Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

luận văn phong cách hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.11 KB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ GÁI

PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

HÀ NỘI, 2016


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THỊ GÁI

PHONG CÁCH HỐ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Nguyễn Văn Phúc

HÀ NỘI, 2016



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS. Nguyễn Văn Phúc, khoa triết học, Học viện Khoa học xã hội. Kết
quả nghiên cứu luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có
nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn

Lê Thị Gái


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1. PHONG CÁCH, NHÂN TỐ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG NỘI
DUNG CƠ BẢN TRONG PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH ................................8
1.1. Khái niệm phong cách, phong cách Hồ Chí Minh ...............................................8
1.2. Những nhân tố tác động tới sự hình thành phong cách Hồ Chí Minh ...............11
1.3. Những nội dung cơ bản trong phong cách Hồ Chí Minh ...................................16
1.4. Sự cần thiêt học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện
nay .............................................................................................................................35
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG HỌC TẬP VÀ LÀM THEO PHONG CÁCH HỒ
CHÍ MINH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ...................................................38
2.1. Những thành tựu trong học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh .............38
2.2. Những hạn chế trong học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh ................52
2.3. Một số vấn đề đặt ra trong việc học tập và làm theo phong cách Hồ Chí
Minh. .........................................................................................................................59
2.4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả trong việc học tập và làm
theo Phong cách Hồ Chí Minh…………………………………………….……….60
KẾT LUẬN ..............................................................................................................68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................70



MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Hồ Chí Minh - Người đã dành trọn cuộc đời, tâm huyết của mình cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Người đã mãi đi xa, nhưng hình
ảnh về một lãnh tụ vĩ đại, đáng kính, được nhân loại biết đến và kính nể thì mãi
vĩnh hằng trong trái tim mỗi thế hệ người Việt Nam chúng ta và bạn bè quốc tế. Hồ
Chí Minh - Người là hiện thân đầy đủ nhất, cao đẹp nhất của tấm gương đạo đức
cách mạng theo ý nghĩa và nội dung sâu rộng. Người có phong cách sống, lao động,
học tập, tâm hồn giản dị, nhưng toát lên linh hồn của cả một dân tộc.
Phong cách Hồ Chí Minh là một tài sản vô giá đối với dân tộc và nhân loại.
Chính vì vậy. Sau 5 năm thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI
về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tương, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh" đã đạt được kết quả bước đầu, góp phần quan trọng vào việc thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng và Nghị quyết
Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay". Tuy
nhiên, việc học tập phong cách Hồ Chí Minh còn có những hạn chế, chưa trở thành
việc làm thường xuyên, chưa thành ý thức tự giác của không ít tổ chức đảng, cơ
quan, địa phương, đơn vị và một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, phát
huy những kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế trong việc thực hiện Chỉ
thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về "Tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", Bộ Chính trị yêu cầu các cấp ủy, tổ chức
đảng, chính quyền, tổ chức chính trị - xã hội các cấp quán triệt và thực hiện tốt.[49]
Phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những đặc trưng giá trị mang đậm dấu
ấn Hồ Chí Minh, được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người.
Phong cách của Người, không phải chỉ có những gì thuộc về dân tộc, không phải
chỉ có truyền thống mà còn có cả hiện đại, không phải chỉ có quá khứ hiện tại, mà
còn có cả tương lai. Vì vậy cần phải học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh
trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh để thực

1


hiện thắng lợi cương lĩnh chính trị và mọi đường lối chủ trương của Đảng nhằm
thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh.
Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn bộc lộ nhiều hạn
chế, bất cập trong phong cách làm việc, chưa đáp ứng được yêu cầu mới, nhất là
trong thời kỳ hội nhập và mở cửa như hiện nay. Một số cán bộ, đảng viên có biểu
hiện quan liêu, cửa quyền, chuyên quyền, độc đoán, hống hách, xa dân, khinh dân.
Một số cán bộ coi thường tính nguyên tắc trong công việc, đôi khi làm việc theo chủ
nghĩa kinh nghiệm, cảm tính, thói quen tùy tiện, chưa coi trọng tính khoa học trong
làm việc nên hiệu quả công việc chưa cao. Một số khác vi phạm nguyên tắc làm
việc tập thể, cá nhân phụ trách. Ngoài ra còn tình trạng nói không đi đôi với làm,
nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đằng làm một nẻo, đang tồn tại ở một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Tất cả những biểu hiện này dẫn đến hậu quả
nghiêm trọng là làm giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng.
Nghiên cứu về phong cách Hồ Chí Minh là nghiên cứu theo nghĩa rộng của
khái niệm phong cách, phong cách Hồ Chí Minh là một chính thể bao gồm Phong
cách tư duy và diễn đạt, phong cách lãnh đạo và làm việc, phong cách ứng xử,
phong cách sinh hoạt thường nhật. Để hưởng ứng việc “Học tập và làm theo phong
cách Hồ Chí Minh” toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đang học tập, phấn đấu rèn
luyện theo phong cách của Người.
Có thể nói, việc nghiên cứu, tìm hiểu và học tập phong cách Hồ Chí Minh có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên
hiện nay. Chính vì vậy tôi đã chọn vấn đề “Phong cách Hồ Chí Minh” làm đề tài
luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có rất nhiều sách báo, nghiên cứu về Hồ Chí Minh. Riêng về lĩnh vực
phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh đã có nhiều sách báo đề cập tới. Về cơ
bản những cuốn sách này đều đề cập tới phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh

như: Sách của Giáo sư Đặng Xuân Kỳ: Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1997. Tác giả đã trình bày khái niệm, nội dung
2


của phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, đi từ khái niệm đến hệ thống
phương pháp và phong cách của Người. Sách của Trần Đình Quảng: Phong cách
làm việc Lênnit phong cách Hồ Chí Minh với cán bộ công đoàn, Nxb lao động - Hà
Nội, năm 1997. Đổi mới phong cách làm việc trong hoạt động của các tổ chức,
Đảng đoàn thể và các cán bộ, Đảng viên, đặc biệt là đối với tổ chức công đoàn và
cán bộ làm công tác đoàn hiện nay. Sách của Hồng Khánh: Phong cách Bác Hồ đến
cơ sở. Nxb Chính trị Quốc Gia, năm 2013. Sách trình bày: Những câu chuyện Bác
Hồ đến thăm cơ sở, từ lên mặt trận ra cánh đồng, vào xưởng máy, dự lớp học vui
đón tết. Mỗi câu chuyện đều thể hiện phong cách giản dị, gần gũi nhưng rất tinh tế
của Bác, lối sống, tác phong quần chúng của Bác luôn là chuẩn mực nhân cách con
người cách mạng nhưng lại không xa lạ với mỗi con người bình thường, mà ai cũng
có thể soi mình, học tập, làm theo. Sách của PGS.TS. Phạm Ngọc Anh: Phong cách
làm việc Hồ Chí Minh giá trị lý luận và thực tiễn. Nxb Công An Nhân Dân. Năm
2015. Theo tác giả: Việc nghiên cứu, tìm hiểu và học tập phong cách làm việc Hồ
Chí Minh có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng, đặc biệt là đối với cán
bộ, đảng viên giữ vai trò lãnh đạo trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Sách
Đỗ Hoàng Linh - Vũ Kim Yến: Phong cách Hồ Chí Minh. Nxb Chính Trị quốc gia,
Hà Nội, năm 2014. Giới thiệu những nội dung cơ bản về hệ thống phong cách Hồ
Chí Minh bao gồm: Phong cách tư duy, phong cách làm việc, phong cách diễn đạt,
phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt. Qua những câu chuyện minh họa rất giản
dị, đời thường nhưng lại vô cùng xúc động, giàu ý nghĩa, người đọc sẽ hiểu được
phong cách Hồ Chí Minh. Sách của GS.TS Hoàng Chí Bảo: Tìm hiểu phương pháp
Hồ Chí Minh, Nxb Lý luận chính trị Hà Nội năm 2005, sách của TS Phạm Văn
Bính: Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm
2007. Các tác giả đã xác định và làm rõ tính khoa học, tính dân chủ trong phương

pháp Hồ Chí Minh, qua đó chúng ta nghiên cứu cần tìm hiểu học tập và làm theo
phương pháp Hồ Chí Minh.
Trong thời gian quan có một số tác giả và các nhà khoa học đã đề cập đến
vấn đề phong cách Hồ Chí Minh. Các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp
3


là những người đã viết khá nhiều về Hồ Chí Minh, trong đó vấn đề phương pháp và
phong cách Hồ Chí Minh đã được đặt ra xem xét một cách thỏa đáng. Trong tác
phẩm Hồ Chí Minh- một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp, đồng
chí Phạm Văn Đồng đã có riêng một phần nói về Phong cách Hồ Chí Minh, người
lãnh đạo người tổ chức.
Một số tạp chí lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
cùng các văn kiện của Đảng. Đây là những bài viết cung cấp thông tin về chủ
trương học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh của Đảng và nhà nước: Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng (2-1951) khẳng định: “Đường lối chính
trị, nề nếp làm việc và đạo đức cách mạng của Đảng ta hiện nay là đường lối, tác
phong và đạo đức của Hồ Chí Minh… Toàn Đảng hãy ra sức học tập đường lối
chính trị, tác phong và đạo đức cách mạng của Hồ Chủ Tịch, sự học ấy là điều kiện
tiên quyết làm cho Đảng mạnh và làm cho cách mạng đi mau đến thắng lợi hoàn
toàn” [12,tr.15].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (3-1982) đã xác định một
cách đầy đủ: “Đảng phải đặc biệt coi trọng việc tổ chức học tập một cách có hệ
thống tư tưởng, đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong toàn Đảng”
[13,tr.61]. Vấn đề tư tưởng Hồ Chí Minh đã chính thức được đặt trong văn kiện Đại
hội, đòi hỏi toàn Đảng phải ra sức học tập một cách có hệ thống tư tưởng, đạo đức
và tác phong lãnh tụ của Đảng, của giai cấp công nhân và của cả dân tộc. Từ Đại
hội VI của Đảng trở đi, khái niệm phong cách đã được sử dụng ngày càng phổ biến,
gần như thay thế cho khái niệm tác phong. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương trình bày trước Đại hội VI nêu rõ: Để tăng cường sức chiến đấu và

năng lực tổ chức thực tiễn của mình, Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư
duy, trước hết là tư duy kinh tế, đổi mới đội ngũ cán bộ, đối mới phong cách lãnh
đạo và công tác” Báo cáo cũng nhấn mạnh: phải đổi mới, sửa đổi phong cách làm
việc[14,tr.124].
Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và Nghị quyết Trung
4


ương 4 khóa XI " Về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay", việc học
tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, nhất là
phong cách quần chúng, dân chủ, nêu gương, có ý nghĩa rất to lớn, góp phần làm
cho việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ có hiệu quả thiết thực
hơn. Đây là những chỉ dẫn quan trọng để chúng tôi nghiên cứu và tổng hợp, đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao học tập và làm theo phong cách của Hồ Chí Minh
cho cán bộ hiện nay.
Ngoài ra, khi nghiên cứu đề tài chúng tôi có tham khảo một số bài viết trên
các trang mạng Internet, tạp chí về phong cách Hồ Chí Minh. Đây là những tư liệu
tham khảo giúp chúng tôi có cách nhìn đa diện hơn trong nghiên cứu đề tài.
Như vậy nhìn tổng quan có thể nói phong cách Hồ Chí Minh được đề cập từ
lâu được thể hiện trong các bài viết, bài nói của các nhà nghiên cứu. Học tập và làm
theo Phong cách Hồ Chí Minh luôn được Đảng và nhà nước ta coi trọng. Nhưng
đến nay, chưa có một đề tài nào đề cập đến phong cách Hồ Chí Minh từ thực trạng
cho đến giải pháp học tập, làm theo phong cách Hồ Chí Minh hiện nay.
Trong luận văn này chúng tôi sẽ cố gắng đưa ra những cơ sở lý luận bàn về
việc học tập và làm theo phong cách Hồ chí Minh cho cán bộ ở nước ta hiện nay,
đồng thời từ việc nghiên cứu phong cách của Người chúng tôi sẽ nêu ra một số giải
pháp căn bản nhằm nâng cao ý thức học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh
cho cán bộ trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, xây dựng Đảng trong sạch, vững
mạnh để thực hiện thắng lợi Cương lĩnh chính trị và mọi đường lối chủ trương của

Đảng góp phần thực hiện mục tiêu: dân giàu. nước mạnh, dân chủ công bằng, văn
minh” mà Đảng và nhà nước ta đã đề ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những nội dung cơ bản trong phong cách Hồ Chí Minh,
luận văn phân tích thực trạng học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh của các
tổ chức Đảng, Đoàn thể và các cán bộ đảng viên hiện nay; từ đó xác định những vấn

5


đề đặt ra và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc học tập và
làm theo phong cách Hồ Chí Minh.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt tới mục đích nghiên cứu trên, đề tài có nhiệm vụ:
-

Trình bày những nhân tố hình thành phong cách Hồ Chí Minh

-

Làm rõ một số nội dung cơ bản về phong cách, phong cách Hồ Chí Minh.

-

Làm rõ thực trạng học tập, làm theo phong cách Hồ Chí Minh của các tổ
chức Đảng, Đoàn thể và các cán bộ đảng viên hiện nay; xác định những
vấn đề đặt ra.

-


Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả học tập và làm
theo phong cách Hồ Chí Minh cho các tổ chức Đảng, Đoàn thể và các cán
bộ đảng viên hiện nay.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phong cách Hồ Chí Minh bao gồm: Phong cách tư duy và diễn đạt, phong
cách lãnh đạo và làm việc, phong cách ứng xử, phong cách sinh hoạt thường nhật.
phong cách Hồ Chí Minh và việc học tập, làm theo phong cách Hồ Chí Minh từ khi
đổi mới
Phạm vi nghiên cứu
Phân tích phong cách Hồ Chí Minh và việc học tập, làm theo phong cách Hồ
Chí Minh từ khi đổi mới.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về học tập và làm theo phong cách Hồ Chí
Minh.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa hội xã hội như
phân tích, tổng hợp, diễn dịch, quy nạp, hệ thống, cấu trúc
6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm rõ thêm một số nội dung lý luận về phong cách Hồ
Chí Minh.
Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần thiết thực vào việc học tập, tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục, học tập phong cách Hồ Chí trong giai đoạn hiện nay
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, cơ cấu
luận văn gồm hai chương, 8 tiết:
Chương 1: Phong cách, nhân tố hình thành và những nội dung cơ bản trong
phong cách Hồ Chí Minh
Chương 2: Thực trạng, học tập và làm theo phong cách Hồ Chí Minh trong
giai đoạn hiện nay.

7


Chƣơng 1
PHONG CÁCH, NHÂN TỐ HÌNH THÀNH VÀ NHỮNG NỘI DUNG CƠ
BẢN TRONG PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
1.1. Khái niệm phong cách, phong cách Hồ Chí Minh
1.1.1. Khái niệm phong cách
Khái niệm phong cách đã được bàn đến từ lâu. Theo nghĩa Hán Việt thì
phong có nghĩa là phong thái, cách có nghĩa là cách điệu và theo các nhà ngôn ngữ
học phong cách được định nghĩa là: Những lề lối, những cung cách sinh hoạt, làm
việc, hoạt động, xử sự tạo nên vẻ riêng của một người hay một loại người nào đó. Ở
phương Tây, phong cách thường được dùng theo nghĩa hẹp, chỉ giới hạn tronng văn
học nghệ thuật. Với cách hiểu này, có thể nhìn phong cách theo bốn phương diện
liên quan chặt chẽ với nhau như sau: Phong cách là dấu hiệu độc đáo, không lặp lại,
phong cách là phẩm chất xuyên suốt qua các yếu tố của các tác phẩm, qua các tác
phẩm của một tác giả hoặc các tác giả của một trào lưu nghệ thuật, phong cách là
phẩm chất tương đối ổn định của sáng tác, để phân biệt phong cách này với phong
cách khác, phong cách là gương mặt tinh thần: phong cách là bản thân con người
(Buffon). Dĩ nhiên, con người ở đây không phải là con người trừu tượng, chung

chung mà là người với những phẩm chất trí tuệ, tình cảm, cá tính cụ thể [25,tr.129].
Nói phong cách chính là con người, con người ở đây hiểu theo cách nói của
C.Mác: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan
hệ xã hội”, do đó, phong cách của một người phải được xem xét trên tất cả các lĩnh
vực hoạt động xã hội rất đa dạng mà người đó tham giam. Hồ Chí Minh vẫn thường
nói: muốn đánh giá đúng một con người không chỉ căn cứ vào người đó làm như thế
nào. Không chỉ trong quan hệ với một người, một việc, mà với nhiều người, nhiều
việc khác nhau, cả trong quá khứ và hiện tại. Đó là lẽ phải thông thường không ai
có thể bác bỏ được.
Như vậy phong cách còn được hiểu theo nghĩa rộngtức là lề lối, cung cách,
cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nề nếp ổn định của một
8


người hoặc một lớp người, được thể hiện trong tất cả các mặt hoạt động như lao
động, học tập, sinh hoạt, ứng xử, diễn đạt (nói, viết…) tạo nên những giá trị, những
nét triêng biệt của chủ thế đó[25, tr.130] Với cách hiểu này, chúng ta có thể nói đến
phong cách của bất cứ một người nào, từ một người bình thường đến một lãnh tụ,
một vĩ nhân, cũng như phong cách quân nhân, phong cách lãnh đạo của Đảng.
Phong cách gắn bó mật thiết với tư tưởng, đường lối, phương pháp cách
mạng. Nếu tư tưởng, đường lối có tính quyết định nhất, thì phương pháp là những
cách thức có tính nguyên tắc để đưa đường lối vào cuộc sống. Nhưng phương pháp
chỉ được thực hiện thông qua hoạt động cụ thể của những con người cụ thể với
những phong cách, trình độ khác nhau.
Phong cách liên quan chặt chẽ với đạo đức, đạo đức được thể hiện qua phong
cách; qua phong cách có thể đánh giá được đạo đức, đánh giá được nhân cách của
một con người. Do đó, muốn xây dựng cho mình một phong cách mới, phong cách
mang tính cách mạng và khoa học, thì công việc của mỗi người là phải phấn đấu bề
bỉ, liên tục suốt đời.
1.1.2. Khái niệm phong cách Hồ Chí Minh

Như vậy, phong cách Hồ Chí Minh bao gồm một hệ thống lề lối, cung cách,
cách thức, phong thái, phong độ và phẩm cách đã trở thành nền nếp trong tất cả
các hoạt động, công tác, học tập, sinh hoạt, ứng xử…của Người. Đó là phong cách
rất mẫu mực của người cách mạng, người lãnh đạo, người đảng viên.
Phong cách Hồ Chí Minh là là một chỉnh thể tạo thành một hệ thống: phong
cách tư duy; phong cách làm việc; phong cách diễn đạt; phong cách ứng xử; phong
cách sinh hoạt.
Nét đặc sắc nhất trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh là tinh thần độc lập,
tự chủ và sáng tạo. Độc lập là không lệ thuộc, bắt chước, không theo đuôi. Tự chủ
là sẵn sàng từ bỏ những cái cũ đã qua thực tiễn kiểm nghiệm là sai, những cái cũ lạc
hậu, lỗi thời, những cái cũ đã đúng trước kia nhưng nay không còn phù hợp, để tiến
tới đề xuất những cái mới có thể trả lời được những câu hỏi mà cuộc sống đặt ra.
Cái sáng tạo ở Hồ Chí Minh là cái mới phù hợp với quy luật khách quan của cách
9


mạng Việt Nam, cũng như phù hợp với quy luật phát triển chung của xã hội. Tư duy
đó luôn hướng tầm nhìn ra thế giới, không ngừng nâng cao trình độ văn hóa, làm
giàu trí tuệ của mình bằng những kiến thức rất phong phú sâu rộng, đây chính là
điều kiện không thể thiếu để có tư duy độc lập, sáng tạo.
Phong cách làm việc của Hồ Chí Minh bao gồm nhiều nội dung rất phong
phú, mà chủ yếu là: tác phong quần chúng; tác phong tập thể - dân chủ; tác phong
khoa học. Tác phong quần chúng được thể hiện ở sự đi sâu đi sát quần chúng, tôn
trọng con người, chú ý lắng nghe ý kiến và giải quyết những kiến nghị chính đáng
của quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và sửa chữa khuyết
điểm của mình. Tác phong tập thể - dân chủ của Hồ Chí Minh được thể hiện ở chỗ,
Người luôn tạo ra không khí sôi nổi, hoạt bát, phấn khởi, hăng hái và đầy sáng tạo.
Người thường vạch ra những tệ hại làm việc không tập thể, không dân chủ trong đội
ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho "nội bộ Đảng âm u", "uất ức mà hóa ra oán ghét,
chán nản", cấp trên, cấp dưới cách biệt nhau, quần chúng xã rời cán bộ, đảng viên…

Tác phong khoa học của Hồ Chí Minh tập trung ở những điểm chủ yếu như: làm
việc đi sâu, đi sát cơ sở, điều tra, nghiên cứu, nắm việc nắm người, nắm tình hình cụ
thể. Biết sàng lọc những thông tin sai lệch, những báo cáo dối trá, những phương án
thiếu trung thực. Biết sử dụng bộ máy những người cộng sự, những cơ quan giúp
việc; thường xuyên đặt ra chương trình, kế hoạch sát hợp, thiết thực; thường xuyên
kiểm tra việc thực hiện của cấp dưới và quần chúng.
Phong cách diễn đạt là phong cách nói và viết của Hồ Chí Minh trong
sáng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm, có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với người nghe, người
đọc. Người thường đặt ra bốn vấn đề khi nói và viết là: Nói, viết cái gì; nói viết cho
ai; nói viết để làm gì; nói viết như thế nào. Đây là những vấn đề có tính nguyên tắc,
định hướng cho việc nói và viết của mỗi người. Đặc trưng cơ bản trong cách nói và
viết của Hồ Chí Minh là: chân thực,ngắn gọn, rõ ràng, trong sáng, giản dị, dễ hiểu,
đi thẳng vào vấn đề không màu mè, quanh co. Người luôn căn dặn, phải chống
bệnh hay nói chữ, sính dũng chữ nước ngoài, thậm chí không hiểu cũng dùng.

10


Phong cách ứng xừ Hồ Chí Minh thực sự là phong cách ứng xử văn hóa, mà
đặc trưng cơ bản là: Đối với nhân dân, bè bạn, đồng chí, anh em thì tự nhiên, bình
dị, cởi mở, chân tình, vừa chủ động linh hoạt lại vừa ân cần, tế nhị, bình dị, làm cho
bất cứ ai tiếp xúc với Người đều thấy không khí chan hòa, ấm cúng, thoải mái,
không thấy sự cách biệt giữa lãnh tụ và quần chúng, giữa vĩ nhân và người bình
dân. Hồ Chí Minh luôn thể hiện thái độ yêu thương, quý mến, trân trọng con người,
khoan dung, độ lượng, qua đó tạo nên sức cảm hóa mãnh liệt.
Phong cách sinh hoạt Hồ Chí Minh là sự giản dị, thanh đạm, thanh cao trong
sinh hoạt hàng ngày. Đó là lối sống có chừng mực, điều độ, ngăn nắp, yêu lao động,
quý thời gian; không có ham muốn danh lợi riêng cho mình; đó là tình thương yêu
con người hòa quyện với tình yêu thiên nhiên tạo nên tinh thần lạc quan của người
chiến sĩ cách mạng kết hợp nhuần nhuyễn với những rung động tinh té của người

nghệ sĩ.
1.2. Những nhân tố tác động tới sự hình thành phong cách Hồ Chí Minh
1.2.1. Những giá trị văn hóa truyền thống và tinh hoa văn hóa nhân loại
1.2.1.1. Những giá trị văn hóa truyền thống
Có nhiều nhân tố góp phần hình thành phong cách Hồ Chí Minh. Trước hết
phải kể đến các đặc điểm thuộc về gia đình, quê hương, đất nước. Truyền thống quê
hương, môi trường giáo dục tốt đẹp của hai bên gia đình cha mẹ đã định hình cho
Người một phong cách riêng, của một con người xứ nghệ mà dù sau này có tiếp xúc
và chịu ảnh hưởng của các truyền thống văn hóa khác vẫn không lẫn đi đâu được
cái nét phong cách, cái giọng nói trầm ấm của người dân xứ nghệ.
Sinh ra trong một nhà Nho yêu nước, ngay từ bé Hồ Chí Minh đã sớm tiếp
thu một nền giáo dục Nho học, điều đó định hình cho Người một tác phong làm việc
và sinh hoạt nề nếp thể hiện trong cả suy nghĩ và hành động.
Bên cạnh đó yếu tố lịch sử - văn hóa cũng góp phần vào việc hình thành
phong cách Hồ Chí Minh. Lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm biết
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tư tưởng “lấy dân làm gốc”, khi cần
thiết tổ chức các hội nghị dân chủ để lấy ý kiến nhân dân( triều đại nhà Trần với
11


Hội nghị Diên Hồng)… Các truyền thống văn hóa dân tộc đó đã có ảnh hưởng lớn
đến Nguyễn Tất Thành sau này.
Nguyễn Tất Thành khi lên mười lăm đã “sớm hiểu biết và rất đau xót trước
cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ, anh đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải
phóng đồng bào. Người đã tham gia công tác bí mật, nhận công việc liên lạc. Người
khâm phục các cụ Phan Đình Phùng, Hoàng Hoa Thám, Phan Châu Trinh, Phan Bội
Châu, nhưng không hoàn toàn tán thành cách làm của một người nào”[44,tr.12].
Người đã lựa chọn con đường đi riêng của mình. Người không đi theo Phan Bội
sang Nhật, không dựa vào nước Pháp như nhiều bậc sĩ phu đương thời. Người muốn
đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác, sau khi xem họ làm thế nào rồi

về giúp đồng bào. Hồ Chí Minh không ngại khó khăn, hiểm nguy, tập trung mọi
tâm huyết, trí lực, thể lực để đấu tranh cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc và dân
tộc. “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi
muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”[20,tr.48]. Cách nghĩ, cách làm của Người
mang đậm dấu ấn riêng, phong cách riêng của một con người mà sau này sẽ là lãnh
tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, của một danh nhân văn hóa kiệt xuất.
Phong cách Hồ Chí Minh không phải chỉ để cho mọi người ca ngợi, chiêm
ngưỡng, sùng bái mà là tấm gương để mọi người noi theo, học tập. Không phải chỉ
người Việt Nam, từ lao động chân tay đến người lao động trí óc, từ già đến trẻ, từ
miền xuôi đến miền ngược, từ người tu hành đến các chính khách, thương gia đều
tìm hấy ở Hồ Chí Minh phong cách của chính mình, mà cả người nước ngoài ở
phương Đông hay phương Tây cũng cảm thấy gần gũi, không xa lạ với phong cách
Hồ Chí Minh.
1.2.1.2.Những giá trị kết tinh văn hóa Phương Đông và Phương Tây
Phong cách Hồ Chí Minh không chỉ kết tinh từ những giá trị của dân tộc mà
còn bắt nguồn từ tinh hoa văn hoá nhân loại cả phương Đông và phương Tây được
người kế thừa và phát triển.
Trong văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kế thừa và
phát triển những nhân tố tích cực của Nho giáo. Nền học vấn đầu tiên mà Hồ Chí
12


Minh tiếp nhận là Nho học. Đến tuổi thanh niên và cả thời kỳ hoạt động cách mạng,
Hồ Chí Minh luôn quan tâm nghiên cứu văn hoá phương Đông. Trong các tác phẩm
bài viết, bài nói của mình, Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc đến khái niệm phạm trù,
mệnh đề của Nho giáo. Song trong khi vận dụng những yếu tố tích cực của Nho
giáo, người cũng đồng thời phê phán, loại bỏ những yếu tố tiêu cực của học thuyết
đó. Nếu như chữ “trung”, “hiếu” trong Nho giáo là trung với vua, hiếu với cha mẹ,
thì được Hồ Chí Minh nâng lên một tầm cao mới là trung với nước, hiếu với dân.
Trung với nước, hiếu với dân là trung thành vô hạn với sự nghiệp dựng nước và giữ

nước.
Người đã đặt chân đến nhiều nước trên thế giới, hiểu được nhiều ngôn ngữ,
phong tục tập quán của nhiều nền văn hóa thế giới, cả văn hóa phương Đông và văn
hóa phương Tây. Sự ảnh hưởng của bản Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ và Tuyên
ngôn dân quyền và nhân quyền của Pháp. Người đã đến với các dòng tư tưởng khai
sáng Tự Do - Bình đẳng - Bác ái, đến với những tư tưởng tôn trọng nhân dân, tư
tưởng quần chúng là người sáng tạo nên lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Phong cách Hồ chí Minh dù mang tính cách của người phương Đông,
phương Tây,mang tính nhân loại nhưng lại rất Việt Nam. Phong cách ấy có những
điểm gần với Lênin, Găngđi, Oasinhtơn – một Lênin phương Đông. Một Giăngđi
mácxít, một Oasinhtơn Oasinhtơn Việt Nam, nhưng lại rất Hồ Chí Minh. Hồ Chí
Minh là một trong những nhân vật kỳ lạ của thời đại ngày nay- hơi giống Giăngđi,
hơi giống Lênin, hoàn toàn Việt Nam. Cụ Hồ là Oasinhtơn của Việt Nam[45].
Phong cách Hồ Chí Minh làm cho không ít những nhà hoạt động chính trị, nhà văn
hóa, nhà khoa học đồng tình, cảm phục. Đây cũng chính là nét rất đặc sắc của
phong cách Hồ Chí Minh.
Đối với phong cách Hồ Chí Minh, ngay những người nước ngoài, dù ở
phương Đông hay phương Tây cũng đều không thấy xa lạ. Điều này đã được Ôxíp
Mandenxtam phát hiện từ năm 1923: qua Nguyễn Ái Quốc, mọi người có thể hiểu
dân tộc Việt Nam là “một dân tộc rất lịch thiệp và độ lượng, rất ghét những gì thái
qúa, Dáng dấp của con gười đang ngồi trước mặt tôi đây. Nguyễn Ái Quốc, cũng
13


đang tỏa ra một cái gì thật lịch thiệp và tế nhị”. “Qua phong thái thanh cao, giọng
nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như nghe thấy
sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới”. “Từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa
ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa
tương lai”[30,Tr.478].
Với phong cách của mình Người đã thuyết phục, chinh phục mọi người khi

còn sống, phong cách Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục còn ảnh hưởng khi Người đã đi xa.
Ở Người phong thái vĩ đại nhưng nó không tách khỏi cái bình thường có sức tỏa
sáng, hấp dẫn, lôi cuốn để vươn tới cái đẹp. Bằng cuộc đời và sự nghiệp của mình,
bằng tư tưởng và phong cách của mình, Người đã đặt ra một vấn đề lớn cho nhân
loại trong việc đánh giá con người, đặc biệt là đối với những nhà tư tưởng, nhà
chính trị, những lãnh tụ, những vĩ nhân.
Phong cách cách của Người tiêu biểu cho phong cách của những người cách
mạng, những con người chân chính, luôn mang trong mình những tư tưởng đường
lối cách mạng đúng đắn, những phương pháp cách mạng thích hợp nhằm giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người. Phong cách Hồ Chí Minh không
phải ở tầm cao không vươn tới được, mà rất gần gũi, thân thiện với chúng ta.
1.2.3. Thực tiễn hoạt động cách mạng và những tố chất nhân cách của Hồ Chí
Minh
Những năm tháng hoạt động trong nước và buôn ba khắp thế giới để học tập,
nghiên cứu, Hồ chí Minh đã không ngừng quan sát, nhận xét thực tiễn. Làm phong
phú thêm sự hiểu biết của mình, đồng thời hình thành phong cách riêng của mình.
Bác Hồ của chúng ta, trong cuộc đời hoạt động cách mạng đi Âu về Á, đã
từng giáp mặt với bao gian khổ, khó khăn (hai lần ngồi tù: năm 1931-1933 và năm
1942-43) đã từng lãnh án tử hình vắng mặt. Nhưng Người luôn tin vào lý tưởng, tin
vào nhân dân, tin ở chính mình, nên lúc nào Người cũng ung dung, tự tại, luôn thể
hiện nhân cách cao đẹp của người cộng sản.
Mục tiêu đấu tranh giải phóng dân tộc, sự tác động mạnh mẽ của thời đại và
sự nhận thức đúng đắn về thời đại đã tạo điều kiện để Hồ Chí Minh hoạt động có
14


hiệu quả cho dân tộc và nhân loại. Có được điều đó là nhờ vào phong cách, phẩm
chất và tài năng trí tuệ siêu việt của Hồ Chí Minh. Phẩm chất, tài năng đó được biểu
hiện ở phong cách tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh
tường, phong cách làm việc khoa học, sáng suốt trong việc nhận xét, đánh giá các

sự vật, sự việc xung quanh. Phẩm chất, tài năng đó cũng được biểu hiện ở bản lĩnh
kiên định, luôn tin vào nhân dân, khiêm tốn, bình dị, nhạy bén với cái mới, có
phương pháp biện chứng, đầu óc thực tiễn. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã xây dựng
một hệ thống phong cách toàn diện, sâu sắc và sáng tạo để lãnh đạo cách mạng Việt
Nam đi đến thắng lợi.
Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh còn biểu hiện ở sự khổ công học tập để
chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại, là tâm hồn của một nhà yêu nước chân chính,
một chiến sĩ nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu nước, thương dân, sẵn sàng
chịu đựng hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của đồng bào.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới giáo
dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Người quan
niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách mạng, coi đó là cái gốc
của cây, ngọn nguồn của sông nước. Quan niệm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh
không có nghĩa là tuyệt đối hoá mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Người cho rằng có tài mà
không có đức là người vô dụng nhưng có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó. Cho nên, đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp với nhau để hoàn thành
nhiệm vụ cách mạng.
Người luôn dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ.
Những người lao động bị áp bức bóc lột, Người viết: "Tôi chỉ có một sự ham muốn,
ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Hồ Chí
Minh yêu thương đồng bào, đồng chí của Người, không phân biệt họ ở miền xuôi
hay miền ngược, là trẻ hay già, trai hay gái... không phân biệt một ai, không trừ một
ai, hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của
Người. Tình yêu thương của Người còn thể hiện đối với những người có sai lầm
15


khuyết điểm. Với tấm lòng bao dung của một người cha, Người căn dặn, chúng ta:
"Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng ta, phải biết làm cho phần tốt ở

trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái
độ của người cách mạng”. Đối với những người có thói hư tật xấu, từ hạng người
phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái
phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi
bời”. Trong Di chúc, Người căn dặn Đảng: Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn
nhau, nhắc nhở mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến phẩm chất yêu thương
con người. Đặc biệt phẩm chấtcần kiệm liêm chính, chí công vô tư được thể hiện rất
rõ trong phẩm chất của Người.
Cùng với những nhân tố bên ngoài, chính thực tiễn hoạt động cách mạng và
những phẩm chất nhân cách, đạo đức Hồ Chí Minh là nhân tố góp phần làm nên
phong cách của Người.
1.3. Những nội dung cơ bản trong phong cách Hồ Chí Minh
1.3.1. Phong cách tư duy và diễn đạt
1.3.1.1. Phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo.
Phong cách Hồ Chí Minh có nội dung rất phong phú được thể hiện trong tất
cả các lĩnh vực sinh hoạt và hoạt động của Người, trong đó có phong cách tư duy và
diễn đạt của Người được thể hiện sinh động và sâu sắc. Tư duy và diễn đạt là hai
kỹ năng quan trọng của con người, muốn làm chủ quá trình tư duy và nâng cao hiệu
quả giao tiếp, mỗi người chúng ta đều phải trau dồi khả năng tư duy và diễn đạt.
Nét đặc sắc nhất của phong cách tư duy Hồ Chí Minh là tư duy độc lập, tự
chủ và sáng tạo. Nghĩa là, độc lập là không lệ thuộc, không phụ thuộc, không bắt
chước, theo đuôi, giáo điều, tự chủ là chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ của
mình, tự chịu trách nhiệm trước dân, trước nước, biết làm chủ bản thân công việc.
Sáng tạo là vận dụng đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù, là
tìm tòi, đề xuất những cái mới… Nhờ phong các tư duy đó Hồ Chí Minh đã phát
hiện ra quy luật của cách mạng Việt Nam, sáng tạo ra con đường và phương pháp
tiến hành cách mạng phù hợp với thực tiễn của đất.
16



Tư duy độc lập, tự chủ ở Hồ Chí Minh có từ rất sớm. Nó phát triển và trở
thành sáng tạo khi Hồ Chí Minh tiếp nhận phương pháp tư duy khoa học của chủ
nghĩa Mác - Lênin với hạt nhân cơ bản là phép biện chứng duy vật. Bằng phương
pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã tìm ra những
cách đánh địch chưa có trong từ điển, cũng như kinh nghiệm quân sự thế giới, đã
tạo ra các phương thức đấu tranh có thể coi là kinh điển của phong trào giải phóng
dân tộc, đã làm nên những thắng lợi có ý nghĩa thời đại, làm sụp đổ chủ nghĩa thực
dân cũ và mở đầu thất bại của chủ nghĩa thực dân mới trên phạm vi thế giới. Cũng
chính bằng phương pháp tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Người đã đạt đến độ
chín để có thể đối chiếu, so sánh, lựa chọn, chắt lọc và tổng hợp những cứ liệu mà
thực tiễn Việt Nam và thế giới đã cung cấp, những kinh nghiệm mà cuộc sống đã
đem lại, những tư tưởng của những người đi trước đã gợi mở, để từ đó đi đến những
kết luận mới, những tư tưởng mới.
Để có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo. Người luôn luôn biết xuất phát từ
thực tiễn dân tộc và thời đại, lấy nhu cầu và đặc điểm của thực tiễn dân tộc, cùng xu
thế phát triển của thời đại, làm định hướng cho tư duy và hành động, nghĩa là phải
hết sức tránh chủ quan, giáo điều, tránh những giải pháp có sẵn, không phù hợp với
điều kiện với hoàn cảnh thực tế của đất nước.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường giải phóng
dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Hồ chí Minh dến với chủ nghĩa Mác Lênin từ nhu cầu là giải phóng dân tộc ở thuộc địa, nên đã biết lựa chọn, biết tiếp
thu những cái cần thiết cho giai đoạn trước mắt của cách mạng Việt Nam, phù hợp
với điều kiện lịch sử, đất nước và con người Việt Nam, từ đó đề ra được đường lối
đúng đắn, do đó đã hạn chế được những sai lầm nóng vội, tả khuynh từng bước đưa
cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Người thấm nhuần sâu sắc di huấn của các
bậc thầy của cách mạng vô sản, “không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã
xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm”, mà phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận
của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những

17



nguyên lý ấy, thì xét tiêng từng nơi cho phù hợp với tình hình thực tiễn để đem lại
thắng lợi.
Nhờ độc lập tự chủ và sáng tạo mà tư tưởng Hồ Chí Minh được mở rộng,
không ngừng làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn văn hóa - tư tưởng của nhân loại.
Tư duy độc lập tự chủ không có nghĩa là đóng cửa, khép kín, chủ quan. Độc
lập, tự chủ trong tư duy phải được đặt trên nền tảng cách mạng, khoa học, hiện đại
và nhân văn. Muốn thế phải hướng tầm nhìn ra thế giới, thâu hái, chắt lọc lấy những
gì là dân chủ, tiến bộ, phù hợp với dân tộc, đât nước mình. Hồ Chí Minh đến với
chủ nghĩa Mác- Lênin cũng trên tinh thần ấy, chính nhờ đứng vững trên lập trường,
quan điểm và phương pháp của học thuyết cách mạng và khoa học này, Người đã có
thể tiếp tục tìm hiểu, tiếp thu những yếu tố dân chủ, tiến bộ, nhân văn khác… theo
tư tưởng chỉ đạo của Lênin:“chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái
được những hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”.[3,tr.52]
Người đã tiếp thu những yếu tố tiến bộ trong tư tưởng dân chủ cách mạng
của Châu Âu, như tinh thần Tự do, Bình đẳng, Bác ái của cách mạng Pháp. Các tư
tưởng nhân quyền, dân quyền, pháp quyền của các nhà triết học khai sáng thế kỷ 18,
sử dụng nó để lên án tội ác của bọn thực dân xâm lược đã phản bội lại những giá trị
quá khứ của cha ông họ để lại.
Người đã khai thác có chọn lọc những yếu tố tích cực của Nho giáo, đem lại
cho nó ý nghĩa mới. đặc biệt trong vấn đề đạo đức, sản xuất, phân phối… đồng thời
triệt để phê phán những quan điểm sai lầm, phản tiến hóa của nho giáo- Nguyên
nhân dẫn đến tình trạng lạc hậu, trì trệ. Không đủ sức đương đầu với sức mạnh khoa
học - kỹ thuật của phương Tây.
Người đề cao tư tưởng từ bi, bác ái, cứu khổ cứu nạn, chăm lo làm điều
thiện, tư tưởng dân chủ bình đẳng của phật giáo, tinh thần nhập thế của Thiền phái
Trúc lâm Việt Nam, kêu gọi phật tử hăng hái tham gia cứu nước, “Giệt giặc đói,
giệt giặc dốt, giệt giặc ngoại xâm”. Người cũng tìm thấy trong đạo thiên Chúa giáo
tinh thần nhân ái cao cả.


18


Sau khi trở thành người cộng sản. Hồ Chí Minh vẫn hiểu thêm về chủ nghĩa
Tam Dân của Tôn Trung Sơn và tiếp thu từ đó những yếu tố phù hợp với mục tiêu
trước mắt của cách mạng dân tộc - dân chủ ở Việt Nam.
Tư duy độc lập tự chủ và sáng tạo đã tạo điều kiện cho Hồ Chí Minh phát
triển, hướng tới cái mới, cái tiến bộ, mở rộng tầm nhìn ra thế giới để tư duy.
Cái mới, cái tiến bộ là tài sản chung của nhân loại không thuộc sở hữu của
riêng ai. Để nắm bắt được nó đòi hỏi mỗi người cần có vốn tri thức nhất định, nhất
là để sử dụng, ứng dụng cái mới, cái tiến bộ vào cuộc sống thì vốn kiến thức càng
phải phong phú, đa dạng và sâu rộng. Khi không đủ trình độ tiếp cận với cái mới,
cái tiến bộ mà lại muốn sử dụng, ứng dụng nó sẽ dẫn đến làm hỏng cái mới và phá
hoại cái hiện có. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Sự ngu dốt này sẽ dẫn đến sự ngu dốt khác,
hơn nữa dốt nát cũng là một thứ giặc, cũng là một kẻ địch cần phải tiêu diệt. Để
chiến thắng sự dốt nát chỉ có con đường duy nhất là không ngừng học tập nâng cao
trình độ mọi mặt của con người. Hồ Chí Minh nhiều lần căn dặn mọi người hãy nhớ
lời Lênin: học, học nữa, học mãi. Đối với Hồ Chí Minh, học trong các trường chỉ là
khởi đầu, cái ảnh hưởng lớn đến phong cách tư duy của Người là học trong trường
đời. Hồ Chí Minh vừa hoạt động thực tiễn vừa tự học, vừa tổng kết kinh nghiệm để
từng bước đi đến đỉnh cao của trí tuệ, của văn minh. Từ một người yêu nước, một
người cộng sản, Hồ Chí Minh đã trở thành nhà văn hoá kiệt xuất của nhân loại
thông qua con đường tự học là chủ yếu. Việc biết nhiều ngoại ngữ, trong đó có
những tiếng thông thạo gần như tiếng mẹ đẻ đã giúp Hồ Chí Minh mở rộng tầm
nhìn ra thế giới và nhìn suốt lịch sử văn hoá - văn minh nhân loại.
Phong cách tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo của Hồ chí Minh đã phản ánh
đúng cuộc sống, phản ánh những quy luật vận động và phát triển của cuộc sống, vì
vậy, những tư tưởng ấy không lạc hậu, mà đã mở đường cho cuộc sống đi lên phía
trước.
1.3.1.2. Phong cách diễn đạt chân thực, ngắn gọn, giản dị, trong sáng, dễ hiểu.

Mỗi người đều có phong cách diễn đạt tư tưởng của mình bằng lời nói và chữ
viết. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nói và viết không đơn thuần là một hành động
19


thông tin mà còn là quá trình tác động lên người nghe, người đọc, nhằm thuyết
phục, cảm hóa, nâng cao nhận thức, thay đổi quan niệm và hành vi, hướng mọi
người vào các hoạt động thực tiễn cách mạng phù hợp xu hướng tiến bộ của xã hội,
của thời đại.
Người đã có hơn 30 năm lao động, hoạt động, học tập ở nước ngoài nên
Người rất am hiểu văn hóa và phong cách diễn đạt của ngôn ngữ phương Tây nhưng
khi diễn đạt trình bày trước đồng bào trong nước thì cách diễn đạt của Người lại rất
Việt Nam.
Đặc trưng nổi bật trong phong cách diễn đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là
tính phù hợp với chủ đề và đối tượng một cách tự nhiên, nhuần nhuyễn. Cách diễn
đạt trong các bài nói, bài viết của Người rất mộc mạc, ngắn gọn trong sáng, giản dị,
khúc chiết và dễ hiểu, phù hợp với trình độ nhận thức, sự hiểu biết và cách suy nghĩ
của từng đối tượng người đọc, người nghe. Nhờ đó, những bài nói, bài viết của
Người luôn được mọi người cảm thụ sâu sắc và có sức thuyết phục mạnh mẽ. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn chúng ta, bao giờ cũng phải tự hỏi: Viết
cho ai xem? Nói cho ai nghe? Nói/viết để làm gì? và “Nói/viết cái gì?”. Trước khi
thực hiện một bài nói, bài viết nào đó[27, tr.14].
Người luôn xác định rõ chủ đề, đối tượng, mục đích, từ đó tìm cách diễn đạt
cho đúng, cho phù hợp với đối tượng nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Hơn thế,
chúng ta còn thấy trong phong cách diễn đạt của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang đậm
tính chân thực, ngắn gọn, trong sáng, giản dị, dễ hiểu được biểu hiện như sau:
Thứ nhất, Diễn đạt chân thực: Những bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh bao
giờ cũng đem lại cho người nghe, người đọc lượng thông tin cao và chính xác.
Những tư liệu, sự kiện mà Người đề cập bắt nguồn từ thực tế cuộc sống đã được suy
xét, kiểm tra, chọn lọc. Bằng những sự kiện, tư liệu đó, Hồ Chí Minh không phải lý

giải dài dòng nhưng có sức thuyết phục cao đối với người nghe, người đọc. Để có
được tính chân thực trong nói và viết, Người đã tiến hành công việc điều tra, nghiên
cứu tình hình, thu thập tài liệu rất công phu bằng các hình thức: “Nghe, hỏi, thấy,
xem, ghi chép”[33,tr.118]
20


Từ đặc điểm trong phong cách diễn đạt của mình, Hồ Chí Minh yêu cầu cán
bộ, đảng viên khi nói và viết, “điều gì biết thì nói biết, không biết thì nói không biết.
Không nên nói ẩu” [30,tr.466-467] , viết “phải đúng sự thật, không được bịa
ra” [32,tr.78] , “Chưa điều tra, chưa nghiên cứu, chưa biết rõ chớ nói, chớ viết”,
“khi không có gì cần nói, không có gì cần viết, chớ nói, chớ viết càn” [36,tr.559] .
Thiếu chân thực, giả dối trong nói và viết sẽ làm giảm niềm tin của quần chúng với
cách mạng, làm cho lãnh đạo không thấy đúng tình hình để đề ra chủ trương giải
pháp thích hợp, tạo điều kiện cho địch lợi dụng chống phá ta.
Thứ hai, Diễn đạt ngắn gọn: Nói chung các bài nói, bài viết của Hồ Chí
Minh đều ngắn gọn, nhiều ý tưởng lớn được khái quát như những châm ngôn.
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” là một ví dụ.Theo Hồ Chí Minh, ngắn gọn có
nghĩa là “gọn gàng, có đầu có đuôi, có nội dung, thiết thực, thấm thía chắc
chắn”[33,tr.117-124].
Để có cách nói, cách viết ngắn gọn trước hết phải có tư duy mạch lạc, ngôn
từ phong phú, vốn sống dồi dào, đồng thời cũng phải rèn luyện công phu. Không
phải ngay khi sinh ra Hồ Chí Minh đã biết nói ngắn gọn mà phải thông qua quá
trình tự học, tự rèn, thông qua những cuộc tranh luận, những buổi diễn thuyết v.v...
Người mới có cách diễn đạt cô đọng, hàm súc, ý nhiều lời ít, không có lời thừa, chữ
thừa, “mỗi câu, mỗi chữ có một ý nghĩa, có một mục đích, không phải rỗng
tuếch”[31,tr.350]. Những bài nói bài viết của Người đều thể hiện “một cái tối đa về
ý trong một cái tối thiểu về lời”, “nhưng sự việc hết sức phức tạp trình bày bằng
những lời lẽ rất ngắn gọn”, chỉ với một vài từ, hoặc một vài hình ảnh, Người có thể
trình bày được những vấn đề rất phức tạp.

Thứ ba, Diễn đạt giản dị, trong sáng, dễ hiểu: Nói đúng tư tưởng, phản ánh
đúng nhu cầu, lợi ích, nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Trong sáng trong văn
phong và ý tưởng, giản dị trong trình bày thể hiện, dễ hiểu đối với mọi đối tượng
nghe, đọc là đặc điểm các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh.Muốn nói, viết được
trong sáng, giản dị, dễ hiểu, theo Hồ Chí Minh trước hết phải học cách nói của quần
chúng, mới lọt tai quần chúng. Vì “cách nói của dân chúng rất đầy đủ, rất hoạt bát,
21


×