Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Văn mẫu lớp 12 tổng hợp các bài văn mẫu bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm (11)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.57 KB, 20 trang )

VĂN MẪU 12: ĐẤT NƯỚC - NGUYỄN KHOA ĐIỀM
6 BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH ĐOẠN THƠ ĐẤT NƯỚC CỦA
NGUYỄN KHOA ĐIỀM”
ĐOẠN THƠ:

“Đất là nơi anh đến trường

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”.

BÀI MẪU 1:
Đất Nước là chương năm của trường ca Mặt đường khát vọng mà Nguyễn Khoa
Điềm đã viết ở chiến khu Trị Thiên trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Qua phần
thơ này có thể thấy được những cảm nhận tinh tế của nhà thơ về đất nước trong chiều sâu
cảm xúc suy nghĩ và trong sự gắn bó thân thiết với cuộc đời mỗi người. Đặc biệt là đoạn
trích:
Đất là nơi anh đến trường
….
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Đã thể hiện tập trung những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của nhà thơ khi thể hiện
những khám phá mới mẻ về đất nước mình.
Tiếp nối những suy nghĩ về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã táo bạo khi đưa ra
định nghĩa về Đất Nước được tạo thành bởi hai yếu tố thời gian và không gian. Đó chính
là đất và nước. Khi đi vào tìm hiểu, chính tư duy nghệ thuật của nhà thơ đã dẫn đến
những liên tưởng bất ngờ khi ông định nghĩa về đất nước:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm


Đất gắn liền với những kỉ niệm thời thơ ấu của anh, gắn liền với con đường hàng
ngày đến trường với bao trò chơi, bao lần đùa nghịch cùng bạn bè. Còn nước “là nơi em
tắm”. Nó cũng gắn với kỉ niệm tuổi thơ em, một kỉ niệm êm dịu và nhẹ nhàng như những


dòng sông em thường tắm mát. Những kỉ niệm ấy, tất cả hợp lại thành đất nước, thành
“nơi ta hò hẹn”. Khi cả anh và em cũng trưởng thành, tình yêu kết dính giữa anh và em
thành một mối khăng khít, không tách rời. Và đến đây, đất nước không còn tách riêng mà
hòa hợp với nhau. Và điểm hẹn hò giữa anh và em cũng chính là ở bắt đầu của tình yêu
đất nước. Tình yêu cá nhân, tình yêu thiêng liêng giữa anh và em đã to lớn và nó hòa vào
tình yêu đất nước. Hay đất nước bắt nguồn từ tình yêu nam nữ. Tiếp tục mạch thơ ấy,
Nguyễn Khoa Điềm đi đến khẳng định Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi
nhớ thầm”. Nỗi nhớ thầm kín, da diết của em, nỗi nhớ ấy đã gắn kết tình yêu anh và em,
nỗi nhớ cũng nuôi lớn tình yêu hai chúng ta và nỗi nhớ ấy cũng hòa vào đất nước, gắn kết
đất nước lại thành một mối khăng khít, bền chặt. Có nỗi nhớ tình yêu, có nỗi nhớ đất
nước. Nguyễn Khoa Điềm đã đưa khái niệm đất nước từ sự kết hợp của tình cảm cá nhân
nam nữ riêng tư, từ sự tách riêng để đi đến cái khái quát, nâng lên rộng hơn:
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông mong nước biển khơi”
Từ tình cảm riêng tư, tác giả đi đến định nghĩa đất nước là nơi dân mình đoàn tụ,
sinh sống, Từ cá thể anh, em đã đi đến cái chung, cái lớn hơn là dân mình, là đồng bào.
Tác giả đã mở ra một không gian, một thời gian theo chiều dài từ quá khứ nghìn
xưa. Thời gian đằng đẵng Không gian mênh mông Và kết lại “Đất Nước là nơi dân mình
đoàn tụ”. Tác giả còn ngầm chỉ rõ yếu tố tạo nên sự gắn kết giữa các cá nhân, từ những
con người đơn lẻ gắn kết lại thành nhân dân. Sự gắn kết ấy, sợi dây vô hình ấy chính là
tinh thần đoàn kết của nhân dân ta. Nó tạo nên sức mạnh kì diệu, liên kết mọi người lại,
từ cái tôi đã hòa vào thành cái “ta” chung, cái “ta” của dân tộc, của đất nước trên cả hai
phương diện địa lý và lịch sử.
Và nó trở lại kết cấu:


Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

Tách riêng từng yếu tố để chứa đựng một huyền thoại xưa. Hình ảnh “chim về”
chính là nơi sinh sống của người mẹ Âu Cơ với 50 người con trên rừng. Còn nước lại là
nơi Lạc Long Quân sinh sống cùng 50 người con. Nó kết lại thành câu chuyện truyền
thuyết “Lạc Long Quân và Âu Cơ” đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng. Hay nói cách khác
là nguồn gốc của dân tộc ta là con Rồng cháu Tiên. Tất cả các anh em dân tộc sinh sống
trên mảnh đất Việt Nam đều là anh em với nhau, đều do một mẹ sinh ra.
Đoạn trích ngắn gọn chỉ 13 câu nhưng đã đưa ra được 3 khái niệm khác nhau về
đất nước với 3 lần cảm xúc khác nhau nhưng đều thống nhất trong sự chuyển hóa từ cái
riêng đến cái chung, từ bộ phận đến khái quát, nâng lên để chúng hòa quện, kết dính lại
với nhau làm nên đất nước trong chiều dài và chiều sâu của lịch sử, của truyền thống văn
hóa.
Đoạn trích ngắn gọn, lời thơ khúc chiết đã nói lên một cách nhìn mới, nhận định
mới của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc sâu lắng cùng
với nhìn nhận mới mẻ, đúng đắn đã làm nên giá trị của đoạn thơ.


ĐỌAN THƠ:
“ TRONG ANH VÀ EM HÔM NAY,

LÀM NÊN ĐẤT NƯỚC MUÔN ĐỜI”.

BÀI MẪU 2:
I/ Mở bài
- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước. Đất nước,
nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
- “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường
khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
- Đọan thơ sau đây là những lời nhắn nhủ tâm tình về sự gắn bó và trách nhiệm
của mỗi người với đất nước:
“ Trong anh và em hôm nay,


Làm nên Đất Nước muôn đời”.
II/ Thân bài
- Thật vậy, sau những cảm nhận mới mẻ và sâu sắc của nhà thơ về đất nước qua
những phương diện không gian- địa lý,thời gian- lịch sử,phong tục- văn hóa …, Nguyễn
Khoa Điềm đã đi đến khẳng định:
“ Trong anh và em hôm nay,
Đều có một phần Đất Nước”.
+ Đây là một sự thực mà mỗi người Việt Nam ai cũng đều cảm thấy.Đất nước đã
hóa thân vào mỗi con người, bởi chúng ta đều là con Rồng, cháu Tiên, đều sinh ra và lớn


lên trên đất nước này.Mỗi người Việt Nam đều đã và đang thừa hưởng những giá trị vật
chất, tinh thần của đất nước thành máu thịt, tâm hồn, nếp cảm,nếp nghĩ và cách sống của
mình.
- Từ việc khẳng định: đất nước hóa thân và kết tinh trong cuộc sống của mỗi
người,nhà thơ tiếp tục nói về mối quan hệ gắn bó sâu sắc của mỗi người với đất nước
bằng những dòng thơ giàu chất chính luận:
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.
- Với những cảm nhận tinh tế, mới mẻ về sự hòa quyện giữa cái riêng và cái
chung, giữa tình yêu và niềm tin, đồng thời kết hợp sử dụng các tính từ “hài hòa, nồng
thắm”; “vẹn tròn, to lớn” đi liền nhau; đặc biệt là kiểu câu cấu tạo theo hai cặp đối xứng
về ngôn từ (“Khi /Khi; Đất Nước / Đất Nước),nhà thơ muốn gửi đến cho người đọc bức
thông điệp: đất nước là sự thống nhất hài hòa giữa tình yêu đôi lứa với tình yêu Tổ quốc,
giữa cá nhân với cộng đồng.
- Không chỉ khẳng định mối quan hệ gắn bó giữa Đất nước và nhân dân, giữa tình
yêu cá nhân với tình yêu lớn của đất nước; nhà thơ còn thể hiện niềm tin mãnh liệt vào

tương lai tươi sáng của đất nước:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.

à Có thể nói, ba dòng thơ đã mở ra một tầng ý nghĩa mới, đó là niềm tin mãnh liệt
vào tương lai tươi sáng của đất nước.Thế hệ sau “con ta lớn lên sẽ mang Đất Nước đi xa-


Đến những tháng ngày mơ mộng”.Đất nước sẽ đẹp hơn, những tháng ngày mơ mộng ở
hiện tại sẽ trở thành hiện thực ở ngày mai.
- Khi đã hiểu hết ý nghĩa thiêng liêng của đất nước, nhà thơ muốn nhắn gửi với
mọi người:
“ Em ơi em Đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”

=> Bằng giọng văn trữ tình kết hợp với chính luận; bằng cách sử dụng câu cầu
khiến, điệp ngữ “phải biết - phải biết” nhắc lại hai lần cùng các động từ mạnh “gắn bó,
san sẻ, hóa thân” …nhà thơ như nhắn nhủ mình, nhưng cũng là nhắn nhủ với mọi người (
nhất là thế hệ trẻ) về trách nhiệm thiêng liêng của mình với đất nước. Cái hay là lời nhắn
nhủ mang tính chính luận nhưng lại không giáo huấn mà vẫn rất trữ tình, tha thiết như lời
tự dặn mình - dặn người của nhà thơ.
III/ Kết bài
- Tóm lại, đây là một trong những đọan thơ hay và sâu sắc trong “Đất Nước” của
Nguyễn Khoa Điềm. Bởi lẽ, qua đọan thơ, nhà thơ đã giúp cho chúng ta hiểu hơn về sự
gắn bó giữa mỗi người với đất nước. Từ đó, ý thức hơn về trách nhiệm của mỗi người với
đất nước quê hương.
- Đồng thời, đọan thơ cũng giúp ta thấy được vẻ đẹp trong phong cách thơ trữ tình

- chính luận của nhà thơ.


Đọan thơ:
“NHỮNG NGƯỜI VỢ NHỚ CHỒNG
...
NHỮNG CUỘC ĐỜI ĐÃ HÓA NÚI SÔNG TA”.

BÀI MẪU 3:
I/ Mở bài
- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước,
nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
- “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường
khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
- Đọan thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc
làm nên không gian địa lý - bức tranh văn hóa đất nước muôn màu muôn vẻ.
“ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu,

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”
II/ Thân bài
- Thật vậy, đây là 12 câu thơ mở đầu phần hai của đọan thơ “Đất Nước” với nội
dung ngợi ca, khẳng định tư tưởng đất nước của nhân dân.
1. Trước hết, tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ,có chiều sâu địa lý về những
danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Nhà thơ đã kể, liêt kêmột loạt kì quan
thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn
hóa đất nước.Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ
bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc.Những


ngọn núi, những dòng sông kia chỉ trở thành thắng cảnh khi nó gắn liền với con người,

được cảm thụ qua tâm hồn, qua lịch sử dân tộc.
+ Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu
thương thủy chung để ta có những “núi Vọng Phu”, những “hòn Trống mái” như những
biểu tượng văn hóa. Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng của dân tộc trong buổi đầu giữ nước để
ta có những “ao đầm”…như những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước
hào hùng…
“ Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”
+ Thật sự, nếu không có những người vợ mòn mỏi chờ chồng cả thời chinh chiến
thì không có sự cảm nhận về núi Vọng Phu.Cũng như nếu không có truyền thuyết Hùng
Vương dựng nước thì không thể có sự cảm nhận nét hùng vĩ của núi đồi quanh đền Hùng.
Nói cách khác, những núi Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những núi Bút, non Nghiên
không còn là những cảnh thiên nhiên thuần túy nữa, mà được cảm nhận thông qua những
cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân,
sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi.
2. Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một
phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân .Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này,đã
đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này. Từ những
hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát
sâu sắc:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”.


=> Với cấu trúc quy nạp (đi từ liệt kê các hình ảnh, địa danh…đến khái quát mang
tính triết lý), dường như nhà thơ không thể kể ra hết những danh lam thắng cảnh và
những nét đẹp văn hóa dân tộc vô cùng phong phú, đa dạng trên khắp đất nước. Nên cuối

cùng, nhà thơ đã khẳng định: trên không gian địa lý đất nước, mỗi địa danh đều là một
địac chỉ văn hóa được làm nên bằng sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn người
Việt.
III/ Kết bài
- Đoạn thơ thể hiện được đặc điểm tiêu biểu của trường ca “Mặt đường khát vọng”
của Nguyễn Khoa Điềm: chất chính luận hài hòa chất trữ tình, giọng thơ tự sự; ngôn từ,
hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng.
- Viết về đề tài đất nước - một đề tài quen thuộc, nhưng thơ Nguyễn Khoa Điềm
vẫn mang những nét riêng, mới mẻ, sâu sắc. Những nhận thức mới mẻ về vai trò của
nhân dân trong việc làm nên vẻ đẹp của đất nước ở góc độ địa lý - văn hóa càng gợi lên
lòng yêu nước, tinh thần trách nhiệm với đất nước cho mỗi người.


ĐỌAN THƠ:
“ EM ƠI EM HÃY NHÌN RẤT XA

CÓ NỘI THÙ THÌ VÙNG LÊN ĐÁNH BẠI”.

BÀI MẪU 4:
I/ Mở bài
- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước,
nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
- “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường
khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
- Đọan thơ sau đây là sự khẳng định của nhà thơ về vai trò của nhân dân trong việc
làm nên lịch sử và truyền thống dựng nước và giữ nước:
“ Em ơi em

Có nội thù thì vùng lên đánh bại”.
II/ Thân bài

- Thật vậy, sau khi đã khẳng định vai trò của nhân dân làm nên bức tranh địa lývăn hóa muôn màu muôn vẻ, nhà thơ tiếp tục baỳ tỏ những suy tư, nhận thức của mình về
vai trò của nhân dân trong việc làm ra lịch sử và truyền thống của đất nước.
+ Trước hết, nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã nhận thức được một
sự thật đó là : người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là
những con người vô danh bình dị.Thật sự trong bề dày bốn ngàn năm dựng nước, giữ


nước, có biết bao thế hệ cha anh dũng cảm, chiến đấu, hy sinh và trở thành anh hùng mà
tên tuổi của họ “cả anh và em đều nhớ”:
“ Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”
+ Nhưng cũng có hàng triệu , hàng triệu người cũng trong quá trình xây dựng và
bảo vệ đất nước đã ngã xuống , họ đã “sống và chết, không ai nhớ mặt đặt tên”, nhưng tất
cả, họ đều có công “ làm ra Đất Nước”. Có thể nói, đây là một quan niệm mới mẻ về đất
nước của nhà thơ.Và từ quan niệm này, Nguyễn Khoa Điềm đã hết lời ca ngợi và tôn
vinh lòng yêu nước của nhân dân:
“Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh…”
+ Với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, tác giả đã khẳng định tất cả những gì do
nhân dân làm ra, những gì thuộc về nhân dân như “hạt lúa, ngọn lửa, giọng nói, tên xã tên
làng”…cũng như chính những con người vô danh bình dị đó đã góp phần giữ và truyền
lại cho thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước. Chính
họ đã tạo dựng nền móng sự sống cho đất nước, cho nhân dân.Không những vậy, họ còn
luôn sẵn sàng vùng lên chống ngoại xâm, đánh nội thù để giữ gìn sự sống đó và bảo vệ
đất nước thân yêu của mình.
“Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”.
Ở đây, nhận thức về đất nước và lòng yêu nước của nhà thơ đã gắn liền với lòng

biết ơn nhân dân, bởi nhân dân mới là những chủ thể đích thực làm ra đất nước và bảo vệ
đất nước.


- Tóm lại, với hình ảnh thơ giản dị, mộc mạc, giọng thơ vừa tự sự vừa trữ tình…
đọan thơ vừa là lời tâm tình,vừa là lời nhắn nhủ của nhà thơ với tất cả mọi người phải
nhận thức đúng vai trò to lớn của nhân dân trong việc làm nên truyền thống lịch sử, văn
hóa của đất nước bằng chính lòng biết ơn của mình.
III/ Kết bài
- Chủ đề về đất nước, quê hương không phải là một chủ đề mới lạ trong văn học
Việt Nam.Bởi lẽ, trước Nguyễn Khoa Điềm đã có nhiều bài thơ về đất nước của nhiều
nhà thơ có tên tuổi…Nhưng,có thể nói “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng
định được vai trò to lớn của nhân dân với đất nước một cách dễ hiểu, dễ cảm, dễ nhớ và
sâu sắc.
- Đọan thơ đã thức tỉnh được nhận thức của tuổi trẻ Miền Nam thời chống Mỹ và
tuổi trẻ hôm nay khi họ đang lún sâu vào lối sống ngoại lai .Từ đó, đọan thơ đã làm sống
lại truyền thống yêu nước hào hùng trong mỗi chúng ta.


ĐỌAN THƠ:
“ ĐỂ ĐẤT NƯỚC NÀY LÀ ĐẤT NƯỚC NHÂN DÂN

GỢI TRĂM MÀU TRÊN TRĂM DÁNG SÔNG XUÔI”.

BÀI MẪU 5:
I/ Mở bài
- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước,
nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
- “Đất nước”là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường
khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.

- Đọan thơ sau đây là sự thể hiện sâu sắc những suy tư, nhận thức về đất nước của
nhà thơ trên cơ sở tư tưởng Đất nước của Nhân dân :
“ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”.
II/ Thân bài
- Có thể nói, “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là một khúc ca - sự nhận thức
về nguồn gốc sâu xa của nhà thơ về đất nước về trí tuệ, tâm hồn và ý chí của nhân dân.Để
từ đó, nhà thơ khẳng định : Nhân dân chính là người – là chủ thể .làm nên đất nước.
1/ Trước hết, câu thơ mở đầu đọan thơ “ Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”
chính là sự thể hiện cảm hứng chủ đạo bao trùm lên tòan đọan trích và cả Chương V của
bản trường ca “Mặt đường khát vọng”. Đây chính là lời kết, là sự khái quát từ những gì


đã được nhà thơ triển khai trên cả chiều dài của trang thơ và trong cả chiều sâu của dòng
cảm hứng trữ tình- chính luận.
- Nhân dân sáng tạo ra mọi giá trị văn hóa như ca dao, thần thoại.Như vậy cũng
chính là đã sáng tạo ra đất nước. Để khẳng định điều này, Nguyễn Khoa Điềm đã lấy ý từ
ba câu ca dao có nội dung sâu sắc để nói về ba phương diện quan trọng nhất của truyền
thống nhân dân:
“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầnm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”.
+ Đó là vẻ đẹp giàu lòng yêu thương của người Việt đã bắt nguồn từ thời xa xưa
với những lời dân ca ngọt ngào
“Yêu em từ thuở trong nôi,
Em nằm em khóc, anh ngồi anh ru”
+ Và đó là vẻ đẹp của lối sống đậm nghĩa, vẹn tình, quý trọng tình nghĩa hơn cả
vật chất ngàn vàng.Ở đây, ý thơ của nhà thơ được gợi lên từ chính những câu ca dao một

thời đi vào đời sống tâm hồn của dân tộc :
“ Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”
+ Và đó còn là sự thể hiện của truyền thống kiên cường, bất khuất của trong quá
trình đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta.Vẻ đẹp của truyền thống anh hùng
ấy cũng được làm nên từ những câu ca dao từng ca ngợi tinh thần quật khởi của dân tộc :
“ Thù này ắt hẳn còn lâu
Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què”


à Từ đó có thể khẳng định: nhân dân đã làm ra văn hóa, làm ra đất nước bằng
chính tinh cách, lẽ sống tâm hồn mình. Có thể nói,
+ Tuổi trẻ thế hệ Nguyễn Khoa Điềm đã nhận thức được một cách sâu sắc Nhân
dân là người làm nên lịch sử, làm ra văn hóa đất nước bằng tất cả tình cảm trân trọng và
yêu thương.
+ Suy tư và nhận thức này của nhà thơ là tư tưởng nghệ thuật đã trở thành truyền
thống trong văn học Việt Nam.Từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Bội Châu …
đã từng nói lên nhận thức về vai trò của nhân dân trong lịch sử.Đến các nhà thơ, nhà văn
trong thời kì kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ , nhận thức ấy đã được nâng lên thành
một tư tưởng có tầm cao mới.
III/ Kết bài
- Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, tha thiết, trang trọng; ý thơ giàu chất chính luận,
ngôn ngữ thơ mộc mạc, cách sử dụng sáng tạo chất liệu văn hóa, văn học dân gian…từ
những suy tư cảm xúc của nhà thơ, đọan thơ đã khắc sâu cho chúng ta những nhận thức
sâu sắc và mới mẻ về đất nước nhân dân.
- Từ đó, đọan thơ bồi dưỡng thêm tình yêu Tổ quốc và niềm tự hào về con người
Việt Nam cho mỗi người, đặc biệt là thế hệ trẻ trong thời đaị hôm nay.


ĐOẠN THƠ:

“… TRONG ANH VÀ EM HÔM NAY
...
LÀM NÊN ĐẤT NƯỚC MUÔN ĐỜI…”
BÀI MẪU 6:
“Mặt đường khát vọng” là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong
chiến tranh ác liệt thời chống Mĩ, tại chiến trường Trị – Thiên – một điểm nóng – trên
chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc động, tự
hào về đất nước và nhân dân. Trong bài “Có một thời đại mới trong thi ca”, Trần Mạnh
Hảo viết:
“Vào đêm giao thừa Tết âm lịch 1973 – 1974, dưới rừng Phước Long, chúng tôi xúc
động nghe trích đoạn “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của
Nguyễn Khoa Điềm phát trên Đài phát thanh. Những suy nghĩ về đất nước, về dân tộc đã
được nhà thơ hiện đại hoá bằng chất suy tư lắng đọng và cảm xúc mãnh liệt”.
“Đất Nước” – là chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” dài 110 câu thơ
(trong “Văn 12” chỉ trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận của nhà thơ trẻ về Đất
Nước trong cội nguồn sâu xa văn hóa – lịch sử, và trong sự gắn bó thân thiết với đời sống
hằng ngày của mỗi con người Việt Nam. Phần thứ hai, cảm hứng chủ đạo về Đất Nước là
sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân. Từ đó, nhà thơ nhận diện phát
hiện Đất Nước trên bình diện về địa lý, lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tinh thần
dân tộc – nền văn hiến Việt Nam. Vẻ đẹp độc đáo của chương V “Đất Nước” là tác giả
vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hoá dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ,
phong tục…, cùng với cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới
mẻ cho người đọc.
Mười ba câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất nước” thể hiện cảm nhận:
Đất Nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt nam:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
(…)
Làm nên Đất Nước muôn đời…”.
Trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”, hai từ Đất Nước và Nhân Dân đều

được viết hoa, trở thành “mĩ tự” gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ cao độ
cảm xúc yêu mến, tự hào về Đất Nước và Nhân Dân. Chủ thể trữ tình là “anh và em”,
giọng điệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào. Cấu trúc đoạn thơ 13 câu thơ là


cấu trúc tổng – phân – hợp mà ta cảm nhận được tính chất chính luận của ngòi bút thơ
Nguyễn Khoa Điềm.
1. Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lý về cội nguồn, về truyền thống, về lịch
sử,… Đất Nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi người:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”.
Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ
khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của Đất Nước” được
diễn đạt một cách “mềm hóa” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của “anh và em”.
2. Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người”, từ “hôm
nay” đến “ngày mai” và muôn đời mai sau.
“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”.
Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất Nước là nơi anh đến trường – Nước là nơi em
tắm – Đất Nước là nơi ta hò hẹn – Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ
thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây dựng. Gia
đình là “một phần” của Đất Nước. Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự
“hài hòa, nồng thắm” với tình yêu quê hương Đất Nước. Đó là bản chất thống nhất trong
tình cảm của thời đại mới. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ
thơ sâu và đằm về nỗi “nhớ”:
“Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…”.
Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước,
mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”, mới tìm
thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em, của bao lứa đôi

khác:
“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị đòn roi.
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi”.
(Giang Nam)
Nói về cội nguồn của giòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự tích
“Trăm trứng”: “Đất là nơi Chim về – Nước là nơi Rồng ở – Lạc Long Quân và Âu Cơ –
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng – Những ai đã khuất – Những ai bây giờ…”. Từ huyền
thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:
“Khi chúng ta cầm tay mọi người


Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên, là yêu
thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào,…
Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có hình ảnh “Đất Nước
vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hòa, nồng
thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất
nước. Đất Nước được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào
“ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, “Người trong
một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất Nước
vẹn tròn, to lớn”.
Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai đứa cầm tay”…
“Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất Nước hài hoà nồng thắm…”. “Đất Nước vẹn
tròn, to lớn”. Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mĩ sâu sắc: hình
thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này. Phép đối
xứng làm cho thơ liền mạch, hài hòa, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình yêu lứa đôi, tổ ấm
hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc là những
tình cảm đẹp, làm nên truyền thống “yêu nước, yêu nhà, yêu người” và đó là sức mạnh

Việt Nam.
Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh và em hôm nay”, đất nước
trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.
Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam… đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp
dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải,… cũng
có một giọng điệu riêng “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng “mai này” là cách nói
của bà con xứ Huế.
Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước để lại”
xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “đàng hoàng hơn, to
đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh
nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp,
ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh. Điều mà
“anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này”
gần.
Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào,
say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ


Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
“Em ơi em” – một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang
dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất Nước là máu
xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, và mồ
hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất Nước là máu xương
của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:

“Nuôi lớn người từ ngày mở đất,
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”.
(“Bài thơ của một người yêu nước mình” 19/12/1967)
Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biểu hiện của tình
yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó và san sẻ… phải
biết hóa thân…” thì mới có thể “Làm nên Đất Nước muôn đời”. Điệp ngữ “phải biết” như
một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động. Có biết
trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời
chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân”
là tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông
tin của ngôn từ” như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.
Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô đậm bằng
nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cảm hứng về đất
nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng của mỗi
nhà thơ. Chất trữ tình thấm đẫm dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang cảm xúc sâu
nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất nước:
“Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất”
(Trần Vàng Sao)
“Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.
(Chế Lan Viên)



Trở lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất nước thân
thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất nước muôn đời”. Đoạn thơ
đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai Đất nước và tiền đồ tươi sáng của dân tộc.
Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình hàm ẩn tính công dân của thời đại mới.
Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh, thể
hiện một hồn thơ giàu chất suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm
tòi.
“Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình…” – một tứ thơ rất đẹp! Một tứ thơ
lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hòa bình phải biết đem “trí lực” để xây dựng Đất
Nước, “làm nên Đất Nước muôn đời”, Đất nước “to đẹp hơn đàng hoàng hơn”. Lúc có
chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn Sông núi. “Gắn bó, san sẻ, hóa thân” cho
Đất Nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng, ấy là tình yêu Đất Nước của “anh và em”
hôm nay, của thế hệ Việt Nam “Mai này con ta lớn lên”…



×