Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Văn mẫu lớp 12 tổng hợp các bài văn mẫu bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm (9)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.35 KB, 10 trang )

VĂN MẪU 12: ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM
3 BÀI VĂN MẪU CHỨNG MINH CÁC NHẬN ĐỊNH VỀ BÀI THƠ
ĐẤT NƯỚC CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
VĂN MẪU 1:
ĐỀ: NGUYỄN KHOA ĐIỀM ĐÃ DÙNG MỘT ĐẤT NƯỚC CỦA “CA DAO THẦN THOẠI”
ĐỂ THỂ HIỆN MỘT TƯ TƯỞNG “ĐẤT NƯỚC CỦA NHÂN DÂN”,
ANH/CHỊ HÃY LÀM RÕ NHẬN ĐỊNH TRÊN.

Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn
Khoa Điềm về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước
và giữ nước lâu dài của dân lộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kỳ chống
Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân thông qua
những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân, Đất nước
của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V
của bản trường ca này.
Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ
trữ tình - chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị:
Không phải ai khác mà chính nhân dân - những người vô danh - đã kiến tạo và bảo vệ,
giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống vãn hoá, lịch sử hàng ngàn đời của
dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà bằng hình
ảnh gợi bằng giọng thơ sôi nổi tha thiết của mình. Thông qua những vần thơ kết giữa cảm
xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh
thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ trong những năm chống
Mĩ.
Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu chương
V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của cảm hứng của
mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư tưởng đó được
nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện: trong chiều dài của
thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn hoá, phong tục, tâm hồn
và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện, thống nhất chặt chẽ với nhau
trong một “hệ quy chiếu”. Đất nước của nhân dân vốn là linh hồn của cả bài thơ.


Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không khí
của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu
của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán
đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những chất liệu ấy đã
tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ gợi lên


được cái hồn thiêng của non sông, đất nước. Điều đó không đơn thuần chỉ là thủ pháp
nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo vãn học dân gian. Có thể nói,
tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ - đã thấm nhuần từ quan
niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của bài thơ.
Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định
nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh
động, đầy gợi cảm.
Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi,
thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình lên qua
những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo, cái cột, qua hạt
gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.
Đất nước không phải là cài gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận
mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn
đề dân tộc nói lên như một vân đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không
phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san xẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn dời.
Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng

ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối quan
hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử, truyền thông,
phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu
Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca dao quen thuộc, ở
đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền thống, vãn
hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống của mỗi con người
Những giá trị tình thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ, hiện tại với
tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:
Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.


Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ -ngày dỗ tổ.
Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung
làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất
Nước.
Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam
thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái,
những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà
được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là
những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không tuổi:
“Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu
nhau nên hòn Trống Mái”. “Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút non
Nghiên”. Cả đến “Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”,
ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên
như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước

này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này, từ
những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái
quát sâu sắc:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi,
Châng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử
bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới
những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người
vô đanh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người
bình dị, vô danh đó:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau
những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa, tiếng
nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm


xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư
tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo:
Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao, thần thoại.
Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và
sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương
tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo nên được
những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm xúc chân
thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về

đất nước.


VĂN MẪU 2:
ĐỀ: ANH (CHỊ) HÃY LÀM SÁNG TỎ NHẬN ĐỊNH: CHẤT LIỆU VĂN HÓA DÂN GIAN
TRONG ĐOẠN THƠ ĐẤT NƯỚC ĐƯỢC SỬ DỤNG VỪA QUEN THUỘC VỪA MỚI LẠ
(TRÍCH TRƯỜNG CA MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG –
NGUYỄN KHOA ĐIỀM)

1. GIỚI THIỆU CHUNG
- Giới thiệu về: nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, tác phẩm “Mặt đường khát vọng” và đoạn
thơ Đất Nước:
+ Nguyễn Khoa Điềm là một trong những cây bút tiêu biểu trong nền thơ ca kháng chiến
chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư
sâu lắng của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam.
+ Trường ca "Mặt đường khát vọng" được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm
1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm miền
Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình trong cuộc kháng chiến chống
Mĩ.
+ Đoạn thơ trên thuộc chương V - chương "Đất nước" của bàn trường ca; thể hiện những
nhận thức sâu sắc về đất nước, trong đó nổi bật là hình ảnh đất nước hiện lên trong quan
hệ gắn bó với mỗi con người.
- Dẫn dắt nhận định: Chất liệu văn hóa dân gian trong đoạn thơ Đất Nước được sử dụng
vừa quen thuộc vừa mới lạ.
2. CỤ THỂ
Nhà thơ đã vận dụng thành công chất liệu văn hóa dân gian. Những chất liệu ấy vừa quen
thuộc (gần gũi với cuộc sống của mỗi con người Việt Nam) vừa mới lạ (với những sáng
tạo mới mẻ, hấp dẫn)
- Chất liệu dân gian được sử dụng rất đa dạng, phong phú, tất cả đều gần gũi, quen thuộc
với mỗi con người Việt Nam



+ Có phong tục, lối sống, tập quán sinh hoạt, vật dụng quen thuộc (miếng trầu, tóc bới
sau đầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo xay, giã, giần, sàng, hòn than, con cúi,...).
+ Có ca dao, dân ca, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích.
- Cách vận dụng độc đáo, sáng tạo:
+ Vận dụng ca dao, tục ngữ nhưng dẫn dắt khéo léo, khi lấy nguyên vẹn toàn bài khi chỉ
mượn ý mượn tứ để khẳng định, tôn vinh những nét đẹp trong sinh hoạt và tâm hồn con
người Việt Nam. Đó là sự chăm chỉ chịu thương, chịu khó; là tấm lòng thủy chung son sắt
trong tình yêu; là sự duyên dáng, ý nhị trong từng lời ăn tiếng nói...
Ví dụ:
~ "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn" lấy ý từ bài ca dao "Tay nâng chén
muối đĩa gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau" hay "Muối ba năm muối hãy
còn mặn, gừng chín tháng gừng hãy còn cay/ Đôi ta tình nặng nghĩa dày/ Có xa nhau đi
nữa cũng ba vạn sáu ngàn ngày mới xa"
~ "Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng"
+ "Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm" lấy ý từ bài ca dao
"Khăn thương nhớ ai/ Khăn rơi xuống đất..."
...
+ Liệt kê hàng loạt những câu chuyện từ xa xưa trong truyền thuyết, cổ tích dân tộc để
làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của đất nước, những truyền thống quý báu của nhân dân ta
đồng thời khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong việc "làm ra Đất Nước"
Ví dụ: Truyến thống đoàn kết, tinh thần cảnh giác cao độ trước kẻ thù "dân mình biết
trồng tre mà đánh giặc", tinh thần uống nước nhớ nguồn "Hằng năm ăn đâu làm đâu/
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ". Hoặc tô đậm sự trù phú tươi đẹp của quê hương:
"Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
...
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm"
Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng đậm đặc đã tạo nên một không gian
nghệ thuật riêng của đoạn trích, vừa bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa giàu tưởng tượng,



bay bổng, mơ mộng. Hơn nữa, có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm
xúc của tác giả, tạo nên một đặc điểm trong tư duy nghệ thuật ở đoạn trích này.
Bằng việc sử dụng đậm đặc chất liệu văn hóa dân gian, bên cạnh việc lí giải, định nghĩa
Đất Nước ở nhiều bình diện [không gian, thời gian lịch sử, truyền thống văn hóa] nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm còn làm nổi bật một tư tưởng mới mẻ: "Đất Nước của nhân dân/ Đất
Nước của ca dao thần thoại"
3. ĐÁNH GIÁ CHUNG
- Nhận định được nêu ra trong bài là một cơ sở quan trọng để khám phá, tìm hiểu tác
phẩm nói chung và đoạn thơ nói riêng. Quan đoan trích, ta thấy được tư tưởng sâu sắc,
mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm. Đoạn thơ kết tinh tư tưởng yêu nước, niềm tự hào dân
tộc của nhà thơ, cũng là đóng góp lớn của ông đối với thơ ca dân tộc. Đoạn thơ khẳng
định tài năng sáng tạo, sự am hiểu tường tận về văn hóa dân gian của tác giả.
- Thành công đòi hỏi ở nhà thơ Nguyễn Khoa Điểm một vốn sống, vồn văn hóa phong
phú. Một sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về Đất nước, về Nhân Dân. Đồng thời đời hỏi ở
nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm có một tài năng, một bản lĩnh của người cầm bút.
- Qua đoạn thơ, để lại bài học sâu sắc về cuộc sống: biết trân trọng những giá trị văn hóa
dân gian; bài học về sáng tạo nghệ thuật: đem đến những sáng tạo, mới mẻ từ những giá
trị gần gũi, quen thuộc.


VĂN MẪU 3:

ĐỀ: NGUYỄN KHOA ĐIỀM ĐÃ ĐỊNH NGHĨA VỀ ĐẤT NƯỚC BẰNG THƠ. BẰNG
NHỮNG KIẾN THỨC ĐÃ HỌC, ANH (CHỊ) HÃY CHỨNG MINH
NHẬN ĐỊNH TRÊN.
Đất nước là nguồn cảm hứng chủ đạo trong sáng tác văn học, đặc biệ trong thơ ca hiện
đại. Một trong những nhà thơ tiêu biểu của thời kì chống Mĩ Nguyễn Khoa Điềm. Ông đã
thể hiện những cảm nhận và suy nghĩ của mình về đất nước trong trường ca Mặt đường

khát vọng. Hai mươi chín dòng thơ đầu có thể xem như một số định nghĩa về đất nước
qua những hình tượng cụ thể, động, gợi cảm, với giọng thơ sôi nổi, thiếl tha (ghi lại đoạn
thơ đề bài),
Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường lắng đọng
trong tâm tưởng ta qua những liên tưởng kì thú. ý nghĩa về đất nước được nhà thơ diễn
đạt qua chiều dài của thời gian - đất nước đã có từ lâu đời và qua chiều rộng của không
gian - đất nước là cội nguồn của dân tộc.
Đất nước đã có từ lâu đời. Không định nghĩa bằng những dữ liệu, những khái niệm trừu
tượng, nhưng nhà thơ đã giúp ta cảm nhận ý nghĩa đất nước bằng những điều thật cụ thể,
thân thuộc, bình dị. Đất Nước đã có từ ngày đó... qua Sự tích trầu cau, qua truyền thuyết
Thánh Gióng:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa..." mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Sự tích trầu cau biểu hiện tình nghĩa vợ chống gắn bó thuỷ chung. Truyện Thánh
Gióng thể hiện tinh thần bất khuất chống xâm lược của dân tộc ta từ thời dựng nước. Qua
lời kể của người mẹ thân yêu, tuổi thơ ta thâm nhuần những." tình cảm đầu đời về đất
nước thân yêu. Đất nước còn hình thành những mĩ tục thuần phong. Hình ảnh:
Tóc mẹ thì bới sau đầu,


Gợi lại cội nguồn dân tộc, là một trong những nét đặc thù của văn hoá Việt Nam không
bao giờ bị ngoại lai, dù phải trải qua hàng ngàn năm Bắc thuộc. Đất nước cũng hình
thành từ lối sống giàu tình nặng nghĩa:
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặng
gợi nhớ từ câu ca dao:
Tay nâng đĩa muối chấm gừng
Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau.
- Theo tiến trình phát triển, dân tộc ta tiến lên nền văn minh nông nghiệp, từ việc xây

dựng mái nhà che mưa trú nắng:
Cái kèo, cái cột thành tên cuộc sống lao động nông nghiệp vất vả để lo cái ăn:
Hạt gạo phải một nắng hai sương, xay, giã, giần, sàng,
Đất Nước có từ ngày đó...
Ý thơ chợt quay về hiện thực đời thường thật cụ thể, gần gũi, gấn bó với mỗi người
chúng ta:
Đất là nơi anh đến trường,
Nước là nơi em tấm,
Đó cũng là nơi khắc ghi những kỉ niệm riêng tư thơ mộng tuyệt vời:
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm .
Đất nước còn là giang sơn yêu quý qua làn điệu dân ca trữ tình:
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biền khơi"
Đất nước là cội nguồn của dân tộc. Cùng với thời gian đằng đãng, hình ảnh đất nước
còn trải rộng trong không gian mênh mông, nơi phát sinh và phát triển của cộng đồng dân
Việt từ sơ khai qua truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên:
Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng


Đất là nơi Chim về...
Nước là nơi Rồng ở.
Của giống dòng Lạc Việt.
Cho nên đất nước luôn tiềm tàng mối quan hệ máu thịt giữa các thế hệ quá khứ, hiện tại
và tương lai.
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Và con cháu mai sau. Tất cả đều ý thức sâu sắc về nguồn gốc tổ tiên, không bao giờ
được quên cội nguồn dân tộc:
Hàng năm ăn đâu nằm đâu.

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày dỗ Tổ.
để đoàn kết thành một khối, cùng vun đắp và phái triển cho Đất Nước vẹn tròn tolớn.
Nguyễn Khoa Điềm đã nêu những định nghĩa đa dạng, phong phú về đất nước, từ chiều
sâu của văn hoá dân tộc, xuyên suốt chiều dài cùa thời gian lịch sử đến chiều rộng của
không gian đất nước.
Nhà thơ cũng vận dụng rộng rãi các chất liệu văn hoá dân gian, từ ca dao dân ca đến
các truyền thuyết lịch sử, từ phong tục, tập quán đến sinh hoạt, lao động cùa dân tộc ta
qua những hình ảnh, ngôn ngữ nghệ thuật đậm đà tính dân tộc và giàu trí tuệ.



×