẽ từng khâu, thường xuyên có sự kiểm tra, kiểm kê đối với nguyên vật
liệu dự trữ dài ngày.
Như vậy, công tác quản lý nguyên vật liệu là rất quan trọng và trên thực tế đã
có những Doanh nghiệp vẫn để thất thoát nhiều nguyên vật liệu do không quản lý
tốt các khâu, không xác định được định mức tiêu hao hoặc có xây dựng nhưng
không thực hiện đúng.
Vì vậy, luôn luôn cải tiến công tác quản lý nguyên vật liệu cho phù hợp với
thực tế.

9


1.3. NHIỆM VỤ KẾ TOÁN:

Hạch toán nguyên vật liệu công cụ đắc lực giúp lãnh đạo Doanh nghiệp nắm
được tính hình và chỉ đạo sản xuất kinh doanh. Hạch toán kế toán nguyên vật liệu
chính xác kịp thời, đầy đủ thì lãnh đạo Doanh nghiệp mới nắm bắt được chính xác
tình hình thu mua, dự trữ, xuất dùng nguyên vật liệu, thực hiện kế hoạch Nhập Xuất - Tồn kho vật liệu, giá cả thu mua cũng như tổng giá trị ... từ đó đề ra biện
pháp quản lý thích hợp.
Để thục hiện chức năng giám đốc và là công cụ quản lý kinh tế, xuất phát từ
vị trí, yêu cầu quản lý nguyên vật liệu, vị trí của kế toán trong quản lý kinh tế, quản
lý Doanh nghiệp thì nhiệm vụ kế toán trong quản lý kinh tế các doanh nghiệp như
sau:
* Tổ chức ghi chép phản ánh tổng hợp số liệu tình hình thu mua, vận chuyển

bảo quản, tình hình nhập xuất kho và tồn kho nguyên vật liệu, tính toán đúng đắn
giá trị vốn (hoặc giá thành) thực tế của các loại nguyên vật liệu nhập, xuất kho
nhằm cung cấp thông tin kịp thời, chính xác phục vụ cho yêu cầu lập BCTC và
phục vụ yêu cầu quản lý sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp.
* Tiến hành kiểm tra thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về thu mua vật tư, kế
hoạch sử dụng nguyên vật liệu cho sản xuất. Đối với nguyên vật liệu dự trữ phải
thường xuyên tiến hành kiểm kê tránh tình trạng nguyên vật liệu giảm về giá trị hay
hiện vật.
* Tổ chức kế toán phù hợp với phương pháp kế toán hàng tồn kho. Tổ chức
kế toán phải tuân thủ các quy định của nhà nước về hệ thống tài khoản, hệ thống sổ
sách, chứng từ vừa đảm bảo công việc kế toán đồng thời cũng đảm bảo sự thống
nhất để nhà nước có thể kiểm tra giám sát hoạt động của Doanh nghiệp. Ngoài ra
tuỳ theo đặc thù của nguyên vật liệu mà mỗi Doanh nghiệp có thể sử dụng các
phương pháp kế toán chi tiết phục vụ yêu cầu quản lý ở Doanh nghiệp. Và mục

10


đích cuối cùng là cung cấp thông tin để lập BCTC, để phân tích hoạt động kinh
doanh.
1.2. PHÂN LOẠI VÀ ĐÁNH GIÁ NGUYÊN VẬT LIỆU

1.2.1. Phân loại nguyên vật liệu
Mỗi Doanh nghiệp có tính chất đặc thù trong sản xuất kinh doanh, mỗi
Doanh nghiệp đều sử dụng nguyên vật liệu nhiều loại khác nhau để sản xuất cùng
một loại sản phẩm hoặc nhiều loại sản phẩm. Đối với mỗi loại nguyên vật liệu sử
dụng thì có sự khác nhau về công dụng, về tính chất cũng khác nhau về yêu cầu
quản lý. Do đó để đảm bảo công tác quản lý thì phải tiến hành phân loại, khi phân
loại tuỳ theo vào những tiêu thức khác nhau mà có thể cách phân loại khác nhau.
Có thể phân loại theo mục đích, theo nguồn hình thành hoặc phân loại theo nội

dung kinh tế và yêu cầu quản lý trong doanh nghiệp. Mỗi cách phân loại có tác
dụng khác nhau và yêu cầu quản lý nhưng để phục vụ cho công tác kế toán chi tiết
nguyên vật liệu thì phương pháp phân loại là căn cứ vào nội dung kinh tế và yêu
cầu quản trị doanh nghiệp. Theo phương pháp này nguyên vật liệu bao gồm:
* Nguyên vật liệu chính: nguyên vật liệu chính cũng có thể chia thành
nguyên liệu và vật liệu. Nguyên liệu là những nguyên vật liệu sử dụng cho sản xuất
nhưng trước đó chưa qua chế biến. Còn vật liệu là những nguyên vật liệu sử dụng
cho sản xuất nhưng trước đó đã qua chế biến nghĩa là nó là sản phẩm của một quá
trình sản xuất trước. Trong các Doanh nghiệp khác nhau thì nguyên vật liệu chính
cũng bao gồm các loại khác nhau: Sắt, thép, xi măng, gạch... trong XDCB, vải
trong Doanh nghiệp may, đó là những đối tượng cấu thành nên thực thể sản phẩm
nguyên vật liệu chính dùng vào sản xuất hình thành nên chi phí vật liệu trực tiếp.
* Nguyên vật liệu phụ: Nguyên vật liệu phụ là các loại vật liệu sử dụng để
làm tăng chất lượng sản phẩm, hoàn chỉnh sản phẩm phục vụ cho công tác quản lý
sản xuất, bao gói sản phẩm như thuốc nhuộm, thuốc tẩy, sơn...

11


* Nhiên liệu: Được phục vụ cho công nghệ sản xuất sản phẩm, cho phương
tiện vận tải, máy móc thiết bị hoạt động trong quá trình sản xuất kinh doanh như:
Xăng, dầu, than, củi, khí, gas.
* Phụ tùng thay thế: Gồm các loại phụ tùng, chi tiết được sử dụng để thay
thế, sửa chữa những máy móc, thiết bị sản xuất, phương tiện vận tải...
* Thiết bị XDCB: Bao gồm các loại thiết bị cần lắp và thiết bị không cần
lắp, công cụ, khí cụ, vật kết cấu... dùng cho công tác xây lắp và xây dựng cơ bản.
* Vật liệu khác: là các loại vật liệu không được xếp vào các loại kể trên, các
loại vật liệu này là do quá trình sản xuất ra, phế liệu thu hồi từ việc thanh lý TSCĐ.
Các phân loại này là cơ sở để lập danh điểm vật liệu, là cơ sở để hạch toán
chi tiết nguyên vật liệu, mở tài khoản cấp 2, cấp 3... để theo dõi. Ngoài ra, cách

phân loại này cũng giúp cho việc xác định mức tiêu hao, định mức dự trữ đối với
từng loại nguyên vật liệu.
Là một bộ phận trong hệ thống kê toán, việc tổ chức hạch toán chi tiết
nguyên vật liệu trên cơ sở sử dụng các tài khoản kê toán chi tiết của TK 152 Nguyên liệu, vật liệu được xây dựng dựa theo cách phân loại như trên. Trong điều
kiện kế toán máy vi tính, hệ thống tài khoản được mã hoá khai báo cài đặt thành
chương trình từ trước khi doanh nghiệp đưa vào sử dụng. Từ chương trình sẵn có,
Doanh nghiệp tiếp tục tổ chức khai báo chi tiết theo yêu cầu hạch toán đối với mỗi
Doanh nghiệp.
1.2.2. Đánh giá nguyên vật liệu:
Đánh giá là việc sử dụng thước đo: Tiền để xác định giá trị của nguyên vật
liệu theo những nguyên tắc nhất định. Là một bộ phận của hàng tồn kho, việc đánh
giá nguyên vật liệu cũng như đánh giá hàng tồn kho nghĩa là nguyên vật liệu phải
được tính theo giá gốc. Trường hợp giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn giá
gốc thì phải tính theo giá trị thuần có thể thực hiện được.

12


Gýa trị thuần có thể
thực hiện được

Chi phí ước tính để

Giá bán ước tính của
=

hàng tồn kho trong kỳ

hoàn thành sản phẩm và


-

CP ước tính cho việc

sản xuất kinh doanh

tiêu thụ chúng

Giá gói bao gồm giá mua, chi phí mua và các chi phí khác để có được
nguyên vật liệu ở thời điểm hiện tại.
Khi đánh giá thường đánh giá theo vốn thực tế, Doanh nghiệp có thể sử dụng
giá hạch toán để kế toán chi tiết tình hình biến động của nguyên vật liệu nhưng dù
vậy vẫn phải quy ra giá thực tế ghi sổ kế toán tổng hợp. Đánh giá theo giá thực tế
thì cả kế toán tổng hợp, kế toán chi tiết đều sử dụng giá thực tế để ghi chép trên sổ
kế toán.
1.2.2.1. Giá thực tế nguyên vật liệu nhập kho:
Nguyên vật liệu nhập kho do nhiều nguồn khác nhau, để đánh giá nghĩa là
xác định giá thực tế nhập kho thì căn cứ vào nguồn nhập.
* Nhập kho do mua ngoài: Trị giá vốn thực tế nhập kho chính là trị giá mua
thực tế
Trị giá mua

=

Giá mua trên
hoá đơn

+

Thuế không

được hoàn lại

+

CP
mua

Các khoản giảm
- giá hàng mua bị
trả lại

Thuế không hoàn lại bao gồm: Thuê nhập khẩu, thuế GTGT (đối với doanh
nghiệp không nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ).
Chi phí mua: Chi phí bốc dỡ, sắp xếp, bảo quản trong quá trình mua hàng và
các chi phí có liên quan trực tiếp đến quá trình mua hàng (Phân loại, đóng gói, thuê
kho...) và các khoản hao hụt trong định mức.

13


* Nhập kho do được cấp thì giá thực tế nhập kho tính bằng giá ghi sổ của
đơn vị cấp trên.
* Nguyên vật liệu nhận biếu, tặng. viện trợ: tính bằng giá tương đương trên
thị trường
* Nguyên vật liệu nhận góp vốn liên doanh: Giá do hội đồng liên doanh đánh
giá.
* Nguyên vật liệu thuê gia công chế biến:
Trị giá NVL
Trị giá mua


=

xuất kho

Chi phí vận
+

chuyển (đi,

đem đi thuê

+

về)

CP
mua

Các khoản giảm
- giá hàng mua bị
trả lại

Tự gia công chế biến:
Trị giá nhập kho

=

Giá thực tế xuất kho để
gia công chế biến


+

CP phát sinh liên quan đến
gia công chế biến

* Phê liệu thu hồi được tính theo giá ước tính
1.2.2.2. Giá thực tế nguyên vật liệu xuất kho:
Trị giá thực tế hàng xuất kho nói chung và giá trị thực tế nguyên vật liệu xuất
kho nói riêng được tính theo 1 trong 4 phương pháp sau:
* Phương pháp tính theo giá đích danh:
Nội dung: Theo phương pháp này, người ta xác định giá trị đơn chiếc từ khi
nhập đến khi xuất và tính đơn giá xuất kho: Chính đơn giá nhập của nó.
Áp dụng: áp dụng đối với doanh nghiệp có ít loại nguyên vật liệu, giá trị cao,
tình hình nhập xuất không thường xuyên và phải đòi hỏi theo dõi đơn giá của từng
lần nhập.
Ưu, nhược điểm: Chi phí bán hàng ra phù hợp nhất, đồng thời việc tính toán
đơn giản, kịp thời đúng giá trị xuất dùng.
* Phương pháp bình quân gia quyền:
14


Nội dung: Theo phương pháp này, giá trị của từng loại nguyên vật liệu tồn
kho được tính theo giá trung bình của từng loại nguyên vật liệu tồn đầu kỳ và từng
loại nguyên vật liệu tương tự được nhập trong kỳ. Giá trung bình có thể được tính
theo từng thời kỳ hoặc mỗi khi có lô hàng mới nhập về, điều này phụ thuộc vào
mỗi doanh nghiệp. Có 2 cách xác định đơn giá bình quân đó là:
Đơn giá bình quân gia quyền cố định (bình quân dự trữ cả kỳ) được xác định
như

sau:


Đơn giá bình
quân

=

Giá thực tế NVL tồn
đầu kỳ
Số lượng NVL tồn đầu
kỳ

+
+

Giá thực tế toàn bộ NVL nhập
trong kỳ
Số lượng NVL nhập trong kỳ

Đơn giá này được xác định vào cuối kỳ và sử dụng làm đơn giá để tính giá
xuất kho cho cả kỳ.
Còn đơn giá bình quân gia quyền liên hoàn được xác định như sau:

Đơn giá bình
quân

=

Giá thực tế NVL trước lần
nhập
Số lượng NVL trước lần

nhập

+ Trị giá thực tế NVL nhập
+

Số lượng NVL nhập

Và trị giá thực tế NVL xuất kho sẽ được xác định:
Giá thực tế xuất kho = Số lượng NVL xuất kho

x Đơn giá bình quân

* Áp dụng: Đơn giá bình quân chỉ tính riêng cho từng loại NVL thậm chí
phải giống nhau về chất. Thường các doanh nghiệp mà giá trị nguyên vật liệu
không lớn, tình hình nhập không thường xuyên.

15


* Ưu, nhược điểm: Mặc dù đơn giá tính khá đơn giản và dễ tính nhưng độ
chính xác không cao. Đặc biệt khi áp dụng đơn giá bình quân gia quyền cố định thì
công việc sẽ dồn vào cuối tháng ảnh hưởng đến công tác kế toán nói chung. Mặt
khác chưa phản ánh được chính xác tình hình biến động của nguyên vật liệu và chỉ
tính riêng cho từng loại nguyên vật liệu.
* Phương pháp nhập trước xuất trước
Nội dung: Được áp dụng dựa trên giả định số lượng nguyên vật liệu nhập
kho trước thì xuất trước và số tồn cuối kỳ là số nhập ở thời điểm gần cuối kỳ. Theo
phương pháp này thì giá trị hàng xuất kho được tính theo đơn giá của lô hàng nhập
ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ.
Áp dụng: Từng lần nhập cần phải tổ chức kế toán chi tiết, chặt chẽ và theo

dõi kế toán chi tiết chặt chẽ đầy đủ hơn giá của từng lần nhập.
Ưu, nhược điểm: Việc tính toán như vậy đưa lại kết quả tương đối hợp lý,
phù hợp trong điều kiện giá cả ổn định. Tuy nhiên khối lượng tính toán sẽ nhiều và
lại chỉ tính riêng cho từng loại vật tư nên phức tạp . Ngoài ra trong điều kiện giá cả
có xu hướng biến động thì sẽ không phù hợp.
* Phương pháp nhập sau xuất trước (LiFo)
* Nội dung: áp dụng trên giả định lượng nguyên vật liệu nhập kho sau thì
xuất dùng trước. Số còn lại cuối kỳ là số nguyên vật liệu nhập trước đó. Theo
phương pháp này thì giá trị nguyên vật liệu xuất kho được tính theo giá của lượng
nhập sau cùng hoặc gần sau cùng, giá trị nguyên vật liệu tồn kho được tính theo giá
của số đầu kỳ còn tồn kho.
* Áp dụng: Phải theo dõi đơn giá của từng lần nhập và trong điều kiện tăng
giá sẽ phù hợp hơn.
* Ưu, nhược điểm: Trị giá nguyên vật liệu xuất dùng luôn luôn phản ánh giá
trị thực tế ở thời điểm sử dụng và nó đảm bảo nguyên tắc thận trọng. Tuy nhiên

16


trong điều kiện giá cả nguyên vật liệu có sự biến động giảm thì lượng nguyên vật
liệu tồn kho có giá trị thực tế cao hơn với thực tế nguyên vật liệu trong giá thành
sản phẩm.
Ngoài ra, sau khi sử dụng phương pháp nhập sau, xuất trước thì theo chuẩn
mực số 62 - hàng tồn kho của BTC có lưu ý là: Trên BCTC phải phản ánh số chênh
lệch giữa trị giá hàng tồn kho trình bày trong BCĐKT với :
Giá trị hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo phương pháp nhập trước, xuất
trước (Nếu giá trị hàng tồn kho cuối kỳ theo phương pháp LiFo nhỏ hơn giá trị
hàng tồn kho cuối kỳ tính theo phương pháp bình quân gia quyền và giá trị thuần
có thể thực hiện được) hoặc:
Với giá trị hàng tồn kho cuối kỳ được tính theo phương pháp bình quân gia

quyền (Nếu giá trị hàng tồn kho cuối kỳ tính theo giá trị thuần có thể thực hiện
được nhỏ hơn giá trị hàng tồn kho tính theo phương pháp FiFo và phương pháp
bình quân gia quyền ) hoặc:
Giá trị hiện hành của hàng tồn kho cuối kỳ tại ngày lập BCĐKT nhỏ hơn giá
trị thuần có thể thực hiện được hoặc với giá trị thuần có thể thực hiện được nhỏ hơn
giá trị hàng tồn kho cuối kỳ tính theo giá trị hiện hành tại ngày lập BCĐKT.
Nói chung, doanh nghiệp có thể lựa chọn phương pháp đánh giá nào là tuỳ
từng doanh nghiệp nhưng luôn phải đảm bảo nguyên tắc giá gốc, nguyên tắc nhất
quán và nguyên tắc thận trọng, điều đó sẽ giúp cho doanh nghiệp kế toán nguyên
vật liệu được đúng đắn, kịp thời.
1.3. TỔ CHỨC KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU:

1.3.1. Kế toán chi tiết nguyên vật liệu
Nhằm đảm bảo cung cấp thông tin nhanh, định kỳ về tính hình N - X - T kho
vật tư hàng hoá trên cả hai chỉ tiêu hiện vật và thành tiền theo từng thứ, từng nhóm,

17


từng loại ở từng nơi bảo quản, sử dụng vật tư hàng hoá, hạch toán chi tiết vật tư,
hàng hoá phải đảm bảo các yêu cầu sau:
* Tổ chức hạch toán chi tiết vật tư, hàng hoá ở từng kho và bộ phận kế toán
doanh nghiệp.
* Theo dõi hàng ngày tình hình N - X - T kho vật tư, hàng hoá cả chỉ tiêu
hiện vật và chỉ tiêu giá trị.
* Đảm bảo khớp đúng về nội dung các chỉ tiêu tương ứng giữa số liệu kế
toán chi tiết với số liệu hạch toán chi tiết ở kho, giữa số liệu kế toán chi tiết với số
liệu kế toán tổng hợp vật tư, hàng hoá.
Trách nhiệm quản lý vật tư, hàng hoá trong doanh nghiệp liên quan đến
nhiều bộ phận nhưng việc quản lý trực tiếp N - X - T kho vật tư hàng hoá do thủ

kho và bộ phận kế toán phải có sự liên hệ, phối hợp trong việc sử dụng chứng từ
nhập, xuất kho để hạch toán chi tiết vật tư, hàng hoá.
Hạch toán chi tiết vật tư, hàng hoá cơ bản vẫn sử dụng các chứng từ hàng tồn
kho trong hệ thống chứng từ do BTC ban hành. Tuy vậy, để đảm bảo phản ánh các
nội dung chi tiết làm cơ sở cho ghi sổ hàng tồn kho, kế toán sử dụng các chứng từ
hướng dẫn một cách linh hoạt.
Việc hạch toán được tiến hành như sau:
1.3.1.1. Ghi chép ở kho:
Thủ kho sử dụng thẻ kho để ghi chép hàng ngày tình hình N - X - T kho của
từng danh điểm nguyên vật liệu ở từng kho theo chỉ tiêu số lượng. Thẻ kho do kế
toán lập rồi ghi vào sổ đăng ký thẻ kho trước khi giao cho thủ kho ghi chép. Thẻ
kho được bảo quản trong hòm thẻ hoặc hòm tủ nhiều ngăn theo từng loại cụ thể để
đảm bảo dễ tìm kiếm khi sử dụng. Hàng ngày khi nhận được đủ về nhập xuất
nguyên vật liệu, thủ kho tiến hành kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp của chứng từ.
Thủ kho tiến hành việc nhập, xuất, và ghi đúng số lượng thực hiện xuất lên chứng

18


từ. Cuối ngày, phân loại chứng từ để ghi vào thẻ kho, lập phiếu giao nhận chứng từ
và chuyển những chứng từ đó cho phòng kế toán.
Nếu sử dụng phương pháp ghi sổ số dư để ghi sổ thì thủ kho cũng đồng thời
sử dụng sổ số dư để cuối tháng ghi chuyển số tồn kho của từng thứ vật tư, hàng hoá
từ thẻ kho vào sổ số dư theo chỉ tiêu số lượng. Sổ số dư do kế toán mở cho từng
kho và dùng cho cả năm để ghi số tồn kho cuối tháng theo từng thứ, theo dõi cả 2
chỉ tiêu số lượng và số tiền, thủ kho ghi cột số lượng sau đó chuyển cho phòng kế
toán ghi cột số tiền.
1.3.1.2. Ở phòng kế toán:
Theo phương pháp sổ số dư, kế toán sử dụng luỹ kế nhập và luỹ kế xuất để
ghi chép hàng này hoặc định kỳ tình hình nhập xuất theo chỉ tiêu giá trị và theo

từng nhóm nguyên vật liệu, từng kho và sử dụng bảng tổng hợp N - X - T để phản
ánh tổng số nguyên vật liệu luân chuyển trong tháng và số tồn cuối tháng theo chỉ
tiêu giá trị. Khi nhận được chứng từ kế toán tiến hành kiểm tra, hoàn chỉnh chứng
từ, phân loại tổng hợp theo nhóm và ghi vào bảng kê nhập, bảng kế xuất, lập bảng
luỹ kế nhập, luỹ kế xuất, cuối tháng ghi vào bảng tổng hợp N - X - T. Mặt khác khi
nhận được sổ số dư do thủ kho gửi đến, kế toán tính ra số tiền của từng thứ vật tư
hàng hoá theo giá hạch toán.
Phần giá trị ghi trên sổ số dư với bảng tổng hợp N - X - T
* Ưu điểm: Theo phương pháp này ở kho ghi số lượng ở phòng kế toán ghi
số tiền vì thế giảm được khối lượng ghi chép. Đồng thời công việc kế toán được
dàn đều trong tháng đảm bảo việc kiểm tra, kiểm soát dễ dàng hơn.
* Nhược điểm: Do kế toán chỉ ghi chỉ tiêu giá trị cho nên không thể biết được
số hiện có và tình hình tăng giảm từng loại nguyên vật liệu mà muốn biết thì phải xem
thẻ kho. Ngoài ra, việc phát hiện sai sót nhầm lẫn sẽ là rất khó khăn.

19


Nếu theo phương pháp ghi sổ đối chiếu luân chuyển thì kế toán sẽ ghi cả hai
chỉ tiêu số lượng và số tiền vào sổ đối chiếu luân chuyển và tính số tồn kho cuối
tháng theo từng thứ nguyên vật liệu, so với phương pháp sổ số dư thì trong tháng
việc ghi chép ít nhưng lại dồn vào cuối tháng làm hạn chế khả năng kiểm tra và
việc ghi chép thì vẫn trùng lặp ở chỉ tiêu số lượng.
Nếu theo phương pháp ghi thẻ song song thì ngoài thủ kho, kế toán chi tiết
cũng ghi chép tính ra số lượng tồn kho cuối ngày.Cuối tháng kế toán và thủ kho
tiến hành kiểm tra đối chiếu. Nói chung việc ghi chép đơn giản dể hiểu, dễ kiểm tra
đối chiếu số liệu và dễ phát hiện sai sót tuy nhiên có sự ghi chép trùng lặp giữa kho
và phòng kế toán về chỉ tiêu số lượng và về việc kiểm tra đối chiếu thì dồn vào cuối
tháng nên hạn chế khả năng kiểm tra.
1.3.2. Tổ chức kế toán nguyên vật liệu trong điều kiện kế toán trên máy

vi tính
Kê toán trên máy vi tính là quá trình ứng dụng công nghệ thông tin trong hệ
thống tin kế toán nhằm biến đổi dữ liệu kiểm toán thành những thông tin kế toán
đáp ứng yêu cầu của những đối tượng sử dụng thông tin.
Kế toán trên máy vi tính sử dụng phần mềm kế toán. Đây là toàn bộ chương
trình dùng để xử lý tự động các thông tin kế toán trên máy vi tính bắt đầu từ khâu
nhập chứng từ gốc, phân loại chứng từ, xử lý thông tin chứng từ theo quy trình của
kế toán sau đó in ra các sổ sách kế toán và báo cáo kế toán . Phần mềm kế toán
chính là công cụ tự động hoá công tác xử lý thông tin kế toán trong các đơn vị. Khi
áp dụng phần mềm kế toán vào công tác kế toán thì bộ phận kế toán trong đơn vị
không còn phải thực hiện thủ công một số khâu công việc như trước: Ghi sổ kế
toán chi tiết, sổ kế toán tổng hợp, tổng hợp số liệu BCĐKT mà chỉ phải thực hiện
công việc phân loại, bổ xung thông tin chi tiết vào chứng từ gốc, nhập dữ liệu từ

20


chứng từ vào máy, kê toán kiểm tra phân tích số liệu trên các sổ, BCKT để có thể
đưa ra các quyết định phù hợp.
Thực chất việc áp dụng công nghệ tin học trong công tác kế toán là việc thiết
kế và sử dụng các chương trình theo đúng nội dung trình tự các phương pháp kế
toán. Dù vậy cũng không hoàn toàn thay thế được con người mà vẫn phải có những
nhân viên kế toán có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Để tổ chức công tác kiểm toán trên máy, từ phần mềm đã được tạo ra cần
được tiến hành tổ chức mã hóa thông tin trên máy, tổ chức chứng từ kế toán, hệ
thống tài khoản kế toán, hệ thống sổ kế toán. Xác định cụ thể các đối tượng quản
lý, xây dựng chương trình cụ thể.
Đỗi với mỗi doanh nghiệp khi áp dụng kế toán trên máy vi tính tức là sử
dụng phần mềm trong công tác kế toán, trước hết phải xác định các đối tượng quản
lý cụ thể, tiến hành khai báo, mã hoá ...cụ thể ở phần hành kế toán nguyên vật liệu.

Như chúng ta đã biết nguyên vật liệu ở mỗi doanh nghiệp thường nhiều loại, yêu
cầu quản lý khác nhau và được đặt ra một cách chi tiết cho từng loại, từng đối
tượng. Sử dụng danh mục vật tư, trên cơ sở TK 152 cho từng loại, từng đối tượng.
Sử dụng danh mục vi tính , trên cơ sở TK 152 - TK cấp 1 được mã hoá và tiếp tục
mã hoá TK cấp 2... chi tiết cho từng loại nguyên vật liệu khác nhau, có ký hiệu
khác nhau.
Việc mã hoá được khai báo và cài đặt trước khi đưa vào sử dụng. Như vậy có
thể giúp người sử dụng tìm kiếm hoặc nhập nhanh 1 loại nguyên vật liệu nào đó.
+ Chứng từ: chứng từ ở đây bao gồm phiếu nhập, phiếu xuất hoá đơn GTGT
đã được mã hoá ở danh mục chứng từ. Khi sử dụng, người sử dụng nhập chứng từ
theo hướng dẫn sẵn trên máy. Do đã được mã hoá sẵn nên sau khi nhập, chứng từ
chương trình sẽ tự động luân chuyển chứng từ, định khoản và xử lý chứng từ đó.

21


* Tài khoản: Hệ thống tài khoản do nhà nước ban hành nguyên vật liệu sử
dụng TK 152 là tài khoản cấp 1, ngoài ra có 6 TK cấp 2. Doanh nghiệp có thể tuỳ
theo điều kiện thực tế mở TK cấp 3, cấp 4. Có thể mở như sau:
- TK 152: Nguyên liệu, vật liệu
- TK 1521: Nguyên vật liệu chính
- TK 1522: Nguyên vật liệu phụ
- TK 1523: Nhiên liệu
- TK 1524: Phụ tùng thay thế
- Tk 1525: Thiết bị cần lắp
- TK 1528: Phế liệu thu hồi
* Trình tự kế toán
Theo phương pháp kê khai thường xuyên
Phương pháp KKTX ghi chép, phản ánh thường xuyên liên tục và có hệ
thống tình hình nhập - xuất - tồn các loại nguyên vật liệu trên TK và sổ kế toán

tổng hợp trên cơ sở các chứng từ N - X
Có thể khái quát qua sơ đồ sau

22


Sơ đồ 1.1. Kế toán tổng hợp vật liệu theo phương pháp
kê khai thường xuyên
TK 152 Nguyên vật liệu

TK 151

SDD: XXX
Nhập kho hàng
đang đi đường kỳ
trước

TK 133

Thuế GTGT đầu
vào

TK 151

Xuất dùng trực tiếp cho sản xuất
chế toạ sản phẩm
TK 627,

641,642,241
Xuất dùng cho quản lý phục vụ

SX, QLDN, XDCB

TK
111,112,141,311
NK vật liệu mua
ngoài

TK 133

TK 632

Xuất bán, gửi bán

TK 133
Thuế xuất khẩu
TK 411
Nhận VGLD cổ phần
Cấp phát

TK 154
XK do tự chế hoặc thuê ngoài
gia công
TK 128, 222

TK 154
NK do tự chế hoặc
thuê
ngoài gia công

TK

128,222 Nhận lại vốn góp
liên doanh

TK 338
(3381) Phát hiện thừa khi
kiểm kê, chờ xử lý

Xuất góp vốn liên doanh
TK 138,
3381
XK do tự chế hoặc thuê ngoài
gia công
TK 412
Chênh lệch giảm do đánh giá
lại

TK 412
Chênh lệch tăng do
đánh
giá lại
SDCK:
XXX

23


Trị giá nguyên vật liệu tăng do các nguyên nhân khác nhau được nhập vào
máy theo yêu cầu của người sử dụng, máy tự động ghi tăng hàng tồn kho theo giá
tương ứng cho mỗi loại. Khi xuất sử dụng hoặc cho mục đích khác, các phiếu xuất
cũng được nhập vào máy và phương pháp xác định đơn giá xuất tương ứng, máy sẽ

ghi giảm trị giá hàng tồn kho và cuối kỳ tự động kết chuyển vào các chi phí, các
TK liên quan khác để tính giá thành sản phẩm. Trị giá nguyên vật liệu tồn kho vẫn
để ở bên Nợ TK 152 và sử dụng cho kỳ sau.
Theo phương pháp kiểm kê định kỳ
Kiểm kê định kỳ là phương pháp không theo dõi phản ánh một cách thường
xuyên liên tục tình hình nhập, xuất vật tư trên các tài khoản hàng tồn kho tương
ứng giá trị vật liệu mua vào và nhập kho trong kỳ được theo dõi và phản ánh ở một
tài khoản riêng - TK 611 “Mua hàng”. Các tài khoản hàng tồn kho được dùng để
phản ánh giá trị hàng tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ với TK 611. Mặt khác, giá trị hàng
tồn kho lại không căn cứ vào số số liệu trên các tài khoản, sổ kế toán để tính mà lại
căn cứ trực tiếp vào các chứng từ xuất kho để tổng hợp phân loại theo đối tượng sử
dụng rồi ghi sổ mà lại căn cứ vào kết quả kiểm kê và giá trị vật tư hàng hoá mua
vào (nhập kho) trong kỳ tính theo công thức sau:
Trị giá xuất kho =

Trị giá tồn
đầu kỳ

+

Trị giá nhập
trong kỳ

-

Trị giá tồn cuối kỳ

Với cơ sở và cách tính trị giá xuất kho như trên thì trị giá xuất kho là con số
tổng hợp không thể hiện rõ giá trị vật liệu xuất kho cho từng đối tượng, từng nhu
cầu là bao nhiêu có thể khái quát theo sơ đồ sau: (Sơ đồ 1.2)


24


Sơ đồ 1.2: Kế toán tổng hợp nguyên vật liệu theo
phương pháp kiểm kê định kỳ
TK 611

TK 151,
152

Kêt chuyển giá trị vật
liệu tồn đầu kỳ
Mua tiền
ngay

TK 133

TK 151,
152

Kết chuyển giá trị vật liệu tồn cuối
kỳ
TK 111, 112,138

Chiết khấu mua vật liệu

Thuế GTGT đầu
vào


TK 621

Chu kỳ kết chuyển số xuất cho
SXSP

TK 331
Thuế GTGT đầu
vào
Mua chưa trả tiền
bằng

TK 133

tiền vay
TK 133 (3)

TK 632

Thuế GTGT đầu ra

Thuế xuất khẩu
TK 411
Nhận VGLD CP

TK111, 138, 334
Thiếu hụt mất mát

TK 412
Chênh lệch do đánh
giá tăng

tăng

TK 111, 138,
334
Chênh lệch giảm do đánh giá
lại

25


×