Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Văn mẫu lớp 12 tổng hợp các bài văn mẫu bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm (8)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.46 KB, 23 trang )

VĂN MẪU 12: ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM
4 BÀI VĂN MẪU “BÌNH GIẢNG BÀI THƠ ĐẤT NƯỚC CỦA
NGUYỄN KHOA ĐIỀM”

BÀI MẪU 1:
Đất Nước - hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả,
trang trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết
bao hồn thơ cất cánh. Văn học kháng chiến 1945 - 1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào,
mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn
khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ, cao đẹp.
Đất Nước - hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta vừa cao cả,
trang trọng, vừa xiết bao bình dị, gần gũi. Hình tượng Đất nước đã khơi nguồn cho biết
bao hồn thơ cất cánh. Văn học kháng chiến 1945 - 1975 trong mạch chảy ngầm dạt dào,
mãnh liệt của cuộc sống không chỉ bắt được những âm vang náo nức cùa thời đại mà còn
khắc tạc nên tượng đài nghệ thuật Đất nước thật nên thơ, cao đẹp. Đất nước thật nên thơ,
cao đẹp. Đất nước hóa thân trong một mảnh hồn quê Kinh Bắc đậm đà màu sắc văn hóa
dân gian, tình tứ, dịu dàng mà quằn quại dưới gót giày xâm lược trong thơ Hoàng Cầm;
Đất nước tươi đẹp mà đau thương với sức vươn khỏe khoắn “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”
sống động hiện hình lên trong thơ Nguyễn Đình Thi.
Từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, trường ca Mặt đường khát vọng của
Nguyễn Khoa Điềm là tiếng ca sôi nổi nhiệt tình cất lên từ trái tim tuổi trẻ xuống đường
tranh dấu, trong đó những trang thơ khắc hình Đất nước là những nốt nhạc trong trẻo,
xanh tươi nhất, rung động lòng người nhất, được tỏa sáng dưới một cái nhìn mới mẻ đầy
tính phát hiện của thi nhân. Xuyên suốt đoạn trích Đất Nước, tư tưởng “Đất Nước của
nhân dân” nhuần nhụy trong hình thức “Đất Nước của ca dao thần thoại” như một sợi chỉ
đỏ tạo nên mạch chảy đằm sâu, tha thiết của cảm xúc nhà thơ.


Giản dị như một lẽ tự nhiên, một vầng trăng cố tích huyền ảo gợi lên trong thế
giới‘ngày xửa ngày xưa”, một điệu hồn mềm mại trong sáng vút ngân tự rái tim nồng nàn
yêu thương của mẹ trong những lời ru đong đầy vành nôi... tất cả thắm vào tâm hồn mỗi


con người tự bao giờ. Dòng nước ngọt ngào của tình mẹ tắm mát hồn ta, ươm lên mảnh
đất tâm hồn ta những hạt giống tốt lành đầu tiên để từ đó nảy mầm xanh tươi vươn lên
đón nhận nắng gió của cuộc đời. Thế giới tuổi thơ - thế giới của trí tưởng tượng bay bổng
ấy, thật kì diệu, gắn bó sâu xa tựa như trở thành hơi thở, thành máu thịt nuôi dưỡng tâm
hồn. Và cũng chẳng biết tự bao giờ, tình yêu quê hương đất nước đậm đà, từ anh nôi của
mẹ, thành hình trong ta tự trong tiềm thức... Văn học dân gian nói chung, ca dao thần
thoại nói riêng chính là linh hồn dân tộc. Có thể nói đây là bộ phận văn học trong sáng,
giàu sức sống nhất và cũng biểu hiện rõ nhất điệu hồn dân tộc - một điệu hồn hồn hậu,
tươi duyên và đằm thắmkhông ai khác chính nhân dân - tập thế những người lao động trong quá trình lao động cải tạo thiên nhiên, là tác giả cùa nền văn học dân gian dồi dào
sáng tạo ấy. Với những xúc động chân thành mãnh liệt của một hồn thơ nảy nở từ nguồn
sữa dân gian dạt dào, với sự cảm hiếu sâu sắc của một thanh niên tri tuệ có vốn văn hóa
sâu rộng, phong phú đang trực tiếp trải nghiệm trong cuộc đấu tranh sôi nổi, quyết liệt
của nhân dân dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù Nguyễn Khoa Điềm tìm về với cội
nguồn “ca dao, thần thoại” để bật lên ánh sáng tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, vừa
độc đáo mới mẻ, vừa thể hiện cái nhìn chính xác, toàn diện, có chiều sâu cùa nhà thơ về
đất nước, về nhân dân. Tư tưởng chủ đạo ấy thấm nhuần từ cảm xúc đến việc sử dụng chi
tiết nghệ thuật bài thơ. Đi suốt đoạn trích, ta bắt gặp một thế giới vừa gần gũi, thân quen.
vừa kì diệu sâu xa khơi dậy hồn đất nước. Và chương V của bản trường ca Mặt đường
khát vọng được tắm đẫm, được bao bọc bởi bầu không khí văn hóa dân gian gắn bó máu
thịt với mỗi tâm hồn, trong đó âm hưởng “đất nước của "nhân dân” là nốt nhạc chủ đạo
ngân vang suốt bản đàn “đất nước”.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”... mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn


Đất Nước lớn lén khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Những câu thơ mở đầu đoạn trích, thật tự nhiên và sâu lắng, nói với ta bao điều
giản dị mà cũng thật thiêng liêng, thật thấm thía. Một thế giới cổ tích, truyền thuyết xưa
như ùa về, sống dậy trong tâm hồn người đọc: câu chuyện

Trầu Cau với tình người nồng hậu. thủy chung, biểu tượng đạo lí sáng đẹp yêu
thương của dân tộc; sự tích Thánh Gióng như khúc anh hùng ca tráng lệ tự hào, biểu
tượng sức mạnh thầu kì của nhân dân Việt Nam từ buổi bình minh non trẻ dựng nước và
giữ nước. Hơi thơ trải dài, trầm lắng ngân nga như tiếng lòng đất nước dội về tự thuở
nào. gợi dậy quá trình sinh thành và tồn tại của đất nước. Nếu như trong cổ tích, truyền
thuyết xưa, nhân dân là những cô Tấm. những chàng Thạch Sanh... hay hóa thân trong vẻ
đẹp Thánh Gióng, Sọ Dừa., thì trên trang thơ Nguyễn Khoa Điềm, nhân dân hiện lên thân
thương, gần gũi qua dáng hình cùa bà. của mẹ, của “dân mình”. Còn đất nước, không
phải là một hình người khổng lồ xa lạ. hay là một khái niệm trừu tượng mà là những gì
giản dị, thân thiết trong cuộc sống hàng ngày của mỗi con người. Đất nước hiện hình từ
câu chuvện cổ tích cùa mẹ, miếng trầu của bà đến cái kèo, cái cột trong nhà, hạt gạo ta ăn
hàng ngày. Tất cả những vật thân quen, bình dị ấy trong dời sống vật chất, cùng với
những phong tục tập quán trong đời sông tinh thần của nhân dân: ăn trầu, trồng tre, búi
tóc sau đầu, cách đặt tên người..., cá đấn tình yêu của con người (“cha mẹ thương nhau
bằng gừng cay muối mặn”) đều làm nên khuôn mặt dân tộc - một dân tộc nghĩa tình, đằm
thắm như trong câu ca dao gợi lên trong ta:
Tay nâng chén muối, đĩa gừng
Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau
Chất dàn gian, hồn dân tộc như thấm vào từng câu từng chữ. Đất nước bắt nguồn
từ những cái hàng ngày gầu gũi, lại là những cái bền vững sâu xa, đã hình thành và tồn
tại từ ngàn xưa trong đời sống dân tộc; từ những phong tục tập quán xa xưa như không có
tuổi, lại là sự tiếp nối thiêng liêng, ấm đượm qua nhiều thế hệ. Đó chính là chiều sâu văn
hóa - lịch sử của đất nước thể hiện ngay trong cuộc sống gần gũi hàng ngày của nhân


dân. Có thề nói, bằng những hình tượng cụ thể, sinh động giàu sức khơi gợi. Nguyễn
Khoa Điềm đã đưa ra định nghĩa mới mẽ, độc đáo về đất nước. Những câu thơ mở đầu
như khúc dạo thiết tha đưa người đọc vào thế giới nghệ thuật cùa đoạn thơ, vừa gần gũi,
thân quen, vừa huyền ảo diệu kì tự xa xưa.
Không những thế, đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm còn gắn với ki niệm

riêng tư của mỗi con người, biến thành máu thịt của mỗi người. Tách Đất và Nước thành
hai yêu tố, nhà thơ soi chiếu mối quan hệ Đất Nước với không gian và thời gian, với lịch
sứ và hiện tại. Đất Nước là mảnh đất quen thuộc, gắn bó với mỗi con người:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm.
Đất Nước còn là núi sông rừng bể bao la, là không gian sinh tồn và phát triển cùa
bao thế hệ người Việt. Và thật thiêng liêng, Đất Nước là phứng nhân ghi dấu ki niệm tình
yêu:
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước lù nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Câu thơ thể hiện ngòi bút tài hoa, tinh tế của thi nhân. Ta như lắng nghe điệu bài
ca dao “khăn thương nhớ ai" dìu dặt trong bài thơ. Kỉ niệm đẹp đẽ. xúc động cùa tình yêu
như khơi dậy xôn xao, lấp lánh mỗi dòng thơ, ẩn sau đó là biết bao xao xuyến, bâng
khuâng của “cái thuờ ban đầu lưu luyến ấy”. Vì thế, ấn tượng về sự gắn bó thân thiết với
mỗi cá nhân cùa đất nước càng khác ghi sâu đậm.
Những câu thơ sau lại thấm nhuần chất dân gian nhờ cách sử dụng linh hoạt chọn
lọc chất liệu văn hóa dân gian:
Đất là nơi “con chìm phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Theo mạch suy tưởng, tác giả tiếp tục cảm nhận đất nước ở bình diện lịch sử với
huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng", truyền thuyết


Hùng Vương với ngày giỗ tổ. Những câu thơ gợi cảm xúc trang trọng, thiêng liêng khi
hướng về nguồn cội cha ông. Những giá trị truyền thống, phong tục, văn hóa bền vững ấy
tạo nên mạch ngầm chảy từ quá khứ. nối liền hiện tại và tương lai:
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hàng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ.
Cảm nhận đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã phát hiện mối quan hệ biện giải giữa
con người và đất nước, tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm”:
Trong anh và em hôm nay Đểu có một phần đất nước
Một “Đất Nước của ca dao thần thoại” đi vào tâm hồn con người từ thuở trong nôi,
một “Đất Nước của Nhân dân” gắn bó gần gũi, thiêng liêng trong cuộc sống hàng ngày,
đất nước đã quấn quyện trong hơi thở, máu thịt mỗi người Những câu thơ đang từ tính
chất độc thoại, hướng nội chuyển sang đối thoại ,đặt ra trách nhiệm của mỗi cá nhân đối
với đất nước.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời.. Câu thơ dù là hình thức mệnh lệnh, nhưng với
giọng điệu thiết tha, với cảm xúc mãnh liệt bật lên tự trái tim, từ sự cảm hiểu sâu sắc về
đất nước, điệu thơ có sức cuốn hút. thôi thúc mạnh mẽ, tác động đến tâm hồn và trí tuệ
người đọc. Mỗi con người gắn bó máu thịt với đất nước nên phải biết bảo vệ, giữ gìn đất
nước, hơn nữa phải hi sinh vì đất nước khi vận mệnh dân tộc lâm nguy đế mảnh đất mãi
màu mỡ. xanh tươi những khúc hát tự do như người con gái trong bài thơ


Quê hương cùa Giang Nam: “Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất có một
phần xương thịt của em tôi”. Trong hoàn cảnh đất nước đang gồng mình dưới mưa bom
bão đạn của kẻ thù, những vần thơ cùa Nguyễn Khoa Điềm càng có sức lay động sâu xa
lòng người, khơi dậy trong mỗi người ngọn lửa yêu thương, chiến đấu, hi sinh bởi trách
nhiệm với đất nước chính là trách nhiệm với chính bản thân mình, với truyền thống văn
hóa ngày xưa của nhân dân. Những câu thơ viết về chính trị mà không khô khan chính vì
“phát khởi tự trong lòng'’ thi nhân, thấm nhuần cảm xúc dạt dào hứng khởi và nói với ta
biết bao điều thiêng liêng về đất nước, về trách nhiệm bản thân đối với đất nước.
Đi suốt đoạn thơ và nhập sâu vào cảm xúc nhà thơ, tư tưởng “đất nước của nhân
dân” càng sáng lên rạng rờ. Đất nước được nhìn từ phương diện địa lí, lịch sử văn hóa trớ

nên trang trọng, đẹp đẽ lạ thường.
Những câu thơ như trái rộng mãi cùng cái nhìn, toàn cảnh thiên nhiên đất nươc từ
Bắc xuống Nam, từ biển lên rừng. Đôi mắt thi nhân tưởng như muốn ôm trọn những cảnh
quan mĩ lệ, kì thú của non sông:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chổng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa cùa Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Vốn văn hóa dân gian sâu rộng trải ra trêu mỗi trang thơ với những phát hiện mới
mẻ,sâu sắc và tinh tế của nhà thơ. Những chất liệu dân gian như cổ tích, truyền thuyết...
từ sự tích núi Vọng Phu đến hòn Trống Mái, từ chuyện Thánh Gióng đến sự tích chín
mươi chín con voi quây quần thuần phục nơi đất Tổ Hùng Vương, từ những sự tích về


núi Bút, non Nghiên, thắng cảnh Hạ Long hay những địa danh Nam Bộ... mỗi danh lam
thắng cảnh tươi đẹp của đất nước gắn với truyền thuyết riêng, tạo nên một thế giới cố tích
huyền diệu. Nhưng có lẽ nét sâu sắc hơn. tài hoa hơn cả chính ở cái nhìn “đất nước của
nhân dân” nên mỗi cảnh quan đất nước đều in dấu hình dáng con người: nhưng người vợ
nhớ chồng, cặp vợ chồng yêu nhau, người học trò nghèo, những người dân nào. . cả đến
những con vật gần gũi thân quen của cuộc sông con người (con cóc, con gà quê hương)
cũng góp phần tô điểm vẻ đẹp dáng hình đất nước, nhân dân không chỉ bằng những sinh
hoạt của mình, cắt nghĩa các truyền thuyết. mà còn sáng tạo ra danh lam thắng cảnh đẹp
đẽ, mang hồn thiêng núi sông, dân tộc. Thièn nhiên đất nước hiện lên chính là một phần
máu thịt, tâm hồn của nhân dân. Từ đó, tác giá khái quát, nâng lên như một suy tư giàu
chất triết luận:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình một ao ước một lối sồng ông cha.
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đì đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
Vượt qua thời gian đằng đẵng, nhìn xa vào bốn ngàn năm đất nước, có bề lịch sừ
hào hùng cùa đất nước như sống dậy. Ca dao xưa nói về nỗi nhớ quê hương qua những
chi tiết thật bình dị của bữa cơm đạm bạc và bóng dáng dầm sương dãi nắng.
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau ĩnuống, nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao
Nhìn lại lịch sứ dài lâu của đất nước, ta thường khắc ghi các triều đại, ngợi ca
những anh hùng ghi danh trong trang sử vàng của dân tộc.
Những cảm quan “Đất Nước của Nhân dân” như sợi chì đỏ xuyên suốt, chi phối
cái nhìn lịch sử của nhà thơ. Nhân dân là người sáng tạo ra đất nước, chiến đấu bảo vệ đất


nước. Những cụm từ lấyra trong ca dao, tục ngữ: “nuôi cái cùng con”, “giặc đến nhà đàn
bà cũng đánh” tạo cho lời thơ sự nhuần nhụy hòa quyện rất gợi cảm. Nốt nhấn của khúc
ca ca ngợi nhân dân chính là điểm sáng ngời trong phẩm chất nhân dân:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ dã làm ra Đất Nước.
Nhân dân. trong quan niệm Nguyễn Khoa Điềm, là tập thể những người anh hùng
vô danh. Họ sống giản dị, chết bình tâm, chiến đấu không phải để mang tên cho lịch sử
mà vì một lẽ thiêng liêng, bình dị và cao cả: bảo vệ đất nước. Câu thơ ngắn, cô đúc
nhưng lại chính là sự dồn nén của cảm xúc tác phẩm,ấn chứa biết bao xúc động chân
thành trước những hi sinh thầm lặng, những đóng góp lớn lao của nhừng người vô danh,
hiền lành và giản dị.
Từ cái nhìn đầy tính phát hiện, tác giả nhân mạnh vai trò của nhân dân. Nhân dân,

bằng máu xương của mình đã chiến đấu bảo vệ gìn giữ đất nước, họ là những anh hùng
chiến trận. Nhân dân, bằng lao động sáng tạo đã dựng xây đất nước, giữ gìn và truyền lại
cho các thế hệ Việt Nam mọi giá trị văn hóa, phẩm chất tinh thần: từ hạt lúa với nền văn
minh lúa nước, ngọn lửa tạo nên bước tiến của loài người đến những của cải tinh thần
quý báu như phong tục tập quán, giọng nói cha ông, tên xã, tên làng... họ là những anh
hùng văn hóa. Nhân dân đã ấp iu qua nhiều thế hệ nhưng phẩm chất cao đẹp đúc kết
trong những câu ca dao, tục ngữ đi vào lòng người, dễ thuộc dễ nhớ. Đó là cái gốc rễ mọi
tình cảm đẹp, tình yêu thương, thể hiện trong câu ca dao hóm hỉnh:
Yêu em từ thuở trong nôi
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru
Đó là sự quý trọng công sức lao độmg:
Cầm vàng mà lội qua sông


Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng
Đó còn là tinh thần bất khuất quật cường và lòng căm thù giặc sâu sắc:
Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng trê nên gậy, gặp đâu đánh què
Sử dụng linh hoạt sáng tạo chất liệu ca dao của văn học dân gian, dường như có
một sự đồng diệu và gặp nhau trong tâm hồn cha ông ngàn xưa và thế hệ hiện tại. Phải
thấu hiểu, trân trọng giá trị văn hóa dân tộc thì tác giả mới có cái nhìn sâu sắc, mới mẻ ấy
trong quan niệm “Đất Nước cũa Nhân dân”.
Cảm hứng thơ dồn dập dâng trào đến đỉnh điểm từ đó bật lên điểm sáng cốt lõi
trong quan niệm đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại.
Đoạn trích khép lại bằng hình ảnh dòng sông đưa nước từ những phương trời xa
tắm mát tâm hồn ta và vẻ đẹp cùa thiên nhiên, con người đất Việt “gợi trăm màu trên
trăm dáng sông xuôi”. Phải chăng đó cũng chính là dòng sông của truyền thống lịch sử
chảy về tự ngàn xưa, từ đó bồi đắp phù sa cho tâm hồn muôn thế hệ? Và lời thơ kết rung

động lòng người bởi nó bật lên từ sự xúc động chân thành của trái tim thi sĩ: “Ta nghẹn
ngào đất nước Việt Nam ơi!”. Cái “nghẹn ngào” của nhà thơ thật đáng quý, đáng trân
trọng, đó là kết tinh của những cảm xúc mãnh liệt và suy tư, chiêm nghiệm sâu sắc về đất
nước, về vai trò to lớn và vé đẹp cao cả của nhân dân, là tiếng lòng chân thành của cả thế
hệ hướng tới nguồn cội dân tộc, tới truyền thông văn hóa, lịch sử vững bền mà nhân dân
là người sáng tạo, bảo tồn và truyền lại cho con cháu mai sau.
Có thế’ gọi Đất Nước là một tùy bút thơ của Nguyễn Khoa Điềm, trong đó tác giả
không đơn thuần viết theo dòng chảy cảm xúc mà còn huy động vào thơ kho hiểu biết dồi
dào trong tính tổng hợp về địa lí, lịch sử, văn hóa dân gian mà tâm điểm là văn học dân
gian. Đoạn trích được xây dựng theo phương thức luận đề, chất “tư duy lôgic” dễ làm thơ


mất đi chất “tươi xanh nhựa sống”, khô khan, chỉ tác động vào lí trí. Hơn nữa với vốn
kiến thức phong phú tổng hợp khiến thơ dễ sa vào ước lệ, khô cứng như một bài diễn ca
xã hội học. Nhưng không! Viết về đất nước, về một nguồn mạch cảm hứng lớn của thi ca
nói chung và thơ cách mạng nói riêng, Nguyễn Khoa Điềm dã chiết xuất chất liệu văn
hóa dân gian, đưa vào ngôn ngữ thơ những chi tiết hiện thực gần gũi, phổ biến, không chỉ
quen thuộc trong nhận thức mà còn có sức lay động tình cảm sâu xa đối với mọi tâm hồn
Việt Nam. Việc sử dụng khá dày, đậm nhưng cũng rất linh hoạt sáng tạo nguồn văn học
dân gian tạo nên thế giới thơ bình dị, gắn bó máu thịt với tâm hồn người đọc và dễ đi vào
lòng người bởi ngôn ngữ dân gian hồn hậu, trong sáng. Chính sách sử dụng ngôn ngữ này
tạo sắc điệu thẩm mĩ và không khí riêng cho đoạn thơ, đồng thời thể hiện rõ nét tư tưởng
“Đất Nước của Nhán dân” bởi nhân dân đã sáng tạo ra nền văn học dân gian giàu sức
sống, thân quen gần gũi với mỗi người dân đất Việt.
Mặt khác, chính cám xúc chân thành, mãnh liệt của thi nhân mang lại cho nhà thơ
âm hưởng tha thiết, ngân vang, với nhiều giọng điệu lúc thì nồng nhiệt say mê, khi lại
trầm lắng như trò chuyện, tâm tình về những nhận thức, cảm xúc về đất nước, nhân dân.
Mỗi chi tiết, hình ảnh đưa ra đều thấm nhuần tâm hồn nhà thơ. khi thì là cảm nhận riêng
tư, lúc lại chứa chan cảm xúc như hồi ức, một ki niệm. Sự kết. hợp hài hòa chất trữ tình
và giọng chính luận cho đoạn thơ vẻ đẹp riêng độc đáo, thơ không xa lạ mà đi vào lòng

người tiếng nói tình cảm xúc động chân thành mà vẫn thế hiện chất trí tuệ. Chúng ta trải
nghiệm bản thân của một nhà thơ - chiến sì lăn mình trong khói lửa chiến tranh cùng với
vốn văn hóa sâu rộng và tình cảm yèu thương đất Inước trân trọng, ca ngợi nhân dân đã
tỏa sáng tư tưởng, tâm hồn thi nhân.
Cũng viết về đề tài đất nước, thơ ta chống Mĩ không chỉ kế tục truyền thống yêu
nước từ văn học giai đoạn trước và trực tiếp nhất là thơ ca chống Pháp mà còn có đóng
góp làm phong phú, sâu sắc thêm nguồn cảm hứng dạt dào này. Nguyễn Trãi trước kia
từng thây được vai trò “lật thuyền mới biết dân như nước”, Phan Bội Châu từng viết “dân
là dân nước, nước là nước dân”, nhưng phải đến Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng “Đất
Nước của Nhân dân” mới ’ - hiện rõ nét và được nâng lên thành cảm hứng nghệ thuật của


thơ ca chống mỹ Bằng những khám phá, phát hiện về chiều sâu văn hóa - lịch sử đất
nước, sự gắn bó giữa truyền thống quá khứ và hiện tại, với con đường đi riêng: con
đường của văn học dân gian gần gũi, kì diệu, tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm Thấm vào
từng hình tượng, ngôn ngữ với mối liên tưởng, tường tượng phong phú, độc đáo và thông
minh. Có thế nói đây là phần tinh túy nhất, sâu sắc nhất trong trường ca Mặt dường khát
vọng cùa Nguyễn Khoa Điềm.
Vãn học chống Mì cũng có những cám nhận sâu sắc về nhân dân, đặt nền tảng cho
lòng yêu nước: Nguyễn Duy suy nghĩ về nhân dân qua một Hơi ấm ổ rơm- hay hình
tượng Tre Việt Nam, còn Thanh Thảo trong trường ca Những người đi tới biển đã viết
lên những lời ca xúc động nhất, về nhân dân:
Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ suốt đời
Và cứ thế nhân dân cao vời vợi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời
Nhưng có lẽ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm với nhạc điệu “Đất Nước của thần
thoại” để sáng lên tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” rất độc đáo là nốt nhạc ngân vang
trong bản hòa điệu của thơ ca kháng chiến, thể hiện tâm hồn cảm xúc thi nhân trước vẻ
đẹp văn hóa dân tộc, tư tướng ấy đến nay còn tươi nguyên giá trị của nó bởi tránh nhiệm

“hóa thân cho dáng hình xứ sở" là vấn đề muôn đời của thơ ca và cuộc sống.


BÀI MẪU 2:
Đối với mỗi chúng ta, khi nhắc về đất nước, ta thường đồng nhất khái niệm ấy với
những điều thiêng liêng, to lớn, xa xôi, trừu tượng. Nhưng khi đọc Đất nước của Nguyễn
Khoa Điềm trích trong trường ca Mặt đường khát vọng nhận ra rằng đất nước không trừu
tượng, xa xôi như thế, đất nước gần gũi bình dị, thân thương ,ân tình và mỗi người đều
tìm thấy đất nước trong chính mình. Nó không chỉ là mảnh đất đã ấp ủ, chắt chiu nuôi ta
lớn mà hơn thế, đất nước đã trở thành một phần hoà chảy cùng dòng máu nóng trong cơ
thể, thành những nhịp đập trong trái tim ta và từ đó trong mỗi chúng ta đều có một phần
Đất nước. Điều giản dị mà thiêng liêng này được Nguyễn Khoa Điềm viết:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất nước
Trong lửa đạn chiến tranh, trong sự anh dũng hi sinh của đồng bào mình, sự tàn
bạo của quân thù, con người tra sẽ cảm nhận rõ hơn và sâu sắc hơn về đất nước, về truyền
thống cha ông… Trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm đã viết
trong một hoàn cảnh như thế để rồi từ đó ngân lên những câu thơ thật xúc động, những
lời thơ thật yêu thương về Đất mẹ Việt Nam.
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi,
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”
…mẹ thường hay kể………
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.
Chỉ có một chương trong trường ca, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện một sức cảm
nhận khá tinh tế và toàn diện về hai chữ “Đất nước” thiêng liêng. Để rồi khi đọc xong tôi
đã có cho mình một định nghĩa thật cụ thể về Đất nước. Đất nước ư? Có gì xa lạ đâu. Hãy
nhìn vào lịch sử, vào cuộc sống quanh bạn và nhìn vào cả tâm hồn của bạn nữa. Đất nước
chính là nơi đó. Đất nước là phong tục tập quán, là bản sắc văn hoá, là truyền thống muôn
đời của cha ông. Đất nước là mảnh đất dưới chân ta, là ngọn núi, con sông… của mình



dưới trời Và đặc biệt, Đất nước luôn ở bên ta, ở trong ta trong mỗi nấc thang cuộc đời
đấy thôi.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất nước
Khi ta cất tiếng khóc chào đời, mẹ cha ta đã giành cho ta tình yêu thương vô hạn,
Đất nước đã giành cho ta những cái “ngày xửa ngày xưa” qua giọng kể của bà, những lời
ru “ầu ơ” ngọt ngào bên cánh võng.
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngảy xưa”…mẹ thường hay kể”
Ca dao, dân ca, những câu chuyện cổ tích, ở đó có tâm hồn cha ông, có điệu hồn
dân tộc mà mỗi bé thơ khi cất tiếng khóc chào đời đều được lắng nghe và bay lên cùng
ước mơ cổ tích trong ngần. Những câu chuyện cổ, những lời ru ấy là tiếng vọng về của
cha ông ta, đã ấp ủ, vỗ về ta trong giấc ngủ say nồng của tuổi thơ và hơn thế còn tạo cho
la một niềm tin. Niềm tin ấy có thể sẽ theo ta suốt cuộc đời – niềm tin về hạnh phúc con
người:
Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật
Của bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
Dầu phải khi cay đắng dập vùi
Rằng cô Tấm cũng về làm Hoàng hậu
Ta dần lớn lên, chập chững những bước đi đầu tiên trên mặt đất và bập bẹ hai
tiếng “ mẹ, cha” ngọng ngịu. Tiếng nói đầu tiên là tiếng “mẹ” yêu thương, tiếng nói đầu
liên của ta cũng là tiếng nói của đất nước của cha ông ta có tự bao đời:
Họ truvền giọng điệu cho con tập nói
Tiếng nói ấy chính là “Hồn thiêng sông núi” (Huy Cận), là “Tấm lụa hứng vong
hồn cha ông ta” (Hoài Thanh). Ngay từ tiếng nói đầu tiên ấy, ta đã trở thành con người
đất Việt, “hồn thiêng sông núi” đã bắt đầu hình thành mạch ngầm trong huyết quản của
ta.


Đất nước cũng lớn lên cùng những nhận thức về cuộc sống xung quanh chúng ta,

cũng những hiểu biết về những giá trị văn hoá của cha ông để lại bởi vì đất nước có gì xa
lạ đâu. Nó là những câu ca dao, dân ca, những câu chuyện những phong tục tập quán đẹp
đẽ, lâu đời… Hiểu biết, trân trọng những gì cha ông để lại chính là ta hiểu về đất nước và
đất nước nằm trong ta tự bao giờ. Chính vì thế, Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát thật
chính xác.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất nước
Phần “Đất nước” trong ta không ngừng lớn lên từ sự quan sát và cảm hiểu thiên
nhiên, lịch sử, truyền thống đất nước, từ sự rung động đẹp đẽ trước một tác phẩm văn học
dân tộc. Phải nói rằng, ngay từ khi ta sinh ra văn học đã giúp ra rất nhiều trong việc hình
thành nuôi dưỡng phần đất nước trong tâm hồn chúng ta. Khi còn nằm trong nôi, đó là
những câu ca dao, cổ tích… Lớn lên một chút là những tác phẩm văn học được học và
tiếp xúc trên ghế nhà trường và trong cuộc sống. Khi tôi được làm quen với “phần đất
nước” của Nguyễn Khoa Điềm – chương “Đất nước” – tôi cảm thấy mình lớn hơn nhiều
trong nhận thức về núi sông, con người quê tôi, trong nhận thức về bản thân mình, về
tiếng nói của dân tộc tôi. Nguyễn Khoa Điềm đã giúp tôi làm phong phú, đa dạng phần
đất nước trong tôi nhờ tác phẩm của ông.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất nước
Câu thơ thật nhẹ nhàng mà thấm thìa. Với chương V – “Đất nước” Nguyễn Khoa
Điềm cho ta gặp gỡ “phần Đất nước” trong ông, cho ta liếp xúc, hiểu thêm về một đất
nước kiên cường, bất khuất mà cũng nhân ái chan hoà; thấm thía, hơn một chân lí “Đất
nước này là đất nước Nhân dân”. Có thể, trước đây ta đã từng biết đến hình núi Vọng Phu
cô đơn mà thuỷ chung; đến đất tổ Hùng Vương nhiều truyền thống, đến hòn Trống Mái
bất diệt với trời xanh… nhưng liệu đã một lần ta tự hỏi những công trình đó là do đâu mà


có, liệu đã có một lần nào ta nhìn cảnh đẹp mà nghĩ đến người làm nên nó, Nguyễn Khoa
Điềm đã giúp bù đắp khoảng trống ấy.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

…Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đến cho la một cái nhìn theo chiều sâu dân tộc. Không
dừng lại ở cảnh thiên nhiên thuần tuý, ông còn nghĩ đến những con người làm nên nó –
những con người bình thường, vô danh. Có thể tôi đã đến Hạ Long nhưng chưa bao giờ
tôi nghĩ đến được “những con cóc, con gà quê hương đã góp cho Hạ Long thành thắng
cảnh”. Tôi đã thấm thìa một bài học về cách nhìn sự vật ở chiều sầu của nó. Tác giả đã
giúp tôi hiểu sâu sắc về những nơi tôi đã đến, biết thêm những nơi tôi chưa đến. Tôi chưa
một lần được đến với Quang nam – đến với Bút non Nghiên nhưng trong tôi đã có hình
ảnh về những ngọn núi đẹp – gắn với truyền thuyết về những người học trò nghèo. Tôi
biết thêm về dòng sông cửu Long xanh thẳm – bóng hình của những con rồng lộng lẫy;
biết thêm về Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm nơi Nam Bộ xa xôi. Trong tôi hình
thành một ước mong sẽ có một ngày được đến những nơi đó ngắm nhìn cảnh đẹp và thấm
thía hơn công lao của nhân dân muôn đời.
Nguyễn Khoa Điềm đã nêu bật lên được một chân lí “đất nước của nhân dân”.
Giản dị vậy thôi nhưng nó hàm chứa trong đó một tư tưởng lớn:
Và ở đâu trên khắp ruỗng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Không chỉ có Vịnh Hạ Long, có núi Vọng Phu, có đền Hùng… mà ở đáu trên đát
nước Việt Nam này cũng in dấu bàn tay lao động của con người, cũng ghi lại tập tục,
những ước mơ về cuộc sống của ông cha… Để có được cuộc hôm nay là bốn nghìn năm
dựng xây và bảo vệ Tổ quốc của biết bao thế hệ, bao con người. Nhân dân ta đã tạo nên
Đất nước, gìn giữ mảnh đất bằng máu xương của mình, mang lại linh hồn cho nó bằng
đời sống phong phú của. Nhờ có con người như thế mới có được Việt Nam hôm nay:
Con gái, con trai bàng tuổi chúng ta


Cần cù, làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Khi hoà bình, bằng bàn tay lao động, họ mang lại màu xanh bất tận cho đất ; thân

yêu. Nhìn lại bất cứ thời kì nào, ta cũng thấy hình ảnh họ “cần cù, làm và anh dũng chiến
đấu. Bài thơ đã buộc tôi phải quay lại nhìn vào lịch sử ở một góc độ khác để rồi từ đó
trong tôi có một sự biết ơn và kính yêu vô hạn với những con người như thế. Tôi chưa có
một cái tên cụ thể của họ, tôi chỉ biết gọi họ bằng hai tiếng “Nhân Dân” bình dị như
chính cuộc đời họ vậy.
Không chỉ dựng xây đất nước, Nhân Dân chính là người gìn giữ, bảo vệ và làm
trong sáng hơn truyền thống, điệu hồn dân tộc.
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyển di dân
Đã biết bao thế hệ đi qua, chúng ta có Việt Nam hôm nay. Nhưng thế hệ nay phải
làm gì để đất nước ta đến được “những tháng ngày mơ mộng”
Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Đoạn trích đã mang đến cho tôi những nhận thức và tinh cảm mới mẻ về Đất
nước. Không chỉ có thế, đoạn trích còn chỉ rõ cho tôi và bạn – thế hệ hôm nay – phải làm
gì cho đất nước, non sông. Mảnh đất này đã thấm biết bao xương máu, mồ hôi và nước
mắt của thế hệ đã qua, mảnh đất này là sự hoá thân của bao người con gái, con trai. Điều
có ý nghĩa duy nhất mà chúng ta có thể làm được để thể hiện lòng biết ơn với thế hệ đã


qua là phải học tập để dựng xây, gìn giữ, bảo vệ những thành quả muôn đời của cha ông
ta, để những đứa trẻ khi sinh ra nếu có được cái hạnh phúc lớn lao, có được “niềm tin rất
thật” về “hạnh phúc có trên đời”, để cho mỗi người Việt Nam có “một phần Đất Nước”
cho riêng mình thật phong phú, đa dạng mà cũng thật giản dị, gần gũi.

Chương V – “Đất Nước” được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian
Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rất linh hoạt và sáng tạo “phần Đất Nước” về ngôn ngữ

dân tộc của mình. Đó không chỉ là cách sử dụng là thủ pháp nghệ thuật mà qua đó nó tập
trung thể hiện tư tưởng chủ đạo, linh hồn của đoạn trích “Đất Nước của Nhân Dân”. Đọc
đoạn trích, tôi thấy vốn liếng về văn hoá dân gian của mình thật quá ít ỏi và tài năng của
Nguyễn Khoa Điềm trong việc sử dụng có sáng tạo ngôn ngữ dân tộc thật tài tình. Có khi
ông trích nguyên văn một câu ca dao
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cú ngư ông móng nước biển khơi
Nhưng có khi chỉ bằng rất ít từ ông đã gợi tả lên một truyền thuyết:
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Ấu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Hay:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước…
Là người Việt Nam, ai chẳng hiểu về truyền thuyết Rồng Tiên bất hủ câu chuyện
của một đôi vợ chồng yêu nhau mà đầy bất hạnh đớn đau, để cho đất nước một dáng hình
Vọng Phu khắc khoải đợi chờ.


Bằng một câu thơ, Nguyễn Khoa Điềm vừa gợi được một câu ca dao, vừa được bài
học qua cầu ca dao đó:
Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lộ
Đọc đoạn trích, ta càng hiểu hơn vẻ giàu đẹp và tinh tế của tiếng Việt thể diễn tả
được nhiều biến thái của tầm trạng con người.
Đoạn trích là những câu thơ có phần tự do nhưng vẫn đi vào lòng người thấm thía
ngay cả ở những lời tưởng khô cứng nhất.
Em ơi em, đất nước là máu xươngcủa mình
Phải biết gắn bó và san sẻ.
Đọc những dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm ta hiểu hơn, yêu hơn, thương hơn
đất nước của mình. Yêu hơn quá khứ, hiện tại và hy vọng nhiều ở tương lai. Ta lớn lên,

tự tin vững bước trên đường đời để xây dựng đất nước hiện tại và tương lai xứng với tầm
vóc của lịch sử của quá khứ. Ta thấy tự hào, thân thương và thiêng liêng hơn khi biết
trong mình có một phần đất nước.


BÀI MẪU 3:
1. Giới thiệu chung về bài thơ Đất nước
– Giới thiệu về: nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm “Mặt đường khát vọng” và
đoạn thơ Đất Nước:
+ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca kháng
chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy
tư sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam.
+ Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị –
Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm
chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc kháng
chiến chống Mĩ.
+ Đoạn thơ trên thuộc chương V – chương “Đất nước” của bàn trường ca; thể hiện
những nhận thức sâu sắc về đất nước, trong đó nổi bật là hình ảnh đất nước hiện lên trong
quan hệ gắn bó với mỗi con người.
– Dẫn dắt nhận định: Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử
dụng vừa quen thuộc vừa mới lạ.
2. Chi tiết
Nhà thơ đã vận dụng thành công chất liệu văn hóa dân gian. Những chất liệu ấy
vừa quen thuộc (gần gũi với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam) vừa mới lạ (với
những sáng tạo mới mẻ, hấp dẫn).
– Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, tất cả đều gần gũi, quen
thuộc với mỗi con người Việt Nam
+ Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc (miếng trầu, tóc
bới sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi,…).
+ Có ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích.



– Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo:
+ Vận dụng ca dao, tục ngữ nhưng dẫn dắt khéo léo, khi lấy nguyên vẹn toàn bài
khi chỉ mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những nét đẹp trong sinh hoạt và tâm
hồn con người Việt Nam. Đó là sự chăm chỉ chịu thương, chịu khó; là tấm lòng thủy
chung son sắt trong tình yêu; là sự duyên dáng, ý nhị trong từng lời ăn tiếng nói…
Ví dụ:
~ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” lấy ý từ bài ca dao “Tay nâng
chén muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” hay “Muối ba năm muối
hãy còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta tình nặng nghĩa dày/ Có xa nhau
đi nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa”
~ “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
+ “Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” lấy ý từ bài ca
dao “Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất…”
+ Liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa trong truyền thuyết, cổ tích dân
tộc để làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của đất nước, những truyền thống quý báu của nhân dân
ta đồng thời khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong việc “làm ra Đất Nước”
Ví dụ:
Truyến thống đoàn kết, tinh thần cảnh giác cao độ trước kẻ thù “dân mình biết
trồng tre mà đánh giặc”, tinh thần uống nước nhớ nguồn “Hằng năm ăn đâu làm đâu/
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”. Hoặc tô đậm sự trù phú tươi đẹp của quê hương:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
...
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không
gian nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng


tượng, bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng

và cảm xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích này.
Bằng việc sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian, bên cạnh việc lí giải, định
nghĩa Đất Nước ở nhiều bình diện [không gian, thời gian lịch sử, truyền thống văn hóa]
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn làm nổi bật một tư tưởng mới mẻ: “Đất Nước của nhân
dân/ Đất Nước của ca dao thần thoại”
3. Đánh giá chung
– Nhận định được nêu ra trong bài là một cơ sở quan trọng để khám phá, tìm hiểu
tác phẩm nói chung và đoạn thơ nói riêng. Quan đoan trích, ta thấy được tư tưởng sâu
sắc, mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ kết tinh tư tưởng yêu nước, niềm tự hào
dân tộc của nhà thơ, cũng là đóng góp lớn của ông đối với thơ ca dân tộc. Đoạn thơ
khẳng định tài năng sáng tạo, sự am hiểu tường tận về văn hóa dân gian của tác giả.
– Thành công đòi hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm một vốn sống, vồn văn hóa
phong phú. Một sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về Đất nước, về Nhân Dân. Đồng thời đời
hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có một tài năng, một bản lĩnh của người cầm bút
– Qua đoạn thơ, để lại bài học sâu sắc về cuộc sống: biết trân trọng những giá trị
văn hóa dân gian; bài học về sáng tạo nghệ thuật: đem đến những sáng tạo, mới mẻ từ
những giá trị gần gũi, quen thuộc.


BÀI MẪU 4:
Thuộc thế hệ nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, Nguyễn Khoa
Điềm đã có nhiều tác phẩm xuất sắc. Với phong cách trữ tình chính luận, giàu suy tư, xúc
cảm dồn nén nhất là khi viết về đất nước con người Việt Nam, các tác phẩm của ông đều
được đánh giá cao. Và "Đất nước" là một ví dụ điển hình. Đoạn trích "Đất nước" là phần
đầu của chương V trích Trường ca Mặt đường khát vọng. Trường ca này viết về sự thức
tỉnh tuổi trẻ vùng đô thị tạm chiến miền Nam, về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế
hệ mình xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược.
Đoạn trích "Đất nước" được sáng tác từ sự cảm nhận về cội nguồn sâu xa của đất
nước trên các phương diện: văn hóa, lịch sử, địa lý. Tác giả khẳng định: "Đất nước này là
của nhân dân". Từ đó thức tỉnh tuổi trẻ xuống đường chống đế quốc Mỹ. Toàn bộ bài thơ,

Nguyễn Khoa Điềm lần lượt lý giải những câu hỏi: Đất nước có từ bao giờ? Đất nước là
gì? Ai đã làm nên đất nước? Xuyên suốt bài thơ, tác giả làm sáng tỏ những câu hỏi trên.
Tác giả đã đưa người đọc trở về với cội nguồn của đất nước. Nhà thơ lặng ngắm và quan
sát đất nước dung dị đời thường. Đặc biệt tài năng sử dụng tài tình chất liệu văn hóa dân
gian được thể hiện rất rõ trong tác phẩm: "cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn", "tóc
mẹ thì bới sau đầu", "nơi em đánh rơi chiếc khăn tring nỗi nhớ thầm"….. Chất liệu ca dao
dân ca được tác giả sử dụng rất sáng tạo, gợi cảm giác gần gũi với người đọc.
Cách định nghĩa về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng rất độc đáo. Nhà thơ
định nghĩa bằng cách triết tự. Đó là trả lời các câu hỏi: đất là gì? Nước là gì? Rồi ghép lại
đất nước là gì. Bằng cách giải thích chúng trên chiều dài lịch sử, không gian, thời gian,
địa lý… nhà thơ đã cho người đọc thấy được đất nước không phải là cái gì đó xa xôi mà
kết tinh hóa thân trong mỗi con người. Từ đó, tác giả nêu ra ý thức trách nhiệm mà mỗi
người cần phải có. Đất nước là một phần cơ thể, "là máu xương của mình" vì vậy mà phải
biết bảo vệ nó. Bảo vệ đất nước là bảo vệ chính mình. Đó là định nghĩa đất nước.
Lí giải ai đã làm ra đất nước, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục soi ngắm trên các
phương diện địa lý, lịch sử, văn hóa. Ông khẳng định: "Đất nước này là của nhân dân".


Và điều đặc biệt ở những câu thơ của ông trong tác phẩm luôn có chất liệu ca dao với
những nét đẹp tiêu biểu: say đắm trong tình yêu, quí trọng tình nghĩa hay kiên trì bền bỉ
trong đấu tranh. Cái mới của nhà thơ không chỉ dừng lại ở việc sử dụng chất liệu ca dao.
Ông còn sáng tạo hơn đó là chỉ lựa chọn một số ý trong ca dao chứ không trích dẫn
nguyên văn toàn bộ. Điểm sáng của tác phẩm này chính là tư tưởng đất nước là của nhân
dân. Đất nước là đề tài quen thuộc. Tư tưởng đất nước là của nhân dân đã từng xuất hiện
trong quan niệm của thời đại trước. Như Nguyễn Trãi trong Bình Ngô Đại Cáo từng viết:
"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Hay Phan Bội Châu: "dân là dân nước, nước là nước
dân". Đến những nhà thơ cùng thời, Nguyễn Đình Thi: "Ôi đất nước những người áo vải
– Đã đứng lên thành những anh hùng". Nguyễn khoa điềm lại thể hiện tư tưởng ấy ở
nhiều phương diện như lịch sử, văn hóa, địa lý… Ông đã có những cách nói mới, phát
hiện mới.

Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm cũng thể hiện nét trữ tình – chính luận của phong
cách Nguyễn Khoa Điềm. Phong cách này khiến cho triết lý không khô khan mà đi vào
lòng người. Để đạt được điều đó, bài thơ đã được nhất quán về giọng điệu. Một giọng
điệu tâm tình tha thiết, lắng sâu như cuộc trò chuyện của chàng trai và cô gái yêu nhau.
Hình ảnh được sử dụng trong thơ cũng rất chi tiết, gần gũi và đời thường. Đặc biệt là việc
sử dụng chất liệu được rút ra từ kho tàng văn học dân gian. Tất cả những yếu tố này đã
khiến cho bài thơ được người đọc đón nhận đông đảo.
Tóm lại, "Đất nước" là một tác phẩm hay viết về chủ đề quê hương đất nước con
người Việt Nam. Tác phẩm không chỉ có giá trị về mặt văn chương nghệ thuật mà còn
chứa đựng tư tưởng đúng đắn, có tác động lớn đến khả năng vận động mọi người xuống
đường đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược mà ngay từ đầu đã là mục đích sáng tác bài
thơ của Nguyễn Khoa Điềm.



×