Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Văn mẫu lớp 12 tổng hợp các bài văn mẫu bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm (10)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.54 KB, 19 trang )

VĂN MẪU 12: ĐẤT NƯỚC - NGUYỄN KHOA ĐIỀM
4 BÀI VĂN MẪU “BÌNH GIẢNG ĐOẠN THƠ TRONG ĐOẠN TRÍCH
ĐẤT NƯỚC (TRÍCH TRƯỜNG CA MẶT ĐƯỜNG KHÁT VỌNG) CỦA
NGUYỄN KHOA ĐIỀM”
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có từ ngày đó…”
BÀI MẪU 1:
Có được lớn lên từ mái ấm gia đình, từ tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ ta mới
thấy câu ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau” là lời nhắn nhủ, dặn dò quý giá
biết bao. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đang tìm cho mình một cách cảm nhân mới về đất
nước vốn là một đề tài rất cũ, một hình ảnh rất quen trong chín câu đầu của trường ca:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Muốn hiểu về Đất nước nhưng “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”: lời thơ
khẳng định đất nước ra đời từ rất lâu như ta thường bảo 4000 năm lịch sử. Câu thơ cũng
khẳng định sự trường tồn của đất nước sau bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu lần đánh giặc
ngoại xâm, chống lại nội thù để bảo vệ đất nước. Nhưng câu thơ cũng nói lên nỗi lòng


băn khoăn của nhà thơ vì làm sao hiểu được đất nước khi đất nước đã có từ lâu, đã cách
ta quá xa, đã ” có từ ngày xửa ngày xưa…”: một cụm từ vô cùng quen thuộc, thân thương
vì ai trong chúng ta không từng được đắm mình trong những câu chuyện cổ tích thần
tiên” mẹ thường hay kể”. Những câu chuyện kể, những lời ru của mẹ đưa con về với đất
nước yêu dấu.


“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”, câu thơ của Nguyễ Khoa
Điềm khiến con nhớ đến câu chuyện cảm động “Sự tích trầu cau” mẹ kể con nghe về tình
nghĩa gia đình thắm thiết, ven tròn, hoà quyện nhau như màu đỏ huyết thống thiêng liêng.
Đấy chính là nền tảng để xây dựng gia đình, để khởi đầu đất nước hay đây cũng chính là
bài học đầu tiên về đất nước. Miếng trầu bình thwongf bà vẫn ăn hàng ngày sao bỗng
dưng trở thành thiêng liêng, thấp thoáng đâu đó dáng hình đất nước qua tập tục ăn trầu
thân quen.
Hình ảnh cây tre trong câu thơ” Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre
mà đánh giặc” con đã từng gặp trong “Sự tích Thánh Gióng” khi cậu bé chỉ mới 3 tuổi đã
vươn vai thành người chiến sĩ nhổ tre, đánh giặc thù, bảo vệ bờ cõi. Cây tre hiền hoà
hằng ngày ta vẫn thấy trong xóm làng cho ta những vật dụng và bóng mát, thế nhưng cây
tre đã từng là vũ khí theo suốt con đường cha ông ta đánh giặc để giữ cho con cháu hôm
nay đất nước này. Truyền thống đấu tranh bất khuất của người xưa dẫu ko có vũ khí
tương xứng nhưng đã để lại cho con cháu một bài học: muốn đất nước lớn lên vững vàng
thì dân mình phải biết trồng tre để chuẩn bị thành vũ khí đánh giặc. Bài học lịch sử quý
giá này cháu con luôn ghi nhớ và đang vận dụng trong những ngày đánh Mỹ ác liệt để
bảo vệ đất nước với “gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào
xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín” (Thép
mới).
Mỗi một đất nước đều có riêng những phong tục tập quán và dân tộc ta cũng thế.
Hình ảnh” tóc mẹ thì bới sau đầu” đã nói lên một nét đẹp của phong tục VN ta từ xưa còn
lưu lại đến bây giờ dù đất nước đã phải trải qua bao năm bị ngoại bang đô hộ và đồng hoá
nhưng dân tộc này vẫn giữ được tập quán riêng của đất nước mình.


Có được lớn lên từ mái ấm gia đình, từ tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ ta mới
thấy câu ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau” là lời nhắn nhủ, dặn dò quý giá
biết bao. Với Nguyễ Khoa Điềm “cha mẹ thương nhau bằng gừng ay muối mặn” để con
được hưởng hạnh phúc đầy đủ, cho con hiểu thêm một nét đẹp đạo lí dân tộc là tình nghĩa
luôn thuỷ chung, son sắc.

Từ cái nhà con ở khi “cái kèo, cái cột thành tên” đến hạt gạo con ăn”phải một
nắng hai sương xay, giã, giần, sàn” ta hiểu được bao thế hệ mẹc ha đã lao động vất vả,
chắt chiu, dành dụm để tạo dựng cuộc sống cho những đứa con nên người và góp phần
dựng xây đất nước. Tất cả chính là đất nước. Thế thì đất nước ko phải đâu xa lạ, vô hình
mà là những vật dụng, những hình ảnh hàng ngày ta vẫn thấy quanh đây rất đỗi thân quen
đã từng gắn bó với ta từ thời thơ bé khi bên ta có bà, có mẹ , có cha. Nhưng chính những
câu chuyện cổ tích mẹ kể con nghe, chính những lời ru ca dao đã đưa con vào thế giới
sâu nặng nghĩa tình của đất nước thiêng liêng với bao truyền thống, tập quán tốt đẹp.
Từ những hình ảnh thân quen nhưng ẩn chứa chiều sâu kiến thức văn học dân
gian cùng với giọng thơ ngọt ngào đoạn thơ như lời kể chuyện tâm tình, Nguyễ Khoa
Điềm đã bình dị hoá đất nước, đất nước hoá thân vào cổ tích, ca dao, vào cuộc sống hàng
ngày. Tác giả đã có một cách cảm nhận mới vừa quen vừa lạ, vùa cụ thể vừa trừu tượng,
vừa gần gũi vừa rất đỗi thiêng liêng…tạo nên sự xúc động sâu sắc. Điều đó nói lên thành
công của tác phẩm cũng như những đóng góp của Nguyễ Khoa Điềm đối với nền văn học
Việ Nam..


BÀI MẪU 2:
Đối với mỗi chúng ta, khi nhắc về đất nước, ta thường đồng nhất khái niệm ấy với
những điều thiêng liêng, to lớn, xa xôi, trừu tượng. Nhưng khi đọc Đất nước của Nguyễn
Khoa Điềm trích trong trường ca Mặt đường khát vọng nhận ra rằng đất nước không trừu
tượng, xa xôi như thế, đất nước gần gũi bình dị, thân thương ,ân tình và mỗi người đều
tìm thấy đất nước trong chính mình. Nó không chỉ là mảnh đất đã ấp ủ, chắt chiu nuôi ta
lớn mà hơn thế, đất nước đã trở thành một phần hoà chảy cùng dòng máu nóng trong cơ
thể, thành những nhịp đập trong trái tim ta và từ đó trong mỗi chúng ta đều có một phần
Đất nước. Điều giản dị mà thiêng liêng này được Nguyễn Khoa Điềm viết:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất nước
Trong lửa đạn chiến tranh, trong sự anh dũng hi sinh của đồng bào mình, sự tàn
bạo của quân thù, con người tra sẽ cảm nhận rõ hơn và sâu sắc hơn về đất nước, về truyền

thống cha ông… Trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm đã viết
trong một hoàn cảnh như thế để rồi từ đó ngân lên những câu thơ thật xúc động, những
lời thơ thật yêu thương về Đất mẹ Việt Nam.
Khi ta lớn lên
Đất nước đã có rồi,
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”…mẹ thường hay kể...
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.
Chỉ có một chương trong trường ca, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện một sức cảm
nhận khá tinh tế và toàn diện về hai chữ “Đất nước” thiêng liêng. Để rồi khi đọc xong tôi
đã có cho mình một định nghĩa thật cụ thể về Đất nước. Đất nước ư? Có gì xa lạ đâu. Hãy
nhìn vào lịch sử, vào cuộc sống quanh bạn và nhìn vào cả tâm hồn của bạn nữa. Đất nước
chính là nơi đó. Đất nước là phong tục tập quán, là bản sắc văn hoá, là truyền thống muôn
đời của cha ông. Đất nước là mảnh đất dưới chân ta, là ngọn núi, con sông… của mình


dưới trời Và đặc biệt, Đất nước luôn ở bên ta, ở trong ta trong mỗi nấc thang cuộc đời
đấy thôi.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất nước
Khi ta cất tiếng khóc chào đời, mẹ cha ta đã giành cho ta tình yêu thương vô hạn,
Đất nước đã giành cho ta những cái “ngày xửa ngày xưa” qua giọng kể của bà, những lời
ru “ầu ơ” ngọt ngào bên cánh võng. Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngảy xưa”…
mẹ thường hay kể”.
Ca dao, dân ca, những câu chuyện cổ tích, ở đó có tâm hồn cha ông, có điệu hồn
dân tộc mà mỗi bé thơ khi cất tiếng khóc chào đời đều được lắng nghe và bay lên cùng
ước mơ cổ tích trong ngần. Những câu chuyện cổ, những lời ru ấy là tiếng vọng về của
cha ông ta, đã ấp ủ, vỗ về ta trong giấc ngủ say nồng của tuổi thơ và hơn thế còn tạo cho
la một niềm tin. Niềm tin ấy có thể sẽ theo ta suốt cuộc đời – niềm tin về hạnh phúc con
người:
Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật

Của bao nhiêu hạnh phúc có trên đời
Dầu phải khi cay đắng dập vùi
Rằng cô Tấm cũng về làm Hoàng hậu
Ta dần lớn lên, chập chững những bước đi đầu tiên trên mặt đất và bập bẹ hai
tiếng “ mẹ, cha” ngọng ngịu. Tiếng nói đầu tiên là tiếng “mẹ” yêu thương, tiếng nói đầu
liên của ta cũng là tiếng nói của đất nước của cha ông ta có tự bao đời:
Họ truvền giọng điệu cho con tập nó
Tiếng nói ấy chính là “Hồn thiêng sông núi” (Huy Cận), là “Tấm lụa hứng vong
hồn cha ông ta” (Hoài Thanh). Ngay từ tiếng nói đầu tiên ấy, ta đã trở thành con người
đất Việt, “hồn thiêng sông núi” đã bắt đầu hình thành mạch ngầm trong huyết quản của
ta.


Đất nước cũng lớn lên cùng những nhận thức về cuộc sống xung quanh chúng ta,
cũng những hiểu biết về những giá trị văn hoá của cha ông để lại bởi vì đất nước có gì xa
lạ đâu. Nó là những câu ca dao, dân ca, những câu chuyện những phong tục tập quán đẹp
đẽ, lâu đời… Hiểu biết, trân trọng những gì cha ông để lại chính là ta hiểu về đất nước và
đất nước nằm trong ta tự bao giờ. Chính vì thế, Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát thật
chính xác.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất nước
Phần “Đất nước” trong ta không ngừng lớn lên từ sự quan sát và cảm hiểu thiên
nhiên, lịch sử, truyền thống đất nước, từ sự rung động đẹp đẽ trước một tác phẩm văn học
dân tộc. Phải nói rằng, ngay từ khi ta sinh ra văn học đã giúp ra rất nhiều trong việc hình
thành nuôi dưỡng phần đất nước trong tâm hồn chúng ta. Khi còn nằm trong nôi, đó là
những câu ca dao, cổ tích… Lớn lên một chút là những tác phẩm văn học được học và
tiếp xúc trên ghế nhà trường và trong cuộc sống. Khi tôi được làm quen với “phần đất
nước” của Nguyễn Khoa Điềm – chương “Đất nước” – tôi cảm thấy mình lớn hơn nhiều
trong nhận thức về núi sông, con người quê tôi, trong nhận thức về bản thân mình, về
tiếng nói của dân tộc tôi. Nguyễn Khoa Điềm đã giúp tôi làm phong phú, đa dạng phần

đất nước trong tôi nhờ tác phẩm của ông.
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất nước
Câu thơ thật nhẹ nhàng mà thấm thìa. Với chương V – “Đất nước” Nguyễn Khoa
Điềm cho ta gặp gỡ “phần Đất nước” trong ông, cho ta liếp xúc, hiểu thêm về một đất
nước kiên cường, bất khuất mà cũng nhân ái chan hoà; thấm thía, hơn một chân lí “Đất
nước này là đất nước Nhân dân”. Có thể, trước đây ta đã từng biết đến hình núi Vọng Phu
cô đơn mà thuỷ chung; đến đất tổ Hùng Vương nhiều truyền thống, đến hòn Trống Mái
bất diệt với trời xanh… nhưng liệu đã một lần ta tự hỏi những công trình đó là do đâu mà


có, liệu đã có một lần nào ta nhìn cảnh đẹp mà nghĩ đến người làm nên nó, Nguyễn Khoa
Điềm đã giúp bù đắp khoảng trống ấy.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho
Đất Nước những núi Vọng Phu

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đến cho la một cái nhìn theo chiều sâu dân tộc. Không
dừng lại ở cảnh thiên nhiên thuần tuý, ông còn nghĩ đến những con người làm nên nó –
những con người bình thường, vô danh. Có thể tôi đã đến Hạ Long nhưng chưa bao giờ
tôi nghĩ đến được “những con cóc, con gà quê hương đã góp cho Hạ Long thành thắng
cảnh”. Tôi đã thấm thìa một bài học về cách nhìn sự vật ở chiều sầu của nó. Tác giả đã
giúp tôi hiểu sâu sắc về những nơi tôi đã đến, biết thêm những nơi tôi chưa đến. Tôi chưa
một lần được đến với Quang nam – đến với Bút non Nghiên nhưng trong tôi đã có hình
ảnh về những ngọn núi đẹp – gắn với truyền thuyết về những người học trò nghèo. Tôi
biết thêm về dòng sông cửu Long xanh thẳm – bóng hình của những con rồng lộng lẫy;
biết thêm về Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm nơi Nam Bộ xa xôi. Trong tôi hình
thành một ước mong sẽ có một ngày được đến những nơi đó ngắm nhìn cảnh đẹp và thấm
thía hơn công lao của nhân dân muôn đời.
Nguyễn Khoa Điềm đã nêu bật lên được một chân lí “đất nước của nhân dân”.

Giản dị vậy thôi nhưng nó hàm chứa trong đó một tư tưởng lớn:
Và ở đâu trên khắp ruỗng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Không chỉ có Vịnh Hạ Long, có núi Vọng Phu, có đền Hùng… mà ở đáu trên đát
nước Việt Nam này cũng in dấu bàn tay lao động của con người, cũng ghi lại tập tục,
những ước mơ về cuộc sống của ông cha… Để có được cuộc hôm nay là bốn nghìn năm
dựng xây và bảo vệ Tổ quốc của biết bao thế hệ, bao con người. Nhân dân ta đã tạo nên


Đất nước, gìn giữ mảnh đất bằng máu xương của mình, mang lại linh hồn cho nó bằng
đời sống phong phú của. Nhờ có con người như thế mới có được Việt Nam hôm nay:
Con gái, con trai bàng tuổi chúng ta
Cần cù, làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Khi hoà bình, bằng bàn tay lao động, họ mang lại màu xanh bất tận cho đất ; thân
yêu. Nhìn lại bất cứ thời kì nào, ta cũng thấy hình ảnh họ “cần cù, làm và anh dũng chiến
đấu. Bài thơ đã buộc tôi phải quay lại nhìn vào lịch sử ở một góc độ khác để rồi từ đó
trong tôi có một sự biết ơn và kính yêu vô hạn với những con người như thế. Tôi chưa có
một cái tên cụ thể của họ, tôi chỉ biết gọi họ bằng hai tiếng “Nhân Dân” bình dị như
chính cuộc đời họ vậy.
Không chỉ dựng xây đất nước, Nhân Dân chính là người gìn giữ, bảo vệ và làm
trong sáng hơn truyền thống, điệu hồn dân tộc.
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyển di dân
Đã biết bao thế hệ đi qua, chúng ta có Việt Nam hôm nay. Nhưng thế hệ nay phải
làm gì để đất nước ta đến được “những tháng ngày mơ mộng”
Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Đoạn trích đã mang đến cho tôi những nhận thức và tinh cảm mới mẻ về Đất
nước. Không chỉ có thế, đoạn trích còn chỉ rõ cho tôi và bạn – thế hệ hôm nay – phải làm


gì cho đất nước, non sông. Mảnh đất này đã thấm biết bao xương máu, mồ hôi và nước
mắt của thế hệ đã qua, mảnh đất này là sự hoá thân của bao người con gái, con trai. Điều
có ý nghĩa duy nhất mà chúng ta có thể làm được để thể hiện lòng biết ơn với thế hệ đã
qua là phải học tập để dựng xây, gìn giữ, bảo vệ những thành quả muôn đời của cha ông
ta, để những đứa trẻ khi sinh ra nếu có được cái hạnh phúc lớn lao, có được “niềm tin rất
thật” về “hạnh phúc có trên đời”, để cho mỗi người Việt Nam có “một phần Đất Nước”
cho riêng mình thật phong phú, đa dạng mà cũng thật giản dị, gần gũi.
Chương V – “Đất Nước” được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian
Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rất linh hoạt và sáng tạo “phần Đất Nước” về ngôn ngữ
dân tộc của mình. Đó không chỉ là cách sử dụng là thủ pháp nghệ thuật mà qua đó nó tập
trung thể hiện tư tưởng chủ đạo, linh hồn của đoạn trích “Đất Nước của Nhân Dân”. Đọc
đoạn trích, tôi thấy vốn liếng về văn hoá dân gian của mình thật quá ít ỏi và tài năng của
Nguyễn Khoa Điềm trong việc sử dụng có sáng tạo ngôn ngữ dân tộc thật tài tình. Có khi
ông trích nguyên văn một câu ca dao:
Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cú ngư ông móng nước biển khơi
Nhưng có khi chỉ bằng rất ít từ ông đã gợi tả lên một truyền thuyết:
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Ấu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Hay:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước…
Là người Việt Nam, ai chẳng hiểu về truyền thuyết Rồng Tiên bất hủ câu chuyện
của một đôi vợ chồng yêu nhau mà đầy bất hạnh đớn đau, để cho đất nước một dáng hình

Vọng Phu khắc khoải đợi chờ.


Bằng một câu thơ, Nguyễn Khoa Điềm vừa gợi được một câu ca dao, vừa được bài
học qua cầu ca dao đó:
Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Đọc đoạn trích, ta càng hiểu hơn vẻ giàu đẹp và tinh tế của tiếng Việt thể diễn tả
được nhiều biến thái của tầm trạng con người.
Đoạn trích là những câu thơ có phần tự do nhưng vẫn đi vào lòng người thấm thía
ngay cả ở những lời tưởng khô cứng nhất.
Em ơi em, đất nước là máu xươngcủa mình
Phải biết gắn bó và san sẻ.
Đọc những dòng thơ của Nguyễn Khoa Điềm ta hiểu hơn, yêu hơn, thương hơn
đất nước của mình. Yêu hơn quá khứ, hiện tại và hy vọng nhiều ở tương lai. Ta lớn lên,
tự tin vững bước trên đường đời để xây dựng đất nước hiện tại và tương lai xứng với tầm
vóc của lịch sử của quá khứ. Ta thấy tự hào, thân thương và thiêng liêng hơn khi biết
trong mình có một phần đất nước.Đất Nước là gì? Đất Nước có từ bao giờ? Những câu
hỏi đã làm trăn trở bao thế hệ và trong thơ ca đã từng có biết bao cách trả lời. Nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm đang tìm cho mình một cách cảm nhân mới về đất nước vốn là một
đề tài rất cũ, một hình ảnh rất quen trong chín câu đầu của trường ca:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên



Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Muốn hiểu về ĐN nhưng "khi ta lớn lên đất nước đã có rồi": lời thơ khẳng
định đất nước ra đời từ rất lâu như ta thường bảo 4000 năm lịch sử. Câu thơ cũng khẳng
định sự trường tồn của đất nước sau bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu lần đánh giặc ngoại
xâm, chống lại nội thù để bảo vệ đất nước. Nhưng câu thơ cũng nói lên nỗi lòng băn
khoăn của nhà thơ vì làm sao hiểu được đất nước khi đất nước đã có từ lâu, đã cách ta
quá xa, đã " có từ ngày xửa ngày xưa...": một cụm từ vô cùng quen thuộc, thân thương vì
ai trong chúng ta không từng được đắm mình trong những câu chuyện cổ tích thần tiên"
mẹ thường hay kể". Những câu chuyện kể, những lời ru của mẹ đưa con về với đất nước
yêu

dấu.
"Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn", câu thơ của NKĐ khiến con nhớ

đến câu chuyện cảm động "Sự tích trầu cau" mẹ kể con nghe về tình nghĩa gia đình thắm
thiết, ven tròn, hoà quyện nhau như màu đỏ huyết thống thiêng liêng. Đấy chính là nền
tảng để xây dựng gia đình, để khởi đầu đất nước hay đây cũng chính là bài học đầu tiên
về đất nước. Miếng trầu bình thwongf bà vẫn ăn hàng ngày sao bỗng dưng trở thành
thiêng liêng, thấp thoáng đâu đó dáng hình đất nước qua tập tục ăn trầu thân quen.
Hình ảnh cây tre trong câu thơ" Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà
đánh giặc" con đã từng gặp trong "Sự tích Thánh Gióng" khi cậu bé chỉ mới 3 tuổi đã
vươn vai thành người chiến sĩ nhổ tre, đánh giặc thù, bảo vệ bờ cõi. Cây tre hiền hoà
hằng ngày ta vẫn thấy trong xóm làng cho ta những vật dụng và bóng mát, thế nhưng cây
tre đã từng là vũ khí theo suốt con đường cha ông ta đánh giặc để giữ cho con cháu hôm
nay đất nước này. Truyền thống đấu tranh bất khuất của người xưa dẫu ko có vũ khí
tương xứng nhưng đã để lại cho con cháu một bài học: muốn đất nước lớn lên vững vàng
thì dân mình phải biết trồng tre để chuẩn bị thành vũ khí đánh giặc. Bài học lịch sử quý
giá này cháu con luôn ghi nhớ và đang vận dụng trong những ngày đánh Mỹ ác liệt để

bảo vệ đất nước với "gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù. Tre xung phong vào
xe tăng, đại bác. Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín" (Thép


mới)
Mỗi một đất nước đều có riêng những phong tục tập quán và dân tộc ta cũng thế.
Hình ảnh" tóc mẹ thì bới sau đầu" đã nói lên một nét đẹp của phong tục VN ta từ xưa còn
lưu lại đến bây giờ dù đất nước đã phải trải qua bao năm bị ngoại bang đô hộ và đồng hoá
nhưng dân tộc này vẫn giữ được tập quán riêng của đất nước mình.
Có được lớn lên từ mái ấm gia đình, từ tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ ta mới
thấy câu ca dao "gừng cay muối mặn xin đừng bỏ nhau" là lời nhắn nhủ, dặn dò quý giá
biết vao. Với NKĐ "cha mẹ thương nhau bằng gừng ay muối mặn" để con được hưởng
hạnh phúc đầy đủ, cho con hiểu thêm một nét đẹp đạo lí dân tộc là tình nghĩa luôn thuỷ
chung,

son

sắc.

Từ cái nhà con ở khi "cái kèo, cái cột thành tên" đến hạt gạo con ăn"phải một nắng
hai sương xay, giã, giần, sàn" ta hiểu được bao thế hệ mẹc ha đã lao động vất vả, chắt
chiu, dành dụm để tạo dựng cuộc sống cho những đứa con nên người và góp phần dựng
xây đất nước. Tất cả chính là đất nước. Thế thì đất nước ko phải đâu xa lạ, vô hình mà là
những vật dụng, những hình ảnh hàng ngày ta vẫn thấy quanh đây rất đỗi thân quen đã
từng gắn bó với ta từ thời thơ bé khi bên ta có bà, có mẹ , có cha. Nhưng chính những câu
chuyện cổ tích mẹ kể con nghe, chính những lời ru ca dao đã đưa con vào thế giới sâu
nặng nghĩa tình của đất nước thiêng liêng với bao truyền thống, tập quán tốt đẹp.
Từ những hình ảnh thân quen nhưng ẩn chứa chiều sâu kiến thức văn học dân gian
cùng với giọng thơ ngọt ngào đoạn thơ như lời kể chuyện tâm tình, NKĐ đã bình dị hoá
đất nước, đất nước hoá thân vào cổ tích, ca dao, vào cuộc sống hàng ngày. Tác giả đã có

một cách cảm nhận mới vừa quen vừa lạ, vùa cụ thể vừa trừu tượng, vừa gần gũi vừa rất
đỗi thiêng liêng...tạo nên sự xúc động sâu sắc. Điều đó nói lên thành công của tác phẩm
cũng như những đóng góp của NKĐ đối vơi nền VHVN.


BÀI MẪU 3:
I. Mở bài
“Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa
Thì tin yêu ngay thẳng đón ta vào
Ta nghẹn ngào Đất nước Việt Nam ơi!”
(Nguyễn Khoa Điềm)
Bằng tình cảm yêu thương sâu nặng ấy, các nhà thơ - chiến sĩ đã có biết bao bài
thơ viết rất hay về Tổ quốc, đất nước Việt Nam thân yêu. Nếu như các nhà thơ khác
thường dùng các hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, mang tính biểu tượng, tạo ra một khoảng cách để
cảm nhận, chiêm ngưỡng về Đất nước thì Nguyễn Khoa Điềm trong phần đầu chương
“Đất nước” – trích từ trường ca “Mặt đường khát vọng”, lại cảm nhận Đất nước qua
những gì hết sức gần gũi, đơn sơ, bình dị, thân quen nhất.
II. Thân bài
1. Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm, đoạn trích
a. Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà thơ giai đoạn chiến tranh chống đế quốc
Mĩ. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn dồn nén và suy tư sâu lắng
đẫm chất trí tuệ của người trí thức về đất nước, con người Việt Nam. Năm 2000, ông
được nhận giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
b. Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị Thiên năm 1971, in lần đầu 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm chiếm
miền Nam về non sông, đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình xuống đường hoà nhập với
cuộc chiến đấu chống đế quốc Mĩ xâm lược. Đoạn thơ ta phân tích trên đây nằm ở phần
đầu chương“Đất nước” – chương V của trường ca, là một trong những chương hay nhất
về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.
2. Chín câu thơ trên là sự cảm nhận và lí giải nguồn gốc đất nước của tác giả về
phương diện lịch sử, văn hoá.



a. Đất nước được cảm nhận gắn liền với một nền văn hoá, lịch sử lâu đời của dân
tộc từ thuở Hùng Vương dựng nước xa xưa
- Gắn với những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết, ca dao…
- Gắn với truyền thống văn hoá, phong tục quen thuộc mà rất độc đáo của người
Việt (miếng trầu bà ăn, tóc mẹ thì búi sau đầu…)
b. Đất nước lớn lên và trưởng thành trong đau thương vất vả cùng với những
cuộc trường chinh oanh liệt, không ngừng, không nghỉ của nhân dân qua trường kì lịch
sử.
- Những cuộc chống ngoại xâm gắn liền với truyền thuyết Thánh Gióng “nhổ tre
đánh đuổi giặc Ân”. Hình ảnh cây tre biểu tượng cho sức sống bất diệt của dân tộc và
cũng là hình ảnh rất quen thuộc của quê hương Việt Nam.
- Đất nước của nền văn minh lúa nước sông Hồng thường gắn liền với hình ảnh
hạt gạo, hạt ngọc nuôi sống cả cộng đồng phải trải qua bao nhiêu gian lao, lam lũ của cha
mẹ.
c. Đất nước gắn liền với những con người ân tình, thuỷ chung
- Đó là tình nghĩa anh em sắt son, đằm thắm được biểu hiện trong sự tích “Trầu
cau”.
- Đó là tình vợ chồng keo sơn, gắn bó trong ca dao “Muối ba năm muối hãy còn
mặn - Gừng ba năm gừng hãy còn cay – Đôi ta tình nặng nghĩa dày – Dù ba vạn sáu ngàn
ngày cũng nỏ xa”.
III. Kết luận
- Bằng giọng tâm tình như lời kể chuyện cổ tích, bằng chất liệu văn hoá dân
gian, với những hình ảnh giàu sức gợi cảm, Nguyễn Khoa Điềm tạo dựng được một hình
ảnh Đất Nước vừa gần gũi thân quen, vừa có chiều sâu văn hoá tâm linh nghìn đời của
dân tộc với những nét rất đặc thù, rất đáng tự hào.


- Tác giả khéo sử dụng các kiểu cấu trúc thơ “Đất nước đã có”, “Đất nước bắt

đầu”, “Đất nước lớn lên” đã giúp cho ta hình dung được cả quá trình hình thành và phát
triển của Đất nước trong trường kì lịch sử nằm sâu trong tiềm thức của nhân dân Việt
Nam qua bao thế hệ.


BÀI MẪU 4:
I. Mở bài
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu thời chống Mỹ cứu
nước. Thơ ông giàu chất trí tuệ, cảm xúc được dồn nén và cõ nhiều liên tưởng phong phú.
Đất nước được trích trong trường ca Mặt đường khát vọng (1971) khá điển hình cho vẻ
đẹp của thơ Nguvền Khoa Điềm những năm tháng ấy.
Đoạn trích ở trên thế hiện suy nghĩ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về mối quan
hệ riêng – chung, quan hệ cá nhân – cộng đồng, sự tiếp nối cua các thế hệ trong một đất
nước, một dân tộc. Những suy nghĩ ấy được thể hiện băng thơ, tức không đơn thuần là tư
tưởng, mà chứa đựng cảm xúc, tình cảm của tác giả. Do đó, có sức lay động tâm tư người
đọc.
II. Thân bài
1. Phân tích 9 dòng thơ đầu: Cảm nhận mới của nhà thơ về đất nước
Chín dòng thơ đầu, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm nêu lên những cảm nhận của
mình về đất nước. Nếu như ở đoạn thơ trước đó trong bài thơ, tác giả nhìn nhận đất nước
từ bề dày văn hóa dân tộc hàng nghìn năm qua, thì ở đây lại là những suy nghĩ về đất
nước từ cuộc sống hiện tại trong các mòi quan hệ riêng – chung, cá nhân – cộng đồng, sự
tiêp nôi giữa các thế hệ.
Khổ thơ mở đầu bằng một lời khẳng định:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước.
Lâu nay, trong suy nghĩ của nhiều người, đất nước, quê hương, tổ quốc, dân tộc…
luôn là những khái niệm trừu tượng. Với nhà thơ trẻ đang đối mặt với cuộc chiến tranh
khốc liệt một mất một còn, đất nước gần gũi, thân thiết. Điều này chưa hẳn đã mới, trong
ca dao, dân ca có không ít những câu hát như thế:



Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau mụông nhớ cà dầm tương
Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao.
Quê hương là tất cả những gì gắn bó ruột rà với con người. Đó là người ta yêu tha
thiết. Đó là buổi sáng làm đồng. Đó là từng miếng ăn quê kiểng mỗi ngày…
Song, cái mới ở khổ thơ của Nguyễn Khoa Điềm là đất nước ở trong môi một con
người, đất nước ở trong ta chưa không ở ngoài ta (Trong anh và em hôm nay… / Đất
Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm… / Đất Nước là máu xương của mình). Đó là
nhận thức mới về đất nước. Nhận thức ấy được nêu ra để dẫn dắt đến một ý tứ khác của
những dòng thơ ơ cuối khổ này (từng cá nhân phải làm gì cho đất nước).
Bốn dòng thơ kế tiếp mở rộng ý ban đầu:
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Hai câu thơ (bốn dòng) được cấu trúc giống nhau theo kiểu câu trúc của câu có
điều kiện trong văn xuôi hay lời nói thông thường: Khi… Đất Nước. Hai câu thơ cũng là
những lời khẳng định (kết quả của sự nhận thức) về một chân lí. Cả bốn dòng chỉ có một
hình ảnh, lại là,hình ảnh mang tính tượng trưng: cầm tay diễn tả sự thân thiết, tin cậy, yêu
thương lẫn nhau. Hình ảnh ấy đi liền với những tính từ chỉ mức độ (hài hòa, nồng thắm,
vẹn tròn, to lớn). Bởi vậy, dù ý tứ tuy không phải là quá mới mẻ, song, những câu thơ ấy
lại có sức nặng của tình cảm chân thành. Những câu thơ này còn có một tầng nghĩa thứ
hai, tác giả không trực tiếp nói ra. Đó là đất nước không phải là một khái niệm trừu
tượng, càng không phải một giá trị bất biến, có sẵn. Đất nước là một thực thể sống và sự
sống ấy ra sao ở về phía tất cả những con người trong đất nước đó. Nói rõ ràng ra, đó là



mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa mỗi một con người với đất nước. Nhưng
như thế thì còn gì là thơ nữa!
Từ câu chuyện hiện tại, nhà thơ tiếp tục mạch cảm xúc và suy nghĩ về đất nước ở
tương lai:
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng.
Đất nước không chỉ có ngày hôm qua và hôm nay. Đất nước của ngày mai. Từng
thế hệ kế tiếp sẽ làm cho đất nước trường tồn mãi mãi.
Trong hoàn cảnh cuộc kháng chiến khốc liệt thời bấy giờ, phải thấy ở những câu
thơ trên còn là một khát vọng: Đất nước sẽ hòa bình, đất nước sẽ tươi đẹp và còn nhiều
hơn thế nữa.
2. Những khổ thơ cuối, nhà thơ nêu lên trách nhiệm của cá nhân đối với đất nước.
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…
Cấu trúc của câu thơ cũng theo kiểu suy luận: Đất nước là… nêu lên một tiền đề.
Từ tiền đề ấy, phải biết… /phải biết… để làm nên…Câu thơ giàu chất duy lí nhưng
không lên gân mà trở thành lời nhắn nhủ tha thiết. Ở đây có những từ tượng trưng rất
đáng chú ý: máu xương, gắn bó, san sẻ, hóa thân, dáng hình, muôn đời. Sau rất nhiều suy
nghĩ cụ thể về đất nước, đến đây nhà thơ khẳng định đất nước là máu xương của mình.
Máu xương là sự sống. Rất ít trường hợp người ta ví một điều gì đó với máu xương, bởi
nó có ý nghĩa biểu trưng cho sự thiêng liêng. Đất nước là máu xương có nghĩa là đất
nước tồn tại như một sự sống và để có sự sống ấy hẳn phải có rất nhiều hi sinh. Quả đúng
như vậy, biết bao con người, bao thế hệ đã ngã xuống cho sự sống còn của đất nước. Vì


thế, mỗi một con người phải biêt gắn bó và san sẻ. Gắn bó là yêu thương, quan hệ mật
thiết với nhau. Tư gắn bó ấy mới có thể san sẻ, san sẻ trách nhiệm, san sẻ niềm vui, niềm

hạnh phúc cho nhau. Đất nước vĩ đại nhưng đất nước là một thực thể sống. Thực thể ấy
không phải là sự tập hợp của những cá nhân rời rạc mà là một cộng đồng. Hóa thân cũng
có nghĩa là dâng hiến. Thời bình, người ta dâng hiến sức lực, mồ hôi cho tổ quốc. Thời
chiến, người ta dâng hiến cả sự sống của mình. Sự dâng hiến ấy, theo suy ngẫm của nhà
thơ, là cuộc hóa thân. Bóng dáng mỗi người đã làm nên bóng dáng quê hương xứ sở, đất
nước. Không có sự hóa thân kia làm sao đất nước trường tồn, làm sao có được đất nước
muôn đời!
Những câu thơ in đậm chất duy lí (khá chặt chẽ, logic) cất lên như tiếng gọi của
trái tim, vì thế nó thiết tha, thúc giục lòng người.
III. Kết luận
Đoạn thơ trên là một đoạn thơ hay trong bài Đất nước. Nhà thơ đã thể hiện những
suy nghĩ mới mẻ của mình về đất nước bằng một giọng trữ tình, ngọt ngào. Câu chuyện
về đất nước đối với mỗi người luôn là câu chuyện của trái tim, vừa thiêng liêng, cao cả,
cũng vừa gắn bó, thân thiết. Từ suy nghĩ và tình cảm ấy, khi đối diện với kẻ thù của dân
tộc, hẳn người ta phải biết làm gì cho Tổ quốc, giang sơn.
Ngày nay, đất nước đã sạch bóng quân thù. Nhưng trách nhiệm của mỗi công dân
đối với đất nước vẫn rất cần đặt ra thường xuyên, bởi đó là câu chuyện không bao giờ cũ.



×