Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Bài giảng tâm lý học sư phạm phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.14 KB, 35 trang )

PHẦN II. TÂM LÝ HỌC SƯ PHẠM
CHƯƠNG I. TÂM LÝ HỌC DẠY HỌC
1. BẢN CHẤT CỦA HOẠT ĐỘNG DẠY VÀ HỌC
1.1. Hoạt động dạy
Hoạt động dạy là hoạt động của người được đào tạo nghề dạy học (giáo
viên) tổ chức và điều khiển hoạt động của người học nhằm giúp họ lĩnh hội nền
văn hoá xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lý, hình thành nhân cách .
Xét về bản chất của hoạt động dạy học, L.X.Vưgôtxki cho rằng có hai kiểu
dạy học ứng với hai kiểu định hướng khác nhau:
- Dạy học hướng vào mức độ hiện có của người học. Đó là vùng phát triển
hiện có, ở đó người học đã có tri thức, kỹ năng và phương pháp nhất định.
Dạy học hướng vào vùng phát triển hiện có là dạy học hướng vào tri thức,
phương pháp học mà học sinh đã biết, đã nắm vững. Kiểu dạy học này
không đem lại cái mới cho người học, mà chỉ nhằm củng cố những cái đã có
ở các em, nghĩa là không tạo được sự phát triển.
- Dạy học hướng vào vùng phát triển gần nhất. Đó là vùng của những điều mà
học sinh chưa biết, nhưng các em có thể đạt được nhờ sự giúp đỡ của giáo
viên và có thể bằng con đường khác (do người khác giúp đỡ, tự học, tự tìm
hiểu). Dạy học theo kiểu này là cung cấp cho người học tri thức, hình thành
kỹ năng và phương pháp mới, đó là dạy học phát triển, hay là dạy học dẫn
dắt và kéo theo sự phát triển của người học. Theo quan niệm này thù dạy học
là tổ chức quá trình phát triển của người học, dẫn dắt họ đạt tới vùng phát
triển gần nhất, đồng thời lại hình thành vùng phát triển gần nhất kế tiếp, và
cứ thế học sinh lớn lên, tiếp tục có sự phát triển. Đó cũng chính là mục đích
của dạy học, là tính quy luật của hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động
của học sinh.
Nhìn một cách khái quát thì hoạt động dạy của giáo viên được cấu thành bởi
ba yếu tố chính là nội dung, phương pháp và tổ chức. Ba yếu tố này chi phối hoạt


động dạy của giáo viên, trong đó nội dung chương trình là yếu tố có tính pháp quy,


không được phép thay đổi, còn giáo viên có thể chủ động điều khiển phương pháp
và hình thức tổ chức dạy học sao cho hoạt động dạy đạt hiệu quả cao nhất.
Để tiến hành hoạt động dạy, giáo viên thực hiện những công việc cụ thể sau:
- Đưa ra mục đích, yêu cầu, nghĩa là xác định sản phẩm học tập và tiêu chuẩn
(mẫu) của sản phẩm đó (thường gọi là yêu cầu cụ thể về kiến thức, kỹ năng,
thái độ) đối với mỗi tiết học, bài học (nay còn gọi là mục tiêu của tiết học,
bài học. Mỗi tiết học là một đơn vị thời gian sư phạm, thường được quy định
khoảng 40 hoặc 45 phút, còn bài học là một đơn vị kiến thức tươgn đối hoàn
chỉnh và có thể thực hiện trong một tiết hoặc vài ba tiết học).
- Cung cấp phương tiện, điều kiện để người học thực hiện hoạt động học. Đó
chính là học liệu bao gồm sách vở, giấy bút, đồ dùng học tập, thiết bị thí
nghiệm, thực hành … phù hợp với nội dung học tập.
- Vạch ra trình tự thực hiện các hành động, các thao tác và những quy định
chặt chẽ phải tuân theo khi thực hiện các hành động, các thao tác theo quy
trình đó.
- Chỉ dẫn người học làm theo quy trình, quy phạm đồng thời trong quá trình
đó, giáo viên theo dõi, giúp đỡ người học trong trường hợp họ gặp khó khăn.
- Đánh giá và hướng dẫn học sinh tự đánh giá kết quả học tập.
Đó là 5 việc chính trong quá trình thực hiện hoạt động dạy cụ thể của giáo
viên. Song trên thực tế, không phải môn học nào, tiết học nào cũng đều diễn ra như
vậy, mà tuỳ thuộc vào nội dung và phương tiện cụ thể, giáo viên sẽ sử dụng những
phương pháp dạy học khác nhau.
1.2. Hoạt động học
Học theo nghĩa nguyên thuỷ là bản tính của con người (có ở cả con vật)
hướng vào việc tiếp thu kinh nghiệm, sự hiểu biết và kỹ năng của giống loài giúp
cho cá thể tồn tại trong cuộc sống. Học đối với con người nói chung là thu thập
kiến thức, rèn luyện kỹ năng bằng những cách thức, những phương pháp khác
nhau.
Để lĩnh hội kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo (kinh nghiệm xã hội) nhất định, con
người có các cách học khác nhau. Cụ thể:



- Học nhờ trải nghiệm trong cuộc sống, qua đó con người tích luỹ được kinh
nghiệm và những hiểu biết nhất định. Cách học này chỉ giúp con người lĩnh
hội được những kinh nghiệm không trùng hợp với những mục đích trực tiếp
của hoạt động hay hành vi; liên quan trực tiếp tới nhu cầu, hứng thú cá nhâ,
các nhiệm vụ trước mắt, còn những cái khác thì bỏ qua; chỉ đưa lại những tri
thức tiền khoa học, có tính chất ngẫu nhiên, rời rạc, không hệ thống; chỉ hình
thành những năng lực thực tiễn do kinh nghiệm hàng ngày trực tiếp mang
lại.
- Học theo phương pháp nhà trường, được tổ chức tự giác từ nhà nước và xã
hội, được thựchiện trong trường học. Phương pháp nhà trường ở đây được
dùng hàm chứa trong nội dung, phương pháp dạy - học, cả phương thức tổ
chức dạy - học. Đây là một dạng hoạt động đặc thù của con người. Nó chỉ có
thể thực hiện ở một trình độ khi mà con người có được khả năng điều chỉnh
những hành động của mình bởi mục đích đã được ý thức. Khả năng này chỉ
được hình thành vào lúc 5-6 tuổi. Chỉ có thông qua hoạt động học theo
phương thức nhà trường mới hình thành ở cá nhân những tri thức khoa học
cũng như những cấu trúc tương ứng của hoạt động tâm lý và sự phát triển
toàn diện nhân cách người học.
- Học theo phương pháp tự học được nhiều người quan tâm, song học theo
phương pháp này đòi hỏi tính độc lập và tính kiên trì rất cao ở người học.
Trong điều kiện hiện nay thì việc tự học kết hợp với phương pháp nhà
trường là phương thức học tập đem lại hiệu quả cao.
Bản chất của hoạt động học được thể hiện qua các đặc điểm sau:
- Hoạt động học là hoạt động chiếm lĩnh, hay nói các khác là hoạt động lĩnh
hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo tương ứng với tri thức đó. Điều này có nghĩa tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo là đối tượng của hoạt động học. Như vậy, học sinh
thực hiện hoạt động học cũng chính là để lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
mới. Khi một học sinh thực hiện hoạt động học thì chính học sinh đó đã trở

thành chủ thể chiếm lĩnh nội dung học tập mới, chủ thể hành động tích cực
cả trí óc và tay chân. Trong quá trình này các chức năng tâm lý của học sinh
được vận hành tích cực.


- Hoạt động học làm thay đổi chính chủ thể. Bằng hoạt động học, mỗi chủ thể
(người học) lĩnh hội được tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới, nhờ vậy mà tạo
được sự phát triển về tâm lý của người học (sự phát triển về nhận thức lý
tính, về các phẩm chất nhân cách…). Nhờ hoạt động học và các hoạt động
giáo dục khác mà học sinh có sự phong phú về tâm hồn, hình thành nhân
cách. Có thể nói rằng, hoạt động học tạo ra sự biến đổi ở chính người học,
hình thành nhân cách học sinh.
- Hoạt động học là hoạt động không chỉ hướng vào việc lĩnh hội tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo mà còn hướng vào việc tiếp thu cả những tri thức của chính
bản thân hoạt động, hay nói cách khác là lĩnh hội cả cách học.
Muốn cho hoạt động học diễn ra có kết quả cao, người học phải biết cách học,
nghĩa là phải có tri thức về bản thân hoạt động học. Sự tiếp thuc tri thức này không
diễn ra một cách độc lập với việc tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo. Do đó, trong
khi tổ chức hoạt động cho người học, giáo viên vừa phải ý thức được những tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo nào cần được hình thành ở người học, vừa phải có một quan
niệm rõ ràng là thông qua tổ chức sự tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đó thì người
học sẽ lĩnh hội được cách học gì? con đường giành tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đó
như
thế nào?
2. HÌNH THÀNH HOẠT ĐỘNG HỌC
Từ khái niệm và bản chất của hoạt động học, ta thấy rằng việc hình thành
hoạt động học là mục tiêu quan trọng của hoạt động dạy. Hoạt động dạy phải được
tổ chức sao cho thông qua đó, học sinh tổ chức được hoạt động học một cách tốt
nhất, giúp các em tiếp thu kiến thức một cách chủ động và có hiệu quả.
2.1. Hình thành động cơ học tập

Động cơ học tập của học sinh chính là nhu cầu được mỗi học sinh nhận thức,
trở thành động lực thôi thúc các em học, hay nói cách khác động cơ học tập là cái
mà vì nó học sinh thực hiện hoạt động học.
Học sinh trong cùng một lớp học có cùng đối tượng học tập, nhưng trên thực
tế, ở mỗi thời điểm khác nhau và ở những học sinh khác nhau có thể có động cơ


khác nhau, hoặc ở một học sinh có thể có vài ba động cơ khác nhau, hoặc có sự
chuyển hoá giữa các động cơ.
Trong thực tế, có những học sinh chăm chỉ học tập, học một cách tự giác là
do mong muốn lĩnh hội nội dung học tập, và hệ quả của hoạt động chăm chỉ là kết
quả học tập cao; song có những học sinh chăm học là do sức ép của gia đình và
nhà trường và những em này thường cũng đạt kết quả cao; có những em cố gắng
học tập là do muốn nhận phần thưởng của gia đình hoặc nhà trường cho thành tích
học tập của mình …
Nhìn chung, ở mỗi học sinh đồng thời có vài ba động cơ học tập khác nhau,
nhưng chỉ có một động cơ học tập chiếm ưu thế, động cơ đích thực, động cơ chân
chính là động cơ xuất phát từ chính đối tượng của hoạt động học, từ chính việc lĩnh
hội nội dung học tập, và đó là động cơ đúng đắn.
Trong quá trình dạy học, giáo viên nên chú ý hình thành cho học sinh động
cơ học tập đúng đắn bởi đó chính là động lực giúp các em thực hiện hoạt động học
tập một cách hứng thú và có hiệu quả.
2.2. Hình thành nhiệm vụ học tập
Nhiệm vụ học tập là hình thức cụ thể hoá nội dung học tập thành việc học cụ
thể mà mỗi học sinh phải thực hiện để có được sản phẩm nhất định. Đó chính là
các đơn vị kiến thức và kỹ năng cụ thể (mục tiêu) cùng với phương tiện cần thiết
tương ứng để học sinh có thể thực hiện các hành động học bằng hệ thống thao tác
tương ứng để đạt sản phẩm học tập theo quy định.
Như vậy, mỗi tiết học, mỗi bài học có thể có một hay nhiều nhiệm vụ học
tập cụ thể. Nhiệm vụ học tập khác với nhiệm vụ trong các loại hình hoạt động khác

(ví dụ nhiệm vụ trong lao động sản xuất). Sự khác biệt là ở chỗ, nhiệm vụ trong lao
động sản xuất cũng làm ra sản phẩm nhưng không tạo ra năng lực mới, nhiệm vụ
học tập hướng vào việc tạo ra năng lực mới thể hiện ở kết quả học tập.
Nhiệm vụ học tập là nhân tố quan trọng của hoạt động học vì không có
nhiệm vụ học tập thì hoạt động học không thể thực hiện các hành động, các thao
tác học, và như vậy sẽ không thể đạt tới kết quả .
2.3. Hình thành hành động học


Hành động học là cách diễn ra hoạt động học (cách thực hiện nhiệm vụ học
tập), gồm các hành động: hành động phân tích, hành động mô hình hoá, hành động
cụ thể hoá, hành động kiểm tra đánh giá.
 Hành động phân tích
Đây là hành động tiên quyết trong hoạt động lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo. Đó là cách tiếp cận tài liệu học tập và qua đây người học phát hiện được đối
tượng cần chiếm lĩnh trong các mối quan hệ nội tại của nó. Sự tìm kiếm, phát hiện
lôgic, mối quan hệ chung đó tạo nên nội dung hoạt động tư duy và là điểm xuất
phát trong quá trình hình thành tri thức, khái niệm của học sinh.
 Hành động mô hình hoá
Đây là cách thức người học ghi lại quá trình và kết quả thực hiện hành động
phân tích ở trên dưới dạng mô hình và ký hiệu. Mô hình là sự diễn đạt lôgic khái
niệm một cách trực qua, nhờ đó mà khái niệm được chuyển từ bên ngoài vào bên
trong đầu người học. Quá trình đó diễn ra theo tiến trình sau:
Đối tượng (khái niệm bên ngoài)
Mô hình
Khái niệm (trong đầu)
Trong quá trình học tập, người học thường sử dụng hai loại mô hình:
- Mô hình vật chất gồm mô hình tĩnh và mô hình động.
- Mô hình tư tưởng gồm mô hình hình ảnh, mô hình ký hiệu và mô hình tư
duy.

Giữa mô hình và đối tượng có quan hệ với nhau theo hai tính chất sau:
- Mô hình giống đối tượng ở chỗ nó thay thế đối tượng về một số thuộc
tính và một số mặt nào đó, nên được gọi là tính chất nhận thức của mô
hình.
- Mô hình khác đối tượng ở chỗ nó chỉ chứa đựng những thuộc tính của
đối tượng mà người học cần xem xét, lĩnh hội, còn những thuộc tính khác
của đối tượng mà người học không cần xem xét, không cần lĩnh hội thù
không đưa vào mô hình.
Trên thực tế, hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học của học sinh
thường ít có điều kiện tiếp cận với đối tượng thật (vật thật), mà thường tiếp cần với
đối tượng thay thế (vật thay thế hay mô hình). Do vậy, mô hình là sản phẩm của
một công đoạn trong quá trình học tập của người học, nhưng mô hình cũng có thể


là phương tiện, là vật thay thế để qua đó người học tiếp cận, nghiên cứu về đối
tượng.
 Hành động cụ thể hoá
Qua hành động phân tích và hành động mô hình, người học bước đầu lĩnh
hội được tri thức lý luận và phương pháp khái quát tương ứng được định trước
trong nhiệm vụ học có tính chất như mẫu mới, và như vậy cũng tạo ra được cái
mới ở người học. Nhưng nhiệm vụ thực tiễn cụ thể và nhiệm vụ cùng loại phong
phú, đa dạng nên người học phải dùng phương pháp chung được hình thành qua
các hành động trên để giải quyết nhưng nhiệm vụ đó tới độ nhất đinh thì mới có
được kiến thức và kỹ năng tương ứng một cách chắc chắn. Hành động cụ thể hoá
chính là khâu hành trong học - hành, hay khâu luyện tập trong học - tập.
 Hành động kiểm tra và đánh giá
Quá trình người học thực hiện các hành động học tập nêu trên là quá trình
người học tự làm ra sản phẩm học tập của mình. Sản phẩm này một mặt thể hiện
quá trình thực hiện các hành động học (cách học) và kết quả tương ứng cũng như
snr phẩm cuối cùng, mặt khác là cái đọng lại trong mỗi người học như là nhân tố

góp phần tạo nên năng lực mới của các em. Vì vậy, việc kiểm tra, đánh giá và trên
cơ sở đó để điều chỉnh, khắc phục kịp thời những sai sót trong quá trình thực hiện
các hành động học nhằm giải quyết nhiệm vụ cụ thể đặt ra cũng được coi như
thành tố quan trọng không thể thiếu được trong cấu trúc hoạt động học.
Hành động kiểm tra và đánh giá có chức năng định hướng và điều chỉnh hoạt
động học của học sinh. Hành động này đi kèm các hành động khác trong quá trình
học tập của người học từ khi khởi đầu đến khi đạt kết quả cuối cùng. Do vậy, để
việc đành giá kết quả của người học theo đúng quy luật và đạt hiệu quả phải kết
hợp cả đánh giá quá trình và đánh giá kết quả cuối cùng, kết hợp cách đánh giá tự
luận và đánh giá kiểu tắc nghiệm, tuỳ thuộc vào mục đích và điều kiện kiểm tra
đánh giá xác định. Đồng thời hành động kiểm tra đánh giá này cũng có thể tạo nên
động lực học tập cho người học.
Như vậy, hình thành hoạt động học cho người học chính là thực hiện hoạt
động dạy của giáo viên với mục tiêu và những việc làm cụ thể được xác định trước.


Trong quá trình dạy học, việc giáo viên hình thành hoạt động học cho người học là
rất quan trọng, có tính quyết định chất lượng và hiệu quả dạy và học.

3. CƠ SỞ TÂM LÝ HỌC CỦA VIỆC LĨNH HỘI TRI THỨC, CÁC
PHƯƠNG THỨC HÀNH ĐỘNG VÀ PHƯƠNG THỨC TƯ DUY
Lĩnh hội (thông hiểu, nắm vững) là sự hoà nhập kinh nghiệm mới với kinh
nghiệm đã có trước đây, hoà nhập thông tin mới với thông tin đã biết. Nó là sự
chuyển hoá kinh nghiệm xã hội đã tích luỹ được thành tài sản của cá nhân, nghĩa là
thành thuộc tích của cá nhân.
Lĩnh hội có thể là tự phát hay tự giác. Sự lĩnh hội tự giác có thể do tự học
hay do quá trình dạy học có mục đích đem lại.
Người ta phân biệt các loại lĩnh hội tuỳ theo nội dung được lĩnh hội. Trong
Tâm lý học sư phạm, lĩnh hội thường được phân chia thành sự lĩnh hội tri thức, sự
lĩnh hội các phương thức hành động (kỹ năng, kỹ xảo) và phương thức tư duy. Mỗi

loại hoạt động đòi hỏi những phương thức lĩnh hội đặc trưng riêng biệt.
3.1. Lĩnh hội khái niệm
Khái niệm là toàn bộ những hiểu biết của con người đã được khái quát về
một loại sự vật, hiện tượng nào đó.
Sự lĩnh hội khái niệm là sự phản ánh vào trong ý thức của mỗi người toàn bộ
những hiểu biết mà loài người đã xác định được về một khái niệm nào đó. Sự lĩnh
hội khái niệm của các môn học khác nhau có các đặc trưng khác nhau.
Quá trình xây dựng khái niệm của loài người là quá trình sáng tạo ra khái
niệm đó còn quá trình lĩnh hội khái niệm là quá trình mỗi cá nhân tiếp thu những
khái niệm đó dưới dạng có sẵn đã được xác định. Song như thế không có nghĩa
lĩnh hội là quá trình chuyển tải giản đơn, thụ động từ giáo viên sang người học mà
thực sự nó là một quá trình tư duy tích cực vì người học lĩnh hội kinh nghiệm của
loài bằng kinh nghiệm của mình.
Quá trình lĩnh hội khái niệm được biểu hiện ở hai thành phần sau:
 Hiểu khái niệm: Là quá trình hoà nhập khái niệm đó vào hệ thống khái niệm đã
có của bản thân theo một lôgic nhất định.


 Vận dụng được khái niệm: Quá trình lĩnh hội khái niệm của mỗi cá nhân diễn ra
theo 4 mức độ sau:
- Lĩnh hội khái niệm thông qua việc hiểu được những dấu hiệu không bản
chất, những kinh nghiệm riêng lẻ của bản thân.
- Lĩnh hội khái niệm thông qua dấu hiện bản chất nhưng không ứng với
khái niệm được lĩnh hội.
- Lĩnh hội khái niệm thông qua việc phản ánh được dấu hiện bản chất của
khái niệm nhưng không dựa trên những kinh nghiệm cảm tính, phong
phú của cá nhân.
- Lĩnh hội khái niệm thông qua việc vừa nắm được dấu hiện bản chất của
khái niệm, vừa vận dụng được chúng vào trong thực tiễn.
3.2. Lĩnh hội các phương thức hành động

Sự lĩnh hội các phương thức hành động là một lĩnh vực đặc biệt của hoạt
động học. Các phương thức hoạt động được người học lĩnh hội sẽ trở thành
kỹnăng, kỹ xảo của họ.
Học thuyết hình thành hành động trí tuệ theo giai đoạn của P.Ia.Ganpêri có
giá trị về mặt nghiên cứu sự lĩnh hội các phương thức hành động. Theo thuyết này,
muốn hình thành một hành động trí tuệ hoàn hảo, nhất nhiết phải tiến hành các giai
đoạn xác định sau đây:
- Giai đoạn làm quen sơ bộ với mục đích của hành động, tạo ra động cơ cần
thiết ở người học.
- Giai đoạn thiết lập sơ đồ của cơ sở định hướng hành động. Cơ sở định
hướng hành động là một hệ thống các vật định hướng và lời chỉ dẫn giúp con
người thực hiện hành động đó. Hệ thống các lời chỉ dẫn và vật định hướng
này có thể được cung cấp cho người học với những tính chất khác nhau và
dưới những dạng khác nhau, hoặc do bản thân học sinh tự thiết lập lấy,
nhưng đó vẫn chỉ là một biểu tượng về hành động sắp tới, về phương thức
thực hiện nó, chứ chưa phải là bản thân hành động.
- Giai đoạn thực hiện hành động dưới dạng vật chất hay vật chất hoá. Ở giai
đoạn này, hành động cần lĩnh hội được thực hiện như là một hành động thực


tế, bên ngoài, với các đồ vật thật (hành động vật chất) hay với các mô hình
như sơ đồ, bản vẽ … (hành động vật chất hóa).
- Giai đoạn hình thành hành động ngôn ngữ bên ngoài (nói hoặc viết) mà
không dựa vào các phương tiện vật chất hay vật chất hoá. Ở giai đoạn này,
học sinh phải nói bằng từ của mình (thành tiếng hay viết) tất cả các thao tác
mà nó đã thực hiện theo đúng cơ sở định hướng hành động.
- Giai đoạn hình thành hành động nói thầm bên ngoài. Hành động không diễn
ra cùng với sự nói to hay chữ viết, mà nói thầm cho mình về các thao tác
được tiến hành.
- Giai đoạn thực hiện hành động trong óc, nghĩa là hành động trí tuệ đã được

hình thành.
Quan niệm về sự lĩnh hội theo giai đoạn đã vạch ra được cơ chế phát sinh
các hành động trí tuệ như là sự phản ánh các hành động vật chất. Có thể nghĩ rằng,
mọi hành động mới về nguyên tắc đối với chủ thể đều bắt đầu được lĩnh hội đúng
như quan niệm này. Nhưng tuỳ theo mức độ tích luỹ kinh nghiệm, vốn tri thức và
kỹ năng mà sự lĩnh hội các phương thức hoạt động mới, các hành động mới có thể
diễn ra mà bỏ qua một số giai đoạn, đặc biệt là hành động vật chất hay hành động
nói thầm bên ngoài và bên trong. Hơn nữa, hoạt động tâm lý bên trong sau đó có
thể được thể hiện ra bên ngoài - một cách vật chất. Điều này còn có thể được gây
nên bởi chỗ, các yếu tố hành động mới được giữ gìn trong người học và mọi giai
đoạn đều đã trải qua trước đây rồi. Cho nên, không phải bất cứ ai và bất cứ trường
hợp nào cũng đều phải trải qua 6 giai đoạn hình thành hành động trí tuệ trên đây.
3.3. Sự lĩnh hội phương thức tư duy
Tư duy có vai trò quan trọng trog việc vận dụng các tri thức như là một điều
kiện, một thành phần tất yếu của hoạt động. Vì vậy, việc lĩnh hội các phương thức
tư duy cũng là một lĩnh vực quan trọng trong hoạt động học.
Các kết quả nghiên cứu tâm lý học đã khẳng định sự cần thiết phải lĩnh hội
các hành động trí tuệ (tư duy) khái quát và đặc trưng với từng môn học riêng lẻ. Sự
lĩnh hội các hành động này diễn ra theo 3 cách:
- Học thuộc lòng các phương thức hành động cụ thể và nguyên tắc của chúng
do giáo viên vạch ra.


- Dựa vào kinh nghiệm của nhiều ví dụ cụ thể về việc thực hiện các hành động
đó.
- Lĩnh hội các vật định hướng được đưa ra và nhờ chúng mà người học nhận
thức được cấu trúc của hành động.
Cả ba cách trên đều có hiệu lực trong những điều kiện nhất định, nhưng với
mức độ phát triển đầy đủ của người học thì cách lĩnh hội thứ 3 là có hiệu quả nhất.
Sự lĩnh hội các hành động trí tuệ đòi hỏi phải có sự thu nhận thông tìn về

một trong các phương thức nêu trên, luyện tập và di chuyển sang các tình huống
khác.
Như vậy, sự lĩnh hội các phương thức tư duy đòi hỏi người học phải tham
gia thực hiện các cấu trúc thao tác, thực hiện các hành động trí tuệ hay tư duy ở
những mức độ phức tạp và độc lập khác nhau. Việc lĩnh hội các phương thức tư
duy có liên quan chặt chẽ với các tri thức được xây dựng trên cơ sở các phương
thức đó. Cho nên sẽ không đúng nếu cho rằng các phương thức tự nó sẽ dạy cách
tư duy ở mức độ cần thiết và trong những thể hiện cần thiết.


CÂU HỎI ÔN TẬP
1. Phân tích bản chất của hoạt động dạy và hoạt động học.
2. Có bao nhiêu cách học trong thực tiễn cuộc sống? Phân tích ưu điểm và hạn
chế của các cách học đó.
3. Quá trình hình thành hoạt động học diễn ra như thế nào?
4. Quá trình lĩnh hội khái niệm diễn ra như thế nào?
5. Trình bày học thuyết hình thành hành động trí tuệ của P.Ia.Ganpêrin. Học
thuyết này có ý nghĩa như thế nào đối với hoạt động dạy học?


CHƯƠNG II. TÂM LÝ HỌC NHÂN CÁCH NGƯỜI GIÁO VIÊN
1. ĐẶC ĐIỂM LAO ĐỘNG CỦA NGHỀ DẠY HỌC
1.1. Vai trò và vị trí của người giáo viên trong xã hội hiện đại
- Trong xã hội phong kiến, người giáo viên được xếp vào vị trí cao trong xã
hội, chỉ đứng sau nhà Vua (“Quân, Sư, Phụ”). Cũng từ thời xưa, nhân dân ta
vẫn quan niệm Không thầy đố mày làm nên. Từ khi thành lập Nhà nước Việt
Nam mới, với nền giáo dục Cách mạng của nước ta, người làm công tác dạy
học lại càng được xã hội coi trọng và tôn vinh là “người làm nghề cao quý
trong những nghề cao quý”.
- Trong xã hội hiện đại, người giáo viên cũng là người lao động, mà loại hình

lao động này có đặc thù riêng so với nhiều loại hình lao động khác. Giáo dục
đào tạo có chức năng tạo nguồn nhân lực và đào tạo nhân lực đáp ứng nhu
cầu của xã hội. Người giáo viên tham gia, giữ vị trí then chốt và quyết định
chất lượng của quá trình tạo ra nguồn nhân lực cho xã hội.
1.2. Đặc điểm lao động sư phạm của nghề dạy học
Nhà giáo dục K.D. Usinxki nói: “Trong việc giáo dục, tất cả phải dựa vào
nhân cách người giáo dục”. Điều này nói lên đặc điểm lao động của nghề dạy học.
1.2.1. Nghề mà đối tượng quan hệ trực tiếp là con người
Nghề nào cũng có đối tượng quan hệ trực tiếp riêng của mình. Chẳng hạn:
- Nghề quan hệ với kỹ thuật như thợ chế tạo và lắp ráp các loại máy, sửa chữa
các loại máy …
- Nghề quan hệ với động vật và thiên nhiên như nghề chăn nuôi, thú ý…
- Nghề quan hệ trực tiếp với con người như nhân viên bán hàng, bác sỹ, giáo
viên …
- …
Những nghề có đối tượng quan hệ trực tiếp là con người đều đòi hỏi người
hoạt động trong nghề đó phải có những phẩm chất nhất định khi thực hiện mối
quan hệ giữa con người với con người như sự tôn trọng và lòng tin ở con người,
tình thương, sự đối xử công bằng, thái độ ân cần, lịch sự, tế nhị.


Cũng có đối tượng quan hệ trực tiếp là con người nhưng con người với tư
cách là đối tượng của nghề dạy học không hoàn toàn giống con người trong quan
hệ với nghề y hay nghề kinh doanh. Đó là những con người đang trong thời kỳ
chuẩn bị để trở thành những công dân tương lai có phẩm chất và năng lực đáp ứng
nhu cầu đòi hỏi của xã hội. Để tạo ra những công dân tương lai có phẩm chất và
năng lực phù hợp với sự phát triển của xã hội thì người giáo viên phải là người tổ
chức và điều khiển quá trình lĩnh hội kiến thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo tương
ứng ở người học. Qua đó, người học dần dần biến được kinh nghiệm của loài thành
kinh nghiệm của cá nhân và nhân cách dần được phát triển.

Đặc điểm này của nghề dạy học được thể hiện rõ trong quá trình hành nghề
của mỗi giáo viên và được Nhà nước quy định thành nhiệm vụ của nhà giáo. Điều
63 Luật Giáo dục quy định nhà giáo có nhiệm vụ như sau:
1. Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý, chương trình giáo dục;
2. Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật và điều
lệ nhà trường.
3. Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, tôn trọng nhân cách người
học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng
của người học;
4. Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất đạo đức, trình độ
chuyên môn, nghiệp vụ, nêu gương tốt cho người học;
5. Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.
Từ năm nhiệm vụ của người giáo viên như trên, Nhà nước và nhân dân đòi
hỏi cao ở người làm nghề dạy học về phẩm chất và năng lực.
1.2.2. Nghề có công cụ chủ yếu là nhân cách của chính người giáo viên
Trong dạy học và giáo dục, người giáo viên phải dùng nhân cách của mình
để tác động tới người học. Đó là phẩm chất chính trị, lối sống, trình độ học vấn, kỹ
năng giao tiếp … Đây cũng chính là lý do mà K.D. Usinxki khẳng định dùng nhân
cách để giáo dục nhân cách.
Hơn nữa, nghề dạy học là nghề lao động nghiêm túc, không được phép tạo
ra thứ phẩm chứ chưa nói tới phế phẩm như một số nghề khác. Có người đã từng
nói làm hỏng một đồ vàng ta có thể nấu lại, một viên ngọc quý ta có thể bỏ đi


nhưng làm hỏng một con người là một tội lớn, một lỗi lầm không thể chuộc lại
được. Vàng, ngọc, kim cương đều quý nhưng không thể so sánh chúng với tâm hồn,
nhân cách một trẻ thơ, một con người.
Nhà giáo tác động đến người học bằng nhân cách của mình nên nhà giáo cần
sống mô phạm. Nhưng nhà giáo cũng là con người bình thường nên họ cũng cần có
cuộc sống bình thường. Thực tế đó đòi hỏi người làm nghề dạy học phải công phu

rèn luyện mới có thể đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao của xã
hội.
1.2.3. Nghề đào tạo nguồn nhân lực (hay nói cách là là nghề tái sản xuất, mở rộng
sức lao động xã hội)
Giáo dục có chức năng là tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Nguồn nhân lực đó
chính là toàn bộ sức mạnh vật chất và tinh thần ở trong cá nhân mỗi học sinh, trong
thế hệ trẻ của chúng ta ngày hôm nay.
Trong thiên niên kỷ trước, nguồn nhân lực nông nghiệp được đào tạo đơn
giản bằng con đường truyền khẩu (truyền kinh nghiệm qua ngôn ngữ nói) và
truyền tay nghề. Hiện nay, đất nước ta đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá và hội nhập kinh tế quốc tế thì nguồn nhân lực cần được đào tạo để
đạt trình độ quốc tế. Giáo dục và dạy học đã và đang tham gia một cách có hiệu
quả vào quá trình tạo ra nguồn nhân lực có chất lượng cho xã hội. Nguồn nhân lực
này vừa có trình độ chuyên môn, vừa có những phẩm chất của người lao động thời
kỳ mới như có tổ chức, có kỷ luật, tính sáng tạo cao trong công việc …
Giáo viên các bậc học là người tham gia trực tiếp và quyết định chất lượng
của nguồn nhân lực tương lai. Vì vậy, hơn ai hết chính người giáo viên phải là
nguồn nhân lực được đào tạo chuẩn để có thể thực hiện tốt vai trò tạo nguồn nhân
lực có chất lượng cho xã hội.
1.2.4. Nghề đòi hỏi tính khoa học, tính nghệ thuật và tính sáng tạo cao
Nhà sư phạm học người Đức đã viết: “Người thầy giáo tồi là người mang
chân lý đến sẵn, còn người thầy giáo giỏi là người biết dạy học sinh đi tìm chân
lý”. Để thực hiện công việc dạy học theo tinh thần đó thì giáo viên phải dựa trên
những nền tảng khoa học xác định, khoa học bộ môn cũng như khoa học giáo dục,
có kỹ năng sử dụng chúng vào từng tình huống sư phạm cụ thể, sinh động, thích


ứng với từng cá nhân. Cho nên công việc của người giáo viên tuy phải dựa trên nền
tảng khoa học nhưng đòi hỏi tính sáng tạo cao. Và để thực hiện được chức năng
của mình theo yêu cầu của xã hội thì giáo viên còn phải có tính khoa học và tính

sáng tạo cao tới mức như là một người thợ cả lành nghề, một nghệ sỹ của quá trình
sư phạm.
1.2.5. Nghề lao động trí óc chuyên nghiệp
Lao động của người giáo viên là loại lao động trí óc chuyên nghiệp. Loại lao
động này có 2 đặc điểm nổi bật sau:
- Có một thời kỳ khởi động (là thời kỳ để lao động đi vào nề nếp). Ở thời kỳ
này, hiệu quả lao động thấp hoặc chưa có hiệu quả nhất là khi phải giải
quyết những tình huống sư phạm phức tạp và có tính chất quyết định.
- Có quán tính trí tuệ. Những diễn biến trong giờ học, những vấn đề học tập
chưa được giải quyết đều không mất đi khi giờ học kết thúc.
Với hai đặc điểm nổi bật ở trên nên công việc của người giáo viên không
đóng khung trong không gian lớp học và thời gian xác định mà nó thể hiện ở khối
lượng, chất lượng và tính sáng tạo trong công việc.
2. CẤU TRÚC NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN
Nhân cách là tổng thể những phẩm chất và năng lực tạo nên bản sắc và giá
trị tinh thần của mỗi người. Ngày nay, việc đánh giá con người cũng căn cứ vào
phẩm chất và năng lực (hay còn gọi là đức và tài) của họ.
Phẩm chất và năng lực tạo thành thể thống nhất trong nhân cách con người
cụ thể. Hai yếu tố này thống nhất và tác động qua lại với nhau, nhưng cũng có thể
phân biệt tương đối để xem xét, đánh giá. Con người với loại hình hoạt động
chuyên biệt khác nhau, nghề nghiệp khác nhau thì phẩm chất và năng lực của họ có
nội dung, tính chất và yêu cầu khác nhau.
Người giáo viên có một số phẩm chất nhân cách chính sau:
- Thế giới quan khoa học.
- Lý tưởng nghề nghiệp.
- Lòng tin và yêu mến người học.
- Lòng yêu nghề.


- Đạo đức - lối sống.

Năng lực sư phạm của giáo viên gồm:
- Năng lực hiểu học sinh.
-

Năng lực khoa học (tầm hiểu biết).
Năng lực tổ chức.
Năng lực ngôn ngữ.
Năng lực giao tiếp.
Năng lực xử lý các tình huống sư phạm.

3. MỘT SỐ PHẨM CHẤT NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN
3.1. Thế giới quan khoa học
Trong phẩm chất nhân cách của người giáo viên, yếu tố trước tiên là thế giới
quan khoa học. Đây là yếu tố quan trọng trong cấu trúc nhân cách, nó không những
quyết định niềm tin chính trị, mà còn quyết định toàn bộ hành vi cũng như ảnh
hưởng của giáo viên tới người học.
Thế giới quan của người giáo viên là thế giới quan duy vật biện chúng bao
hàm những quan điểm duy vật biện chứng về các quy luật phát triển của tự nhiên,
xã hội và tư duy. Nó chi phối thái độ và cách thức hoạt động của giáo viên đối với
việc lựa chọn nội dung và phương pháp dạy học - giáo dục, việc kết hợp giáo dục
và nhiệm vụ chính trị xã hội, gắn nội dung giảng dạy với thực tiễn cuộc sống cũng
như cách nhìn nhận và đánh giá mọi biểu hiện tâm lý của người.
Thế giới quan khoa học không phải là bản tính tự nhiên của nhà giáo, nó
được hình thành trong quá trình học tập của họ và dưới nhiều ảnh hưởng khác
nhau. Đó là quá trình học tập trong trường phổ thông, trường sư phạm và tự học
suốt đời; học trong trường học và học trong trường đời; trong quá trình học các
môn khoa học thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên và công nghệ, khoa học xã hội và
nhân văn, đặc biệt là Triết học. Có thể nói, thế giới quan khoa học là kim chỉ nan
giúp nhà giáo đi đúng hướng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt động giảng dạy và
giáo dục của người giáo viên. Điều này có thể thấy rõ trong điều 16, Luật Giáo

dục: “Không truyền bá tôn giáo, tiến hành các nghi thức tôn giáo trong các


trường, cơ sở giáo dục khác của hệ thống giáo dục quốc dân, của cơ quan hành
chính nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội, của lực lượng vũ trang nhân dân”.
3.2. Lý tưởng nghề nghiệp
Giáo viên không phải là thợ dạy mà phải là nhà giáo thực thụ. Nếu chỉ là thợ
dạy thì trong chừng mực nào đó có thể dùng máy móc, các phương tiện kỹ thuật
hiện đại để thay thế, nhưng nhà giáo thực thụ thì chỉ có thể thay thế bằng nhà giáo
khác và họ đều đạt chuẩn nhà giáo ở cấp học, bậc học cụ thể. Nhà giáo có những
tiêu chuẩn chung, trước hết họ đều là những người có lý tưởng nghề nghiệp.
Lý tưởng nhà giáo là lý tưởng về sự nghiệp quốc sách hành đầu, là lý tưởng
về sự nghiệp trồng người, là hạt nhân trong nhân cách người giáo viên. Lý tưởng
nghề nghiệp của giáo viên nói chung là đem lại hạnh phúc cho người đi học. Nó là
cái hồn, là hạt nhân trong cấu trúc nhân cách của người giáo viên.
Lý tưởng nghề nghiệp biểu hiện ở niềm say mê nghề nghiệp, tận tuỵ hy sinh
vì công việc, cần cù, có trách nhiệm, có lối sống giản dị và thân tình. Lý tưởng
nghề nghiệp không có sẵn mà được hình thành và phát triển trong quá trình hoạt
động tích cực của người giáo viên. Chính trong quá trình đó, nhận thức về nghề
ngày càng được nâng cao, tình cảm nghề nghiệp ngày càng được sâu sắc.
Vì tác dụng to lớn của lý tưởng nghề nghiệp cho nên mọi việc làm trong
trường sư phạm phải nhằm xây dựng lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh. Nếu
trường sư phạm không giáo dục lý tưởng nghề nghiệp cho giáo sinh thì cũng như
A.X.Makarencô đánh giá là không giáo dục gì hết.
3.3. Lòng tin yêu học sinh và lòng yêu nghề
Yêu quý và tin yêu con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao
quý của con người, riêng đối với người giáo viên thì đây là phẩm chất đặc trưng
trong nhân cách của họ. Có phẩm chất đặc trưng này, người giáo viên sẽ nhận ra
đúng những ưu điểm và hạn chế của người học để từ đó có những biện pháp dạy
học và giáo dục phù hợp với các em.

Lòng tin yêu học sinh và lòng yêu nghề gắn bó với nhau và tạo thành động
lực hoạt động của người giáo viên. Phẩm chất này một khi đã hình thành ở người
giáo viên sẽ thôi thúc họ hành động vì mục tiêu giáo dục học sinh. Họ đầu tư sức


lực và thời gian để trau dồi chuyên môn, năng lực sư phạm nhằm đáp ứng được
những yêu cầu, đòi hỏi của xã hội.
Lòng tin yêu học sinh và lòng yêu nghề tạo niềm vui hạnh phúc nghề nghiệp
cho người giáo viên. Lao động sư phạm của người giáo viên không đem lại lợi
nhuận cho bản thân người giáo viên nhưng lại có lợi ích lớn hơn nhiều vì đó là loại
hình lao động luôn hướng tới chất lượng - hiệu quả giáo dục và sự phát triển nhân
cách người học. Chính vì vậy, càng tin yêu học sinh thì người giáo viên càng có
lòng yêu nghề và càng yêu mến học sinh, càng yêu nghề thì chính người giáo viên
cũng được hưởng niềm vui, hạnh phúc từ công việc, từ nghề nghiệp của mình.
Lòng tin yêu học sinh và lòng yêu nghề của người giáo viên được biểu hiện
ở những điểm cơ bản sau:
- Say sưa, làm việc hết mình, khi cần sẵn sàng hy sinh cả lợi ích cá nhân cho
công việc dạy học và giáo dục.
- Có những biện pháp cụ thể để khắc phục khó khăn, quyết tâm thực hiện bằng
được kế hoạch giáo dục của trường, của lớp mình phụ trách.
- Gần gũi, yêu thường học sinh, có sự quan tâm, chăm sóc cụ thể đối với những
học sinh có hoàn cảnh khó khăn, những học sinh tật nguyền và tin tưởng vào
khả năng và sự tiến bộ của học sinh.
- Sống và làm việc theo tinh thần Tất cả vì học sinh thân yêu. Vì học sinh, vì
nghề dạy học, người giáo viên luôn học tập tu dưỡng để nâng cao trình độ
nghề giáo của mình, đồng thời quan tâm giúp đỡ, hợp tác với đồng nghiệp
trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục.
3.4. Đạo đức - lối sống
Khác với các ngành nghề khác, nghề dạy học có công cụ hành nghề là nhân
cách của người giáo viên, đó là phẩm chất và năng lực, hay là đạo đức - lối sống và

năng lực của người giáo viên.
Giáo viên tác động đến người học không những bằng những hành động trực
tiếp của mình mà còn bằng sự mẫu mực, bằng thái độ và hành vi của chính mình
đối với thế giới xung quanh. Để làm được điều đó, giáo viên phải biết lấy các quy
luật khách quan làm chuẩn mực cho mọi tác động sư phạm của mình, mặt khác
phải có những phẩm chất đạo đức và phẩm chất ý chí cần thiết. Những phẩm chất


đạo đức và phẩm chất ý chí đó là tinh thần nghĩa vụ; tinh thần mình vì mọi người;
tinh thần nhân đạo; lòng tôn trọng con người; thái độ công bằng; tính ngay thẳng,
giản dị, khiêm tốn; tính mục đích, tính nguyên tắc, tính kiên nhẫn, tính tự kiềm
chế, biết chiến thắng thói hư tật xấu; kỹ năng điều khiển tình cảm, tâm trạng của
bản thân cho phù hợp với tình huống sư phạm.
Trong thời đại mới, một số phẩm chất nhân cách dưới đây không những cần
thiết đối với giáo viên mà còn cần được hình thành ở người học:
- Lý tưởng nghề nghiệp.
- Tính trung thực trong cuộc sống và trong hoạt động nghề nghiệp.
- Lòng tin, trước hết là tin vào đạo học và tin vào chính mình.
4. NĂNG LỰC CỦA NGƯỜI GIÁO VIÊN
Năng lực là tổ hợp những thuộc tính tâm lý độc đáo của cá nhân, phù hợp
với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định nhằm đảm bảo hoàn
thành có kết quả hoạt động ấy. Vậy năng lực của người giáo viên là tổ hợp (tổng
hợp) những thuộc tính độc đáo của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của
nghề dạy học, nhằm đảm bảo cho giáo viên thực hiện có kết quả nhiệm vụ giảng
dạy và giáo dục học sinh.
Khi bàn về năng lực của người giáo viên, cần chú một số điểm cơ bản sau:
- Năng lực của người giáo viên không phải là một thuộc tính riêng lẻ hoặc
những thuộc tính rời rạc của cá nhân, mà là tổ hợp những thuộc tính độc
đáo của cá nhân. Những thuộc tính đó có quan hệ qua lại, bù trừ cho
nhau, kết hợp chặt chẽ với nhau.

- Nói tới năng lực của người giáo viên không phải là cách nói chung
chung, mà bao giờ cũng xem xét, nhìn nhận nó qua hoạt động cụ thể nào
đó (năng lực về một loại hình giảng dạy và giáo dục cụ thể nào đó).
Không phải bất cứ một thuộc tính nào của cá nhân cũng phù hợp với yêu
cầu của bất kỳ loại hình hoạt động cụ thể được xác định, cho nên khi nói
tới người giáo viên có năng lực hay không có năng lực về một hoạt động
cụ thể là phải xem xét giữa một bên là yêu cầu của hoạt động và một bên
là các thuộc tính cá nhân.


- Những thuộc tính cá nhân tạo nên năng lực của người giáo viên bao gồm
cả những đặc điểm tâm lý (như các phẩm chất tư duy, các đặc điểm trí
nhớ, sự chú, tưởng tượng ...) và những đặc điểm giải phẫu sinh lí (những
đặc điểm của hệ thần kinh). Tổng hợp các thuộc tính của cá nhân đó có
cấu trúc nhất định và trong quá trình phát triển của năng lực, cấu trúc này
ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.
- Năng lực của người giáo viên có thể phân chia thành ba mức độ:
- Năng lực bình thường.
- Năng lực khá.
- Năng lực tốt (tài năng)\
(Không đề cập tới năng lực yếu vì đã là giáo viên thì không thể có giáo viên
yếu kém về năng lực.)
Căn cứ vào chức năng đặc trưng của nghề dạy học, người ta phân năng lưc
của nguời giáo viên thành các nhóm cơ bản là nhóm năng lực dạy học, nhóm năng
lực giáo dục và nhóm năng lực tổ chức các hoạt động sư phạm.
4.1. Nhóm năng lực dạy học
4.1.1. Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học
Dạy học là một quá trình thuận nghịch (từ giáo viên tới học sinh và người
lại), thống nhất giữa hai hoạt động dạy (của giáo viên) và học (của học sinh).
Trong quá trình đó, chức năng của người giáo viên là tổ chức và điều khiển hoạt

động của học sinh, chức năng của người học là chiếm lĩnh nền văn hó xã hội. Dạy
học chỉ có hiệu quả cao khi quá trình đó thực sự là quá trình điều khiển được. Kết
quả của sự điều khiển phụ thuộc rất nhiều vào việc giáo viên hiểu học sinh. Vì vậy,
năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học và giáo dục được xem là chỉ số cơ
bản của năng lực sư phạm.
Năng lực hiểu học sinh là năng lực thâm nhập vào thế giới bên trong của
người học, có thể hiểu biết tường tận về nhân cách và biết quan sát tinh tế những
biểu hiện tâm lý của các em trong quá trình dạy học và giáo dục.
Năng lực hiểu học sinh được biểu hiện:


- Khi chế biến và trình bày tài liệu học tập, giáo viên biết đặt mình vào địa vị
người học, xác định được khối lượng, nội dung bài học, mức độ khó khăn và
hình thức trình bày sao cho thuận lợi nhất đối với học sinh.
- Căn cứ vào một loạt dấu hiệu quan sát được trong giờ học, giáo viên có thể
hiểu được những biến đổi nhỏ nhất trong tâm hồn học sinh, dự đoán được
mức độ hiểu bài và phát hiện được mức độ hiểu sai lệch của chúng.
- Giáo viên có thể dự đoán được những thuận lợi và khó khăn thi thực hiện
các nhiệm vụ nhận thức.
Năng lực hiểu học sinh trong quá trình dạy học là kết quả của một quá trình
lao động đầy trách nhiệm, thương yêu và đi sâu tìm hiểu học sinh, nắm vững môn
học mình dạy, am hiểu tâm lý học sinh, tâm lý học sư phạm, có các phẩm chất tâm
lý cần thiết như sự tinh ý sư phạm (quan sát), óc tưởng tượng, khả năng phân tích tổng hợp …
4.1.2. Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên
Nhiệm vụ cơ bản của giáo viên là phát triển nhân cách người học nhờ một
phương tiện đặc biệt là tri thứcmà lời người đã tích luỹ được, nhất là những tri thức
khoa học thuộc lĩnh vực giảng dạy của mình. Giáo viên phải nắm vững nội dung,
bản chất cũng như con đường nghiên cứu khoa học mà loài người đã đi qua. Chỉ có
trong điều kiện ấy, giáo viên mới có thể tổ chức cho người học tái tạo và lấy lại
những gì cần thiết cho sự phát triển tâm lý và nhân cách của mình, tạo ra những cơ

sở trọng yếu để hình thành phẩm chất và năng lực của con người mới.
Vì công việc của người giáo viên đồng thời cũng là công việc nhà nhà giáo
dục nên đó là một dạng lao động phong phú và đa dạng. Họ vừa dạy một môn học,
lại vừa bồi dưỡng cho thế hệ trẻ một nhãn quan rộng rãi, những hứng thú và thiên
hướng thích hợp. Do đó, giáo viên cần có một tầm hiểu biết rộng, chứa đựng vốn
tinh hoa văn hoá của dân tộc, của cuộc sống và của khoa học.
Tri thức và tầm hiểu biết của người giáo viên được thể hiện ở:
- Nắm vững và hiểu biết môn học mình giảng dạy.


- Thường xuyên theo dõi những xu hướng, những phát minh trong khoa học
liên quan tới môn dạy, biết tiến hành nghiên cứu khoa học và có những hững
thú lớn lao đối với hoạt động này.
- Có năng lực tự học, tự bồi dưỡng để bổ túc và hoàn thiện tri thức của mình.
Để có tri thức và tầm hiểu biết, người giáo viên cần có hai yếu tố cơ bản:
- Có nhu cầu về sự mở rộng tri thức và tầm hiểu biết (đây là nguồn gốc của
tính tích cực và là động lực của việc tự học).
- Có những kỹ năng để làm thoả mãn nhu cầu đó (phương pháp tự học).
Tri thức và tầm hiểu biết có tác dụng mạnh mẽ để tạo ra uy tín cho người
giáo viên. Vì vậy, đây là yếu tố hết sức quan trọng để người thầy giáo thực hiện vai
trò của nhà giáo dục.
4.1.3. Năng lực chế biến tài liệu học tập
Năng lực chế biến tài liệu học tập là năng lực gia công về mặt sư phạm của
giáo viên đối với tài liệu học tập nhằm làm cho nó phù hợp tối đa với đặc điểm lứa
tuổi, đặc điểm cá nhân học sinh, trình độ kinh nghiệm của các em và đảm bảo
lôgic sư phạm.
Năng lực chế biến tài liệu học tập được thể hiện:
- Giáo viên biết đánh giá đúng tài liệu học tập. Việc đánh giá đúng này sẽ giúp
giáo viên xác lập được mối quan hệ giữa yêu cầu kiến thức của chương trình
với trình độ nhận thức của học sinh để vừa đảm bảo yêu cầu chung về kiến

thức của chương trình, vừa làm cho tài liệu học tập trở nên vừa sức với sự
tiếp thưc của người học.
- Giáo viên biết chế biến tài liệu học tập nhằm làm cho nó vừa đảm bảo lôgic
của sự phát triển khoa học, vừa phù hợp với lôgic sư phạm và thích hợp với
trình độ nhận thức của người học.
Để có được năng lực này, giáo viên phải:
- Có tri thức và tầm hiểu biết tốt.
- Có khả năng phân tích - tổng hợp, hệ thống hoá kiến thức.
- Có óc sáng tạo. Cụ thể:
o Giáo viên biết trình bày tài liệu theo suy nghĩ và lập luận của mình,
cung cấp cho học sinh những kiến thức cô đọng, chính xác, liên hệ


được nhiều mặt giữa kiến thức cũ và kiến thức mới, kiến thức bộ môn
này với kiến thức bộ môn khác, biết liên hệ vận dụng vào thực tiễn
cuộc sống.
o Tìm ra những phương pháp mới, hiệu nghiệm để làm cho bài giảng có
sức lôi cuốn và giàu cảm xúc tích cực.
o Nhạy cảm với cái mới và giàu cảm hứng sáng tạo cũng là yếu tố góp
phần thúc đẩy năng lực chế biến tài liệu học tập.
4.1.4. Nắm vững kỹ thuật dạy học
Kết qủa của sự lĩnh hội tri thức và chiếm lĩnh đối tượng học tập phụ thuộc
vào caá yếu tố:
- Trình độ nhận thức của học sinh.
- Nội dung bài giảng.
- Phương pháp và cách thức tổ chức hoạt động dạy học.
Điều này cho thấy, người giáo viên khi tiến hành hoạt động dạy học phải
biết cách dạy và nâng dần trình độ giảng dạy lên mức năng lực.
Nắm vững kỹ thuật dạy học là nắm vững cách tổ chức và điều khiển hoạt
động nhận thức của người học qua bài giảng. Điều này được thể hiện ở những

điểm cơ bản sau:
- Nắm vững kỹ thuật dạy học mới, tạo cho người học có vị trí là người phát
minh trong quá trình dạy học.
- Truyền đạt tài liệu rõ ràng, dễ hiểu, làm cho nó trở nên vừa sức đối với
người học.
- Gây hứng thú, kích thích người học tự tìm tòi, suy nghĩ một cách tích cực và
độc lập.
- Tạo ra tâm thế có lợi cho việc học tập lĩnh hội kiến thức.
Trong quá trình dạy học, việc hình thành năng lực này không dễ dàng, nó là
két quả của một quá trình học tập nghiêm túc (cả lý luận cơ bản và lý luận nghiệp
vụ) và rèn luyện tay nghề công phu.
4.1.5. Năng lực ngôn ngữ
Có thể khẳng định rằng, giáo viên không thể có năng lực dạy học nếu không
có năng lực sử dụng ngôn ngữ. Trong dạy học và giáo dục, ngôn ngữ của giáo viên


thường hướng vào việc giải quyết một nhiệm vụ nhất định nào đó như truyền đạt
kiến thức mới, kiểm tra kiến thức cũ, biểu thị sự đồng tình hay không đồng tình …
Năng lực ngôn ngữ là năng lực biểu đạt rõ ràng và mạch lạc ý nghĩ và tình
cảm của mình bằng lời nói cũng như bằng hành vi cử chỉ, nét mặt và điệu bộ.
Năng lực ngôn ngữ của người giáo viên được biểu hiện ở cả nội dung và
hình thức, do đó ngôn ngữ của giáo viên phải sâu sắc về nội dung, giản dị về hình
thức.
 Về nội dung
- Từ mỗi đơn vị biểu đạt đến toàn bài giảng, ngôn ngữ phải chứa đựng
mật độ thông tin lớn.
- Lời nói phản ánh được tính kế tục và tính luận chứng để đảm bảo
thông tin được liên tục, lôgic.
- Nội dung và hình thức ngôn ngữ phải thích hợp với các nhiệm vụ
nhận thức khác nhau.

- Nhân cách của người giáo viên là hậu thuẫn vững chắc và duy nhất
cho lời nói của mình.
 Về hình thức
Ngôn ngữ của người giáo viên có năng lực thường giản dị, sinh động, giầu
hình ảnh, có ngữ điệu, sáng sủa, biểu cảm với cách phát âm mạch lạc, trong đó
không có những sai phạm vềmặt tu từ học, về ngữ pháp, về ngữ âm. Vì thế giáo
viên nên trình bày dễ hiểu, có chiều sâu về tư tưởng, có sức lay động tâm hồn
người học. Những lời nói cầu kỳ thường không gây được ấn tượng tốt với người
học. M.I.Calinin đã viết: “Cái tâm trạng bên trong của con người bạn, bạn hãy cố
gắng dùng lời lẽ thông thường để diễn tả. Bằng lời lẽ giản dị, không dùng công
thức có sẵn thì lời nói của bạ sẽ đi thẳng vào tâm hồn trẻ em ”.
Năng lực ngôn ngữ của người giáo viên còn thể hiện ở chỗ nó thúc đẩy một
cách tối đa sự suy nghĩ và hướng sự chú ý của người học vào bài giảng. Vì thế,
giáo viên nên tránh những câu dài, có cấu trúc phức tạp, những thuật ngữ và cách
trình bày khó hiểu. Ngược lại, giáo viên cũng nên cân nhắc không nói những lời
quá ngắn, quá vắn tắt làm cho học sinh khó hiểu. Ngoài ra, người ta còn thấy rằng


×