Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm môn mĩ thuật lớp 1 – phương pháp giúp học sinh vẽ hình tự tin tạo bố tranh đề tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.52 KB, 7 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm môn mĩ thuật lớp 1 – phương pháp giúp học sinh vẽ hình tự tin tạo bố
tranh đề tài

Tên đề tài:

Phương pháp giúp học sinh lớp 1 vẽ hình tự tin tạo bố cục thuận mắt trong bài vẽ tranh đề tài.
Người thực hiện : Vũ Thị Xuân Hương.
Trường: Tiểu học Cát Linh – Đống Đa – Hà Nội
Hà Nội 2001

A- Phần mở đầu:
1. Lý do chọn đề tài
Với sự phát triển ngày càng đi lên của thế giới nói chung và việt nam nói
riêng, việc đưa môn mĩ thuật trở thành một trong 9 môn học bắt buộc trong nhà
trường tiểu học là quan trọng và cần thiết. Giáo dục thẩm mĩ cho học sinh ,
nhất là những năm đầu đi học, từng bước giúp trẻ hoà nhập thế giới xung
quanh ;trẻ biết suy xét và mong muốn làm theo cái đẹp – chính là giúp trẻ
tự hoàn thiện mình, trở thành người công dân có ích cho xã hội.


Là người giáo viên dạy mĩ thuật, tôi luôn mong ước với kiến thức của
mình có thể giúp trẻ em , nhất là trẻ em mới vào lớp 1 nhìn nhận và thể
hiện cái đẹp thông qua các bài vẽ tranh đề tài một cách tự tin .
2 .Mục đích của đề tài
- Nhằm phát huy cách vẽ hồn nhiên , ngây thơ của trẻ từ mẫu giáo.
- Giúp trẻ bộc lộ sự phát triển trí tuệ , cảm quan đối với thế giới xung
quanh một cách tự nhiên , “rất trẻ thơ” qua các bài vẽ tranh đề tài.
- Giúp trẻ lớp 1 ngày càng yêu thích môn mĩ thuật - làm nền tảng cho việc
giáo dục thẩm mĩ cho học sinh khi học ở các lớp trên trong bậc tiểu học .
Cụ thể hơn là giúp trẻ lớp 1 điều chỉnh nét vẽ thật tự nhiên , cách sắp
xếp hình vẽ ( bố cục ) trong khuôn khổ giấy vẽ cho phù hợp .


- Tôi đã chọn đề tài này với mong muốn giúp trẻ lớp 1 càng ngày vẽ càng
tự tin hơn , đạt hiệu quả -phù hợp mục tiêu giáo dục của môn mĩ thuật :
Giúp trẻ có sân chơi lí thú , bổ ích , phần nào có cái nhìn tổng thể đối
với sự vật , hình ảnh quen thuộc xung quanh . Đây cũng là một yếu tố
giúp trẻ học các môn khác tốt hơn .
3. Phạm vi nghiên cứu
- Học sinh khối 1 trường tiểu học Cát linh quận Đống đa năm học 2000 2001
- Thời gian 1 năm .
B . Nội dung
Chương I


1 . Những vấn đề tổng quát chung .
- Chương trình giáo dục mĩ thuật ở bậc tiểu học mục đích không phải là
đào tạo học sinh trở thành hoạ sĩ , mà với tiêu chí giúp trẻ làm quen với
môn mĩ thuật – cụ thể là với ngôn ngữ của mĩ thuật ( đường nét , hình
mảng, bố cục , mầu sắc ) . Do đó giáo viên dạy mĩ thuật tiểu học , nhất là
giáo viên dạy học sinh lớp 1 càng phải quan tâm đến việc giáo dục thẩm
mĩ ở trẻ hơn - hướng cho trẻ vẽ đẹp song phải thật tự nhiên ; tạo cho trẻ
kĩ năng vẽ hình phù hợp khổ giấy , nét vẽ khoáng đạt , thể hiện đuợc nội
dung đề tài định vẽ .
2. Những cơ sở lí luận .
- Tôi nghiên cứu đề tài này luôn chú trọng đến đặc điểm tâm sinh lí lứa
tuổi tiểu học mà các nhà tâm lí học đã đúc kết với mong muốn phần nào
giúp trẻ lớp 1 điều chỉnh cách vẽ hình cho thật đẹp , phù hợp mục tiêu
giáo dục của môn mĩ thuật .
- Dựa vào các kiến thức đã học ở trường Cao đẳng , lớp bồi dưỡng mĩ
thuật của trường đào tạo cán bộ giáo dục , tôi thấy mình có nhiệm vụ phải
truyền thụ lại phần nào cho học sinh , nhất là học sinh lớp 1 cách vẽ hình
, làm bố cục tranh một cách mĩ thuật :

+ Nét vẽ khoáng đạt , tự tin , rất trẻ thơ .
+ Hình vẽ được sắp xếp phù hợp tờ giấy .
Mục đích làm trẻ yêu thích môn Mĩ thuật , hào hứng khi được học môn
Mĩ thuật.
Chương 2


Cơ sở thực tiễn
- Hiện nay học sinh ở Mẫu giáo

đã được làm quen với môn Mĩ thuật

song do cách tư duy tưởng tượng của trẻ vẫn còn tản mạn , ít có tổ chức ,
hình ảnh của tưởng tượng còn đơn giản hay thay đổi , chưa bền vững , chỉ
một số ít học sinh vào lớp 1 có ý thức sắp xếp bố cục trong tờ giấy , còn đa
số học sinh lớp 1 bỡ ngỡ chưa làm quen được với cách học của bậc tiểu học
– các em vẽ hình bằng chì , hình vẽ nhỏ , hay tẩy xoá không tự tin khi vẽ
hình , tạo bố cục trống trải không đẹp mắt dẫn đến khó tô màu , khó biểu đạt
nội dung đề tài .
- Quan niệm từ trước , cứ vẽ hình là cô giáo tiểu học cho dùng bút chì ; nhiều
em vẽ rất đẹp ở mẫu giáo , lên lớp 1 lại lúng túng không tìm được cách thể
hiện bài vẽ thoải mái dẫn đến nhiều bài vẽ hình vẽ đẹp song lại quá bé không
phù hợp tờ giấy hoặc tâm lí sợ vẽ không đúng với thực tế .
Ví dụ : trẻ khi vẽ con chó , chúng muốn là phải thật giống , nếu vẽ sai sợ cô
giáo chê , hoặc khi vẽ người : Trẻ vẽ người có chân tay dài hơn thật , khi bị
bạn chê vội tẩy xoá ngay .
Vậy để giúp học sinh , nhất là học sinh lớp 1 ngay từ ngày đầu cấp học đã có
thiện cảm với môn Mĩ thuật , luôn muốn được vẽ – được hoạt động phù hợp
sinh lí trẻ – tôi muốn đưa ra một cách làm mà theo tôi là đạt hiệu quả , giúp trẻ
vẽ hình tự tin , thoải mái , sắpxếp hình hợp khuôn khổ giấy vẽ.

Chương III
Những nội dung nghiên cứu .
1 .Tâm lí trẻ 6 tuổi .


* Theo các nhà tâm lí học , ở lứa tuổi tiểu học , sự tri giác của các em có các đặc
điểm sau :
Tri giác : tri giác của các em mang tính đại thể , ít đi sâu vào chi tiết , tri giác
những gì gây ấn tượng mạnh đối với các em hoặc các em tri giác những gì mình
thích .
Tình cảm có ảnh hưởng đến độ nhanh, độ bền trong trí nhớ của các em . Các em
có thể nhớ rất nhanh và làm những gì mình thích .
Do đó , khi dạy vẽ học sinh lớp 1 , ta lợi dụng đặc điểm tâm lí trên để hướng trẻ vẽ
tranh đề tài với cách nhìn của mình . Trong mỗi tiết học vẽ , tatạo ra sự hứng thú
cho trẻ đối với những đề tài định vẽ ; không khí lớp học thoải mái , nhẹ nhàng ;
đưa ra đồ dùng trực quan hợp lí , ấn tượng , bám sát chủ đề tranh định vẽ ; các
mẫu tranh vẽ là tranh của thiếu nhi , nhất là của chính học sinh lớp 1 – làm học
sinh dễ hiểu dễ tri giác hơn .
Ví dụ : Trong bài “ Vẽ con vật mà em thích” các em rất thích vẽ con trâu ; giáo
viên mô tả lại con trâu một cách say sưa lôi cuốn , cho các em xem tranh các bạn
vẽ con trâu đanh hoạt động ( ăn cỏ , nằm nghỉ , đang cày ruộng ) và nêu bằng lời
cách vẽ trâu : Đầu hình quả đu đủ , mình trâu hình quả trứng to hơn nhiều so với
đầu , 2 sừng cong nhọn ,4 chân trâu đi guốc …
* Việc tìm hiểu những đặc điểm tâm lí nói trên rất có lợi cho việc dạy trẻ lớp 1 vẽ
những sự vật hiện tượng quanh ta một cách tổng quát , song hồn nhiên theo cảm
quan của các em .
- Tư duy: ở học sinh lớp một , tính trực quan cụ thể vẫn còn chiếm ưu thế ( sẽ
chuyển dần sang tính trừu tượng , khái quát ở lớp cuối cấp ) .



Cho nên đồ dùng trực quan đưa ra phải đẹp , cô đọng , phong phú về thể loại (
tranh vẽ , băng hình video , máy chiếu hắt , máy soi ảnh ) hoặc vật thật . Mục
đích cho học sinh lớp 1 tiếp xúc nhiều với những sự vật hiện tượng sắp được vẽ .
Tranh vẽ đẹp của các bạn năm trước được giới thiệu với học sinh sẽ làm cho các
em có chuẩn của cái đẹp mà vẽ bài hứng thú hơn .
Cô giáo dạy Mĩ thuật vẽ thị phạm lên bảng , lên giấy sẽ giúp học sinh nhận biết
cách vẽ nhanh hơn , dễ hơn nhiều so với chỉ dạy trên tranh mẫu .
- Hoạt động chủ đạo của trẻ dưới 6 tuổi là vui chơi ( ở gia đình , ở lớp mẫu giáo )
. Đến 6 tuổi , các em vào học trong trường tiểu học ; lúc này hoạt động chủ đạo
của các em là hoạt động học tập ; môi trường của các em có sự thay đổi .
Thời gian đầu của lớp một các em gặp một số khó khăn , chưa quen bạn và cô giáo
, khó tiếp thu trong khi học , tính kỉ luật chưa cao . Giáo viên dạy Mĩ thuật phải
biết điều chỉnh – gây không khí hào hứng trong lớp học song vẫn giữ được tính kỉ
luật , trật tự : Cho phép các em trao đổi ý kiến , xem , nhận xét bài bạn – Nhưng
giáo viên phải nhắc nhở những học sinh mải chơi , nói chuyện riêng ngoài việc
học vẽ .
- Tưởng tượng : Lứa tuổi này là lứa tuổi giàu tưởng tượng ,tuy nhiên tưởng tượng
của các em còn tản mạn , ít có tổ chức . Hình ảnh của tưởng tượng còn đơn giản ,
hay thay đổi , chưa bền vững ; nhất là lớp 1 , các em phải dựa vào đối tượng cụ thể
. Cho nên tranh vẽ theo đềtài của các em còn đơn giản về các hoạt động (của
nhân vật ) , ít chi tiết , bố cục chưa đẹp .
Do đó người giáo viên dạy Mĩ thuật chú ý tập cho các em kĩ năng vẽ hình đơn
giản song cô đọng , dạy cách sắp xếp hình ảnh hợp với khuôn khổ giấy vẽ qua
nhiều tiết học .


Người giáo viên dạy Mĩ thuật phải biết cách khai thác óc tưởng tượng phong phúc
của trẻ phục vụ cho việc biểu hiện hình vẽ trong bài vẽ tranh đề tài ; Có thể dùng
phương pháp hỏi đáp , kể chuyện , so sánh để bật ra đặc điểm của bức tranh định
vẽ .

- Ví dụ vẽ bài “ Cây và nhà” : Cô giáo hỏi học sinh : Con biết các loại cây gì ?
Con thử mô tả lại đặc điểm của cây đó … Đi ngoài phố , con nhìn thấy những ngôi
nhà giống hay khác nhau – mô tả cụ thể …. Cô kể lại ngôi nhà của mình có đặc
điểm nào đó . Cô hỏi một vài học sinh về ngôi nhà của mình . Hoặc so sánh nhà ở
nông thôn và thành phố bằng cách hỏi học sinh .
* Tư duy lứa tuổi học sinh tiểu học có những nét đặc thù so với những lứa tuổi
khác . Mà bậc học tiểu học là bậc học nền tảng cho những bậc học sau này . Vì
vậy , giáo viên dạy Mĩ thuật phải lựa chọn phương pháp dạy học tối ưu , phù hợp
với nội dung từng bài vẽ tranh đề tài ( Cũng như các phân môn vẽ khác ) . Hướng
dẫn các em tích cực suy nghĩ để hình thành kiến thức về Mĩ thuật , khuyến khích
học sinh chủ động , tự tin khi vẽ bài ; Người giáo viên có vai trò hướng dẫn giúp
đỡ chứ không áp đặt , làm thay các em .
Nắm vững đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học , cụ thể là học sinh lớp 1 ,
giúp cho giáo viên dạy vẽ như bản thân tôi rất tự tin trong việc nghiên cứu hướng
dẫn cho các em cách vẽ hình tự tin , tạo bố cục thuận mắt trong bài vẽ tranh đề tài
2 . Khái niệm “tranh vẽ theo đề tài” .
- Đây là một phân môn của Mĩ thuật trong chương trình dạy học ở bậc tiểu học .
- Học sinh được vẽ những đề tài về cuộc sống xung quanh : Thiên nhiên , sinh
hoạt của con người , thế giới động vật …



×