Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Đề cương ôn tập ngữ văn 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.01 KB, 6 trang )

Đề cương ôn tập Ngữ Văn 9:
ĐỒNG CHÍ- CHÍNH HỮU:

Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, sinh năm 1926 quê ở huyện Can Lộc tỉnh Hà
Tĩnh. Ông đã từng tham gia trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ. Thơ ông
chủ yếu viết về người lính và chiến tranh. Bài thơ “ Đồng chí “ là một trong những sáng tác tiêu biểu của
ông viết về đề tài ấy. Bài thơ in trong tập “ Đầu súng trăng treo” . Với cảm xúc dồn nén, ngôn ngữ thơ
cô đọng hám súc , cô đọng , bài thơ ca ngợi tình đồng chí đồng đội của những người lính trong những
năm kháng chiến chống Pháp .
Mở đầu bài thơ , là lời tâm sự của những người lính về nguồn gốc xuất thân của mình:
“ Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”
Với hai thành ngữ “ nước mặn đồng chua” và “ đất cày lên sỏi đá” đã khái quát được quê hương
của những người lính. Họ ở hai miền quê khác nhau: một người ở mảnh đất vùng cao , còn một người ở
vùng đồng chiêm trũng. Nhưng cả hai đều là những nơi nghèo khó, có cuộc sống lam lũ vất vả. Và trong
gian khổ ấy họ như gặp chính mình, cùng chia sẻ và gần gũi nhau hơn:
“ Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”
Những hình ảnh thơ chân thực giản dị “ Súng bên súng” và “ Đầu sát bên đầu” đã thể hiện được
những tình cảm cao đẹp của người lính bên nhau. Theo tiếng gọi của Tổ Quốc, họ lên đường và trở
thành “ quen nhau” cùng chung chí hướng ,chung nhiệm vụ và chung cả những khó khăn gian khổ, hiểu
nhau như hiểu chính mình. Và từ đó hai tiếng “ Đồng chí” đã vang lên. Đồng chí! Tình cảm bình dị mà
thiêng liêng cao quí. Là nơi hội tụ của những trái tim , những trí óc, nụ cười của những con người giàu
lòng yêu nước. Đồng chí- từ giai cấp mà lên, từ lí tưởng mà có, từ lẽ sống mà thành. Nó thấm đượm bao
tâm tình để lại trong tâm hồn mỗi người một vẻ đẹp của tình người được hình thành qua những thử thách
gian nan.
Đất nước còn trong cảnh đau thương đướ gót giày xâm lược . Những người lính phải xa quê
hương lên đường chiến đấu với kẻ thù. Họ đến với cuộc chiến bằng cả một tinh thần tự nguyện, với một
thái độ dứt khoát, đầy quyết tâm:
“ Ruộng nương anh gửu bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay


Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Hình ảnh ẩn dụ “ Giếng nước gốc đa” cùng biện pháp tu từ nhân hoá “ nhớ người ra lính” đã gửi
gắm tâm tình của người hậu phương với người ra trận. Đó là tình cảm vấn vương , niềm thương nhớ
khôn dễ gì nguôi của những chàng trai lần đầu đi vào quân ngũ. Và phải chăng chính tình yêu nỗi nhớ ấy
sẽ là điểm tựa tinh thần cho người lính có thêm quyết tâm chiến đấu chống kẻ thù?
Từ những cảm xúc sâu sắc về tình đồng chí, nhà thơ tiếp tục đưa ta đến với hiện thực gian khổ
của cuộc chiến đấu mà người lính phải trải qua:
“ áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt gí
Chân không giày”
Những hình ảnh sóng đôi đã thể hiện sự kề vai sát cánh, gian khổ có nhau của người lính nơi
chiến trường. Những gian khổ mà họ phải trải qua cũng chính là những thiếu thốn của cách mạng lúc
bấy giờ. Họ lại còn phải trải qua những trận sốt rét rừng quái ác. Song điều đáng ngợi ca là họ vẫn luôn
bên nhau, cùng vượt qua những gian nan vất vả:
Miệng cười buốt gía
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”
Trong cái giá rét ốm đau vẫn ánh lên nụ cười đầy lạc quan tin tướng. Và trong gian khổ những
người lính vẫn đoàn kết bên nhau. Những “ Nụ cười “ trong giá buốt, những cử chỉ” thương nhau tay
nắm lấy bàn tau” áy chính là niềm tin , tình yêu , là tinh thần đoàn kết một lòng của người lính. Và phải

2


chăng chính những biểu hiện cao đẹp về đời sống tinh thần ấy sẽ là nguồn động lực , là niềm tin giúp họ
chiến đấu và chiến thắng kẻ thù.
Bài thơ khép lại với những câu thơ khắc hoạ chân dung của người lính , giản dị mà vô cùng cao
đẹp:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”
Trong hoàn cảnh của núi rừng hoang vắng, những người lính ấy vẫn bên nhau chẳng thấy đau
thương, chỉ thấy một phát hiện đầy thú vị bất ngờ “ Đầu súng trăng treo” – một hình ảnh vừa như thực
vừa như ảo đầy chất thơ. “ Súng và trăng” tượng trưng cho chất chiến sĩ và tâm hồn nghệ sĩ. Súng và
trăng tượng trưng cho cuộc chiến đấu để bảo vệ hoà bình. ánh trăng lửng lơ trên đầu súng hay cuộc
chiến đấu của dân tộc ta là cuộc chiến chính nghĩa , bảo vệ bầu trời bình yên cho Tổ quốc Việt Nam?
Có thể nói với cảm xúc thực của một người lính nhà thơ đã ca ngợi tình cảm cao đẹp của
những anh bộ đội cụ Hồ trong cuộc kháng chiến chống Pháp.Bài thơ là một bức tượng đài tuyệt đẹp về
người lính, ở họ luôn toả sáng một tình cảm chân thực mà cao quí thiêng liêng – tình đồng chí đồng đội.
Tình cảm ấy sẽ là mạch nguồn chảy mãi trong mỗi thế hệ Việt Nam.

3


BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH- PHẠM TIẾN DUẬT.

Phạm Tiến Duật là một nhà thơ đồng thời cũng từng là người lính hoạt đông trên tuyến đường
Trường Sơn . Ông là cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ thời chống Mĩ. Thơ ông tập trung thể hiện
hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ với giọng thơ sôi nổi , trẻ trung , hồn nhiên tinh
nghịch. Trong số đó phải kể đến bài thơ “ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được sáng tác năm 1969 in
trong tập “ Vầng trăng quầng lửa”. Bài thơ ca ngợi tư thế hiên ngang , tinh thần lạc qua dũng cảm , bất
chập khó khăn gian khổ và ý chí chiến đấu giải phóng Miền Nam của những người lính lái xe trên tuyến
đường Trường Sơn thời chống Mĩ.
Mở đầu bài thơ nhà thơ giới thiệu với chúng ta về một hiện tượng thật độc đáo mà cũng rất
thực,rất phổ biíen trong cuộc chiến khốc liệt lúc bấy giờ:
Không có kính không phải vì xe không có kính.
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”
Điệp từ “không” và từ “bom” được lặp đi lặp lại trong hai câu thơ là cách lí giải rất tự nhiên , rất
giản đơn của người lính về một hiện tượng không bình thường “ xe không kính”. Những chiếc xe do
bom đạn của quân thù tàn phá đã trở thành thô sơ trần trụi.Và điều đó càng chứng tỏ sự nguy hiểm và

khốc liệt của cuộc chiến lúc bấy giờ.
Song điều đáng ngợi ca là từ trong sự hiểm nguy ấy những người lính lái xe vẫn ung dung , lạc
quan tiến về phía trước với một tư thế hiên ngang thoải mái:
Ung dung buồng lái ta ngồi.
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng”
Từ láy “ ung dung” và điệp từ “nhìn” đã thể hiện thái độ thản nhiên bình tĩnh của các anh trên
những chiếc xe không kính. Phải chăng chính trong sự mất mát đó đã cho các anh có được cái nhìn thoải
mái hơn? Và phải chăng chỉ có các anh – thế hệ thanh niên của thời đại mới , những người có trái tim
yêu nước mới có được thái độ tự tin và phong thái ung dung lạc quan đến vậy!
Ngồi trên những chiếc xe không kính đang tiến về Nam, những người lính với tâm hồn nhạy cảm đã
hướng ra bên ngoài thả hồn hoà cùng thiên nhiên, cảm nhận được mọi khó khăn gian khổ nơi núi rừng:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái”
Những cảm giác của người lính được nhà thơ miêu tả rất chân thực mà ý nghĩa. Biết bao những
hình ảnh thiên nhiên được nhắc đến trong thơ “gió, con đường , sao trời, cánh chim...” cùng vời nghệ
thuật nhân hoá” gió vào xoa mắt đắng” đã làm cho con người và thiên nhiên trở nên gần gũi gắn bó,
càng chứng tỏ tâm hồn lãng mạn yêu đời của người lính lái xe. Hình ảnh “ con đường chạy thẳng vào
tim” ngoài ý nghĩa tả thực còn gợi sự liên tưởng về con đường cách mạng đang chảy trong trái tim giàu
nhiệt huyết của các anh, thể hiện ý chí quyết tâm của các anh tiến về phía trước giải phóng Miền Nam
thống nhất nước nhà.
Gian khổ cứ tiếp nối gian khổ, khó khăn cứ chồng chất khó khăn, những người lính vẫn hiên ngang tiến
về phía trước:
Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
..., ...
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”
Tiếng “ ừ” vang lên giữa những dòng thơ cùng với nghệ thuật nhân hoá “ như người già” “ như

ngoài trời” chính là bản lĩnh vững vàng, là nghị lực phi thường vượt qua mọi khó khăn của người lính
.Trước sự nghiệp cứu nước cao cả vinh quang thì mọi gian khổ đó cũng chỉ là “ chuyện vặt” . Có lẽ vì

4


thế mà họ luôn cất lên những nụ cười sảng khoái, họ còn “ bắt tay nhau” truyền cho nhau hơi ấm của
tình đồng đội gắn bó keo sơn:
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”
Chính từ trong “bom rơi”họ đã đến bên nhau tạo nên sức mạnh. Và cũng chính từ “cửa kính
vỡ rồi” ấy mà tình cảm họ dành cho nhau tự nhiên và thoải mái hơn. Cái cử chỉ “ bắt tay” rất tự nhiên ấy
đã tạo nên sức mạnh- sức mạnh của tình đoàn kết yêu thương cùng quyết tâm chiến đấu và chiến thắng
kẻ thù. Tình cảm ấy còn được khẳng định như tình anh em ruột thịt:
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.
Những hình ảnh thơ chân thực , gân gũi mà đẹp đẽ “ bếp, võng, bát đũa, gia đình...” Đẹp về
tình cảm về cách nhìn cách nghĩ của những người lính với nhau. Bao khăng khít nghĩa tình họ dành cho
nhau đều được toả sáng từ những hình ảnh đó . Để rồi chính “gia đình” ấy đã tiếp thêm cho các anh nghị
lực niềm tin khi nhìn về phía trước thấy trời xanh như mở rộng thêm ra . Hình ảnh “ Trời xanh thêm” là
một hình ảnh ẩn dụ độc đáo. Trời xanh ấy là hoà bình độc lập đang đến gần, là thắng lợi đang đợi các
anh ở phía trước. Niềm tin chiến thắng luôn dạt dào chảy trong trái tim yêu nước của các anh.
Kết thúc bài thơ, hình ảnh những chiếc xe không kính một lần nữa lại được nhắc lại như một
điệp khúc của sự hiểm nguy để từ đó khẳng định một tình yêu cao đẹp:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
Điệp từ “ không” được lặp lại 3 lần trong thơ cùng với những hình ảnh chân thực được nhắc
đến “ kính, đèn, mui,thùng...” để khẳng định sự mất mát do bom đạn quân thù. Những chiếc xe mang
trên mình đầy vết thương của chiến tranh mà vẫn hiên ngang ra trận với một sức mạnh phi thường. Mặc
cho bom rơi đạn nổ, mặc cho khó khăn cứ chồng chất ,những người chiến sĩ vẫn tiến về phía trước theo
tiếng gọi của Miền nam. Bởi trong họ luôn toả sáng một trái tim yêu nước. Hình ảnh “ trái tim” là hình
ảnh hoán dụ độc đáo đã hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của những chiến sĩ vận tải Trường Sơnnhững người lính của thời đại mới với một quyết tâm:
Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
“ Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật là một bài thơ tiêu biểu cho
chất giọng trẻ trung sôi nổi cho chất lính được bắt nguồn từ tâm hồn phơi phới của thế hệ chiến sĩ Việt
Nam thời chống Mĩ mà chính nhà thơ đã sống , đã trải nghiệm. Từ sự giản dị của ngôn từ, sự sáng tạo
của hình ảnh, sự linh hoạt của nhạc điệu , bài thơ đã khắc hoạ, tôn vinh vẻ đẹp, phẩm giá con người ,
người chiến sĩ cua thời đại mới. Tất cả những thành công về nội dung và nghệ thuật ấy đã đem đến
thành công cho bài thơ này.

5


KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ- NGUYỄN KHOA ĐIỀM.

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ những năm
kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông thường thể hiện những cảm xúc dồn nén, giàu chất suy tư . Bài thơ “
Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” là một trong những sáng tác tiêu biểu của ông. Bài thơ được
sáng tác năm 1971 in trong tập “Đất và khát vọng” . Bài thơ là khúc hát yêu thương , khúc ca đầy khát
vọng của người mẹ Tà ôi trong những năm kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Bài thơ được mở đầu bằng điệp khúc như tiếng gọi yêu thương của nhà thơ với em bé đang
ngủ ngon trên lưng mẹ:
Em Cu- tai ngủ trên lưng mẹ ơi

Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ”
Điệp khúc của lời thơ ấy được lặp đi lặp lại 3 lần trong toàn bài thơ tạo nên một giọng điệu trữ
tình đặc sắc như một lời nhắn nhủ, là cử chỉ yêu thương của nhà thơ vỗ về em bé ,để từ đó gợi cho em
về hình ảnh người mẹ vừa địu em trên lưng vừa tham gia sản xuất:
Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội
Nhịp chày nghiêng giấc ngủ em nghiêng
Mồ hôi mẹ rơi má em nóng hổi
Vai mẹ gầy nhấp nhô làm gối
Lưng đưa nôi và tim hát thành lời”
Công việc mẹ làm vất vả nhưng thật ý nghĩa “ Mẹ giã gạo mẹ nuôi bộ đội”. Tình cảm của mẹ
không chỉ dành cho con mà còn dành cho những người chiến sĩ đang tham gia chiến đấu. Những hình
ảnh “mồ hôi, má, vai ,lưng , tim” vừa có ý nghĩa tả thực vừa là hình ảnh hoán dụ độc đáo tượng trưng
cho tấm lòng của mẹ dành cho con. Từng cử chỉ , mỗi động tác mẹ làm đã trở thành nhịp điệu ru con
đưa con vào giấc ngủ. Những giọt mồ hôi, hay nhịp đập từ trái tim mẹ đã toả hơi ấm cho con . Và con đã
ngủ ngon theo từng cử chỉ ấy . Và phải chăng tình mẫu tử thiêng liêng bền chặt cũng được bắt nguồn từ
đó? Và điều kì diệu là từ trên lưng mẹ em xoa dịu những gian nan khó nhọc mà mẹ đang trải qua.
Trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống tiếng hát yêu thương con của người mẹ cứ được ngân lên
và cũng từ đó hình ảnh người mẹ được gợi lên cao đẹp hơn:
Ngủ ngoan a- kay ơi, ngủ ngoan a- kay hỡi
Mẹ thương a- kay. mẹ thương bộ đội
..., ...
Mẹ thương a- kay. mẹ thương làng đói
...,...
Mẹ thương a- kay, mẹ thương đất nước
Điệp khúc yêu thương cứ đều đặn được vang lên như khẳng định tình mẫu tử đã trở thành qui
luật. Song tình cảm của mẹ thật đáng ngợi ca và cảm phục bởi tình yêu thương con luôn được mẹ đặt
chung với tình yêu buôn làng,đất nước. Và đó cũng chính là tình cảm cao đẹp luôn truyền chảy trong
tâm hồn người phụ nữ Việt Nam.
Từ tiếng hát yêu thương , bài thơ còn gửi gắm những khát vọng của mẹ về tương lai cuộc sống
của con cùng tương lai cuộc sống cho dân tộc đồng bào:

“ Mặt trời của bắp thì nằm trên đồi
Mặt trời của mẹ em nằm trên lưng”
Không gian bao la của núi rừng Thừa Thiên như được mở ra với ánh sáng của mặt trời
chiếu tỏ. Sự sống của cỏ cây , của hạt bắp nhờ ánh sáng của mặt trời ấy mà đơm hoa kết trái. Còn cuộc

6


đời của mẹ được thắp sáng bởi “ mặt trời” là con. Hình ảnh “ Mặt trời” thứ hai là hình ảnh ẩn dụ độc
đáo. Con cũng giống như mặt trời, con là tia sáng vĩnh hằng trong cuộc đời mẹ. Con là sự sống niềm
vui, là tương lai hi vọng của mẹ trong cuộc đời. Mẹ chịu bao gian lao vất vả nhưng mẹ luôn hi vọng vào
tương lai và cuộc sống của con. Mẹ luôn mong cho con khôn lớn thành người. Cuộc đời con sẽ như mặt
trời luôn toả sáng. Thế mới biết ước mơ của mẹ gửi gắm vào con lớn lao biết nhường nào. Và phải
chăng mẹ có thể vượt qua mọi gian nan vất vả bởi trong mẹ luôn nuôi hi vọng vào cuộc sống của con?
Song ước mơ của mẹ được nhân lên bội phần khi ước mơ ấy được mẹ đặt chung với ước mơ
cho dân tộc đồng bào:
Con mơ cho mẹ hạt gạo trắng ngần
Mai sau con lớn vung chày lún sân
..., ,,,
Con mơ cho mẹ hạt bắp lên đều
Mai sau con lớn phát mười Ka lưi
..., ...
Con mơ cho mẹ được thấy Bác Hồ
Mai sau con lớn thành người tự do”
Điệp khúc “ con mơ cho mẹ” được lặp đi lặp lại hay chính là ước mong tha thiết cho con lớn
khôn để góp phần xây dựng cuộc sống ! Những hình ảnh “ Hạt gạo trắng ngần, hạt bắp lên đều” hay
chính là mong ước của mẹ cho dân làng không còn nghèo đói? Sức khoẻ của con “ vung chày lún sân” ,
“ phát mười Ka- lưi” hay khát vọng của mẹ về sự lớn mạnh của con người quê hưong trong cuộc sống?
Và còn ý nghĩa thiêng liêng hơn khi mẹ ước “ được thấy Bác Hồ”. Bởi được gặp Bác là Bắc - Nam được
thống nhất, mà đất nước thống nhất là đân tộc đồng bào không còn bóng quân xâm lược “ thoả lòng Bác

mong , nước non này ngàn năm vững bền”. Người mẹ ấy đã nói hộ niềm mong ước của toàn thể nhân
dân, của muôn triệu trái tim yêu nước Việt Nam đang ngày đêm mong chiến thắng kẻ thù.
Bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một
sáng tác nghệ thuật độc đáo. Cả bài thơ là lời ru yêu thương của nhà thơ hoà cùng lời ru của mẹ. Âm
điệu của lời thơ ngọt ngào chan chứa, giọng thơ trìu mến thiết tha . Hình ảnh thơ vừa chân thực , cụ thể
vừa có ý nghĩa khái quát giàu cảm xúc. Bài thơ là một sáng tac trữ tình có sự kết hợp của nhiều yếu tố
tự sự, miêu tả, biểu cảm. Tất cả đã góp phần làm nên sự độc đáo cho bài thơ giàu tình yêu thương này.
HÌNH ẢNH NGƯỜI MẸ TRONG “ KHÚC HÁT RU NHỮNG EM BÉ LỚN TRÊN LƯNG MẸ” – NGUYỄN KHOA ĐIỀM

Bài thơ “ Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã
khắc hoạ thành công hình ảnh người mẹ dân tộc Tà Ôi- một người mẹ vừa có tình yêu thương con
vừa có tình yêu bộ đội , yêu buôn làng và yêu đất nước. Trong cuộc sống lao động vất vả , mẹ luôn
phải địu con trên lưng đi làm nương rẫy. Và tiếng hát yêu thương con từ trong hoàn cảnh ấy cứ được
ngân lên. “Mẹ thương a- cay mẹ thương bộ đội: mẹ thương a-cay mẹ thương làng đói ; mẹ thương a- cay
mẹ thương đất nước”tình cảm của mẹ vừa thân thương ấm áp vừa đẹp đẽ đáng ngợi ca bởi tình yêu
thương con luôn được mẹ đặt với tình yêu dân tộc yêu đồng bào. Không những thế người mẹ ấy còn
là người có tinh thần kháng chiến. Hình ảnh người mẹ “ chuyến lán , đạp rừng, địu em đi để giành trận
cuối” là biểu hiện của tinh thần bất khuất, kiên cường là tình yêu nước thiết tha . Sống trong hoàn cảnh
vất vả khó khăn nhưng người mẹ Tà Ôi còn giàu những ước mơ và khát vọng. Mẹ mong cho con “
Vung chày lún sân” mẹ còn mong “ hạt bắp lên đều” và “ được thấy Bác Hồ”cho con “ được thành
người tự do”. Mọi ước mơ khát vọng của mẹ đều cao đẹp bởi tình cảm riêng cho con luôn được đặt
trong tình cảm chung cho bản làng và cho dân tộc. Hình ảnh người mẹ với cuộc sống và những vẻ đẹp
tâm hồn trong bài thơ chính là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam: giàu tình yêu thương con và cũng
giàu tình yêu đất nước. Có thể nói với bài thơ “ Khúc hát ru” Nguyễn khoa Điềm đã khắc hoạ
thành công hình ảnh người mẹ dân tộc yêu con yêu nước thạt đáng ngợi ca.

7




×