Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Văn mẫu lớp 12 tổng hợp các bài văn mẫu bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm (13)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.86 KB, 13 trang )

 VĂN MẪU 12: ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM
2 BÀI VĂN MẪU “NÊU CẢM NHẬN VỀ BÀI THƠ ĐẤT NƯỚC CỦA
NGUYỄN KHOA ĐIỀM”
BÀI MẪU 1:
Nhà thơ nhà văn Nguyễn Khoa Điềm không có nhiều tác phẩm nhưng những tập
thơ của ông luôn được độc giả đón nhận và yêu thích. Trong đó không thể không nhắc
đến trường ca “Mặt đường khát vọng” vô cùng nổi tiếng mà ta thường biết đến thông qua
bài thơ “Đất Nước”. Bài thơ này được trích từ chương V của trường ca. Đây đuợc xem là
chương hay và sâu sắc nhất. Tác giả chia đoạn thơ thành 5 khổ, mỗi khổ ứng với một
luận điểm,nhưng đều nhằm một mục đích đó là làm sáng tỏ tư tưởng: “Đất nước này là
Đất Nước Nhân dân”. Chính luồng tư tưởng này đã thôi thúc tuổi trẻ các tỉnh Miền Nam
tham gia chiến đấu giành độc lập cho nước nhà.Không những thế, nó đã khơi dậy niềm tự
hào dân tộc của nhân dân ta. Bên cạnh đó, Nguyễn Khoa Điềm trình bày rất nghệ thuật
nhiều cảm nhận, lý giải mới về đất nước. Từ đó, ta hiểu thêm tính chính luận - trữ tình
của thơ ông nói riêng và thơ chống Mỹ nói chung. Câu thơ đầu của đoạn rất đỗi nhẹ
nhàng,bình dị nhưng lại vô cùng hàm súc:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa..”mẹ thường hay kể”
Bốn từ “ngày xửa ngaỳ xưa” sao quá đỗi quen thuộc với chúng ta. Nó xuất hiện
trong những câu chuyện cổ tích bà kể,trong những lời ru tha thiết của mẹ mỗi khi đêm về.
Từ lâu nó đã như là một yếu tố không thể thiếu dể tạo nên không gian riêng của nàng
Tấm, Hoàng Tử, của Mai An Tiêm…Nay, nó đã đi vào văn chương Việt Nam tạo nên một
định nghĩa rất bất ngờ trong thơ Nguyễn Khoa Điềm. Trong Nam Quốc Sơn Hà của Lý
Thường Kiệt, đất nước hiện ra thông qua hình ảnh “Vua chúa” và “sách trời”: “Nam quốc
sơn hà Nam Đế cư Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư” (Nam Quốc Sơn Hà) Hay như
trong “Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc” của nhà thơ Nguyễn Đỉnh Chiểu:


“Một mối xa thư đồ sộ,há để ai chém rắn đuổi hươu
hai vầng nhật nguyệt chói loà đâu dung lũ treo dê bán chó”
(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)


Những từ như “ mối xa thư đồ sộ” hay “ hai vầng nhật nguyệt chói loà” đã trang
trọng hoá đất nước. Nó thể hiện sự kì vĩ và cao cả nhưng cũng tạo một khoảng cách
thiêng liêng của con người đối với Đất Nước. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm thì lại
khác. Nhà thơ đã xoá bỏ khoảng cách đó. Đất nước đã hoá thân vào những câu chuyện cổ
tích hay những câu ca dao rất đỗi quen thuộc và hiện ra thật bình dị và gần gũi.
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Tứ thơ này làm sống lại nhiều câu tục ngữ, ca dao và truyện Trầu cau bi thương,
tình nghĩa. Qua hình ảnh “miếng trầu”, Nguyễn Khoa Điềm “nhân dân hóa” thơ mình và
có thêm một bằng chứng về đất nước hình thành từ xa xưa. Và Đất Nước cứ lớn dần lên
cùng các truyền thống như trồng tre, trồng lúa, đánh đuổi giặc ngoại xâm.
“Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
Tác giả đã dành một lời ngợi ca ,một sự trân trọng đối với tình nghĩa vợ chồng khi
nói đến “cha mẹ”.Sự thuỷ chung son sắt trải bao gian khó nhọc nhằn được ông đề cao. Vì
cuộc sống bấp bênh, đủ mọi khó khăn vất vả, chỉ có “gừng cay” và “muối mặn” chứ ít
khi ngọt ngào. Tuy nhiên “cha mẹ” vẫn dành cho nhau sự yêu thương là một điều rất
đáng quý. Ở câu thơ này, thay vì dùng chữ “yêu” tác giả lại chọn từ “thương” để đưa vào.
Bởi vì ông muốn thơ của mình giản dị và gần với văn học bình dân hơn, gần với nhân
dân hơn. Cũng như tác giả mượn hình ảnh “gừng cay muối mặn” từ câu ca dao:
“Tay nâng chén muối đĩa gừng


Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Để thể hịên tình cảm vợ chồng. Rồi đến khi “Cái kèo cái cột thành tên” thì dân tộc
ta đã bước sang một sự phát triển mới. Ngành nông nghiệp lúa nước ra đời giúp cho cuộc
sống nhân dân bớt cơ cực mặc dù cũng phải “một nắng hai sương” theo từng hạt gạo. Câu
cuối của khổ thơ này,tác giả đúc kết và khẳng định lại một lần nữa về sự ra đời cùa Đất

Nước: “Đất Nước có từ ngày đó…” Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác và sử dựng
triệt để vốn văn hoá dân gian sẵn có, sáng tạo lại khiến cho người đọc cảm thấy rất gần
gũi và bất ngờ. Trong suốt quá trình phát triển của Đất Nước, ta dều thấy bóng dáng của
những con người. Đó là cơ sở vững chắc để tác giả tiếp tục triển khai tư tưởng: Đất Nước
này là đất Nước Nhân dân ở 3 khổ thơ sau. Một không gian khác được tác giả mở ra vô
cùng khéo léo khi ông tách đôi 2 âm tiết “Đất Nước”.
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Trình tự “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, tưởng như tình cờ mà không sao đảo
ngược. Nếu thay đổi dưới dạng: Đất là nơi em đến trường, Nước là nơi anh tắm, cảm
hứng thơ sẽ tan biến. Dòng viết trên thành một câu văn xuôi rất đỗi bình thường. Văn hoá
dân gian là của nhân dân.Để khẳng định tư tưởng của mình tác giả đã vận dụng chất liệu
dân gian vào trong văn thơ của mình”. Đất nước là của nhân dân” nên việc đưa chất trữ
tình của dân gian tạo được hiệu quả cao trong việc xây dựng hình tượng đất nước, qua đó
ta thấy được sự sáng tạo cũng như độc đáo trong thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Câu thơ:
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” là một ví dụ. Hẳn ta chưa
quên câu ca dao rất đỗi ngọt ngào:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất


Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt…”
Vận dụng ý từ câu ca dao trên,tác giả đã viết nên dòng thơ đậm chất dân gian
nhưng không kém phần độc đáo, tạo nên một phong cách rất riêng của nhà thơ. Hai câu
thơ tiếp theo hình tượng Đất Nước được biến hoá vô cùng sinh động :

“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Con chim phượng hoàng và cá ngư ông là hai con vật linh thiêng được nhân dân ta
thờ phụng, nay đưa vào trong văn thơ của Nguyễn Khoa Điềm rất gần gũi. Giữa người và
thần dường như không hề có sự ngăn cách, tất cả như hoà vào nhau bình đẳng. Một lần
nữa, nhà thơ đã đưa Đất Nước từ của thần linh trở thành Đất Nước của nhân dân. Và
chính tư tưởng đó đã giúp tác giả khám phá Đất Nước trên những khía cạnh khác nhau.
Mở đầu là “Thời gian đằng đẵng”. Xuôi theo dòng lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm ghi lại
những truyền thuyết, phong tục dân gian vốn rất quen thuộc với chúng ta.
“Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau


Hàng năm ăn đâu ở đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Song song với quá trình tách - hợp, là sự hài hòa trong mối quan hệ: “anh” - “em”
thành “ta” và “Chim về”, “Rồng ở” tạo nên mối tình Lạc Long Quân - Âu Cơ. Qua các
câu thơ, tác giả cho ta thấy: đất nước bắt đầu hình thành, “lớn lên” như những mối tình
thân thiết, yêu thương. Dây là quãng thời gian thấm đẫm cội nguồn, thể hiện ước muốn
ngược dòng thời gian trở về cội nguồn, lịch sử hình thành Đất Nước. Nó khoác lên “Đất
Nước” một vẻ đẹp lạ lùng, lấp lánh chất huyền thoại. Đất Nước không đơn thuần chỉ là
núi song. Đó là nơi Lạc Long Quân và Âu Cơ yêu nhau, đó là nơi dân mình được sinh ra
và đoàn tụ. Từ đó, đất nước thành không gian của mọi người, của cộng đồng. Bên cạnh
đó, tác giả còn đánh thức tình cảm tổ tiên tình yêu quê hương đất nước. Thấm thía nhất là
hai câu thơ: “Hàng năm ăn đâu ở đâu Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ” Mùng 10 tháng

3 hàng năm , người Việt ta có phong tục Giỗ Tổ Hùng Vương để tôn vinh những ông vua
có công dựng nước. Nhà thơ sử dụng 2 chữ “cúi đầu” với vẻ tôn kính và ngưỡng mộ. Nó
như một bàn tay khẽ chạm vào tiềm thức của mỗi người con yêu nước, dù ở phương nào
cũng phải biết thờ phụng ông bà tổ tiên mình. Nguyễn Khoa Điềm đã rất ý nhị trong việc
khơi gợi lòng yêu Đất Nước trong mỗi con người. Qua khổ thơ thứ hai, đất nước được
cảm nhận như sự thống nhất hài hòa giữa cái hàng ngày và vĩnh hằng, trong mỗi cá nhân
và toàn dân tộc, trong quá khứ, hôm nay và mai sau. Từ suy ngẫm trên, Nguyễn Khoa
Điềm kết luận:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên


Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”
Trong mỗi chúng ta đều có bóng hình của Đất Nước, gắn bó rất chặt chẽ. Thế nên
chúng ta phải biết giữ gìn và bảo vệ nó. Đất Nước trọn vẹn khi dân mình biết chở che cho
nhau, đoàn kết lại. Lúc ấy Đất Nước sẽ vô cùng mạnh mẽ, bất khuất. Nhà thơ mong muốn
thế hệ sau này cũng sẽ yêu quý Đất Nước, phát triển nó như những gì thế hệ trước đã và
đang làm. Kết lại khổ thơ, tác giả nhắn nhủ đến mọi người:
“Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và chia sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Đó không chỉ là mong muốn của riêng nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm mà đó còn là

những gì tổ tiên, ông bà trông đợi nơi ta, những người con của thế hệ sau sẽ cố gắng thực
hiện. Từ “phải” như là một mệnh lệnh. Nhưng đó là mệnh lệnh của trái tim, của ý thức
trong mỗi chúng ta. Ở khổ thơ thứ 3, tư tưởng “đất nước nhân dân” còn được thể hiện qua
cách cảm nhận sâu sắc, độc đáo về phương diện địa lý.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho
Đất Nước nhựng núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên những hòn Trống mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao hồ để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học tró nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên


Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình,một ao ước,một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuôc đời đã hoá núi sông ta…”
Núi Vọng Phu, hòn Trống Mái rồi Hạ Long... chỉ thành thắng cảnh khi gắn liền
với đời sống văn hóa dân tộc, được cảm thụ qua tâm hồn quần chúng và lịch sử đất nước.
Theo lối quy nạp, từ những dẫn chứng cụ thể, nhà thơ đi đến nhận xét tổng quát:
“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuôc đời đã hoá núi sông ta…”
Trong không gian địa lý, trên khắp ruộng đồng gò bãi, Nguyễn Khoa Điềm đều
thấy dấu tích nhân dân để lại... Chính diều này đã thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa nhân
dân và đất nước. Bốn nghìn năm đối với Nguyễn Khoa Điềm không chỉ là thời gian. Với
con mắt sắc sảo của mình,nhà thơ còn nhìn thấy những điều tưởng chừng như rất bình dị
nhưng lại vô cùng quan trọng.
“Em ơi em

Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm
Đất Nước Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái,con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con


Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Nếu ở khổ 2 và 3 là cái nhìn gần, thời hiện tại thì ở đây là cái nhìn xa, nhìn về quá
khứ, theo dòng thời gian trở về buổi đầu dựng nước. Trong “Bình Ngô Đại Cáo”, Nguyễn
Trãi đã tổng kết lịch sử bằng các triều đại:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”
Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không làm như vậy. Ông nhấn mạnh vai trò của những
người trẻ tuổi vô danh. Những người đã giữ gìn, truyền lại cho con cháu mọi giá trị tinh
thần, vật chất. Không chỉ bảo vệ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã tên làng qua các cuộc
đi xa mà họ còn quyết tâm đánh giặc bảo vệ quê hương Đất Nước. Bằng cách này, tác giả
đã trả lại Đất Nước cho những người chủ chân chính, những người đã góp bao công sức
trong thầm lặng xây dựng nên Đất Nước. Đây là một cách nhìn rất mới trong thơ văn yêu

nước,củng cố thêm cho tư tưởng của tác giả.
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi


Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã,tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho ngừơi sau trồng cây hái trái”
Đại từ “họ” được lặp đi lặp lại ,đặt ở đầu câu làm nổi bật vai trò của nhân dân,
những ai đã làm ra sản phẫm vật chất, tinh thần cua Đất Nước. Hàng loat dộng từ như
“giữ”,”truyền”,”gánh” được tác giả sử dụng để tạo nên hình tượng người dân thật lực
lưỡng,khỏe mạnh không hề mệt mỏi trong công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ Quốc. Nhân
dân đã đem cả cuộc đời đóng góp, phát triển và bảo tồn mọi giá trị vật chất cũng như tinh
thần cho con cháu. Vậy nên nói “Đất Nước là của Nhân dân” chẳng hề sai. Thơ của
Nguyễn Khoa Điềm là một thế giới nên thơ, mộc mạc và rất dân dã. Nó lấp lánh những
câu ca dao, những câu chuyện cổ tích khi xưa. Cũng chính nhờ điều đó mà ta thấy nhân
dân hiện diện xuyên suốt toàn bài thơ. Từ nền văn hoá dân gian ấy, tác giả khám phá ra
vẻ đẹp tâm hồn, tính cách người Việt Nam chung thuỷ, có nghĩa có tình nhưng lại rất
cứng rắn trước quân thù.
“Dạy anh biết “yêu em từ thưở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi nagỳ thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về
Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm năm dáng sông xuôi…”



Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” đã có quá trình phát triển lâu dài nhưng chỉ
đến văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức ấy mới đạt tới đỉnh cao, mang một sắc thái mới
lạ và thuýêt phục.
“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Hai câu thơ , hai vế song song, đồng đẳng là một cách định nghĩa mới về đất nước.
Đỉnh cao của tính chính luận và cảm xúc trữ tình hội tụ trong câu: “Để Đất Nước này là
Đất Nước Nhân dân”. Chân lý ấy thể hiện đầy đủ trong ca dao. Bởi vậy, ngoài việc nhấn
mạnh qua từ “để”, tác giả còn láy lại điệp khúc “Đất Nước của ca dao thần thoại”. Đây là
kết quả tất yếu của một thời đại nhân dân thực sựlàm chủ đời mình,làm chủ Đất Nước.
Qua đoạn thơ, ta thấy sự vận dụng sáng tạo văn học dân gian của Nguyễn Khoa Điềm.
Ông ít lặp lại nguyên văn mà thường sử dụng từng ý, từng hình ảnh thơ của người xưa.
Giọng chính luận - trữ tình phù hợp với nội dung tác phẩm. Thực ra, tư tưởng đất nước
nhân dân đã hình thành từ lâu. Nguyễn Khoa Điềm chỉ nâng cao tầm tư tưởng ấy và diễn
đạt nó bằng ngôn từ, giọng điệu mới, độc đáo. Ông tạo được một đoạn thơ hiện đại đậm
đà bản sắc dân gian. Bởi vậy, thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa quen vừa lạ và có sức thuyết
phục cao.


BÀI MẪU 2:
Cảm hứng về Đất Nước là nguồn đề tài vô tận của các văn nhân, nghệ sĩ. Và bài
thơ "Đất nước" trong trường ca "Mặt đường khát vọng" của Nguyễn Khoa Điềm không
nằm ngoài dòng chảy vô tận ấy. Một Đất nước bình dị, gần gũi được tìm thấy trong mỗi
người dân Việt. Đất nước ấy đã hòa chảy cùng dòng máu nóng trong cơ thể thành nhịp
đập trong trái tim mỗi người để "Trong anh và em hôm nay/ Đều có một phần Đất Nước"
Đoạn thơ "Đất nước" thuộc chương V trường ca "Mặt đường khát vọng" được chia
thành hai phần: Phần đầu gồm 42 câu là cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước
trong cội nguồn văn hóa, lịch sử và trong sự gắn bó thân thiết với cuộc sống hằng ngày
của mỗi người dân Việt Nam. Phần thứ 2 là cảm hứng chủ đạo về Đất nước, đó là sự ngợi
ca và khẳng định "Đất Nước này là Đất Nước của Nhân Dân".

Nhà thơ phát hiện Đất Nước trên bình diện về lịch sử, địa lý, văn hóa và truyền
thống, tinh thần trong lao động và những cuộc chiến đấu ngoan cường của dân tộc ta.
Trong đoạn thơ "Đất Nước", Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn
hóa dân gian, truyền thuyết, cổ tích, phong tục tập quán và ca dao dân ca… trong cách
diễn đạt bình dị, vừa ấn tượng lại vừa gần gũi mà đầy mới mẻ.
Những vần thơ về Đất nước ấy, con người ấy được "thai nghén" trong cuộc kháng
chiến trường kì chống Mỹ cứu nước tại chiến trường Bình – Trị – Thiên khói lửa năm
1971 làm dâng lên niềm tự hào và xao động về một đất nước đau thương mà anh dũng.
Nguyễn Khoa Điềm đã viết nên một đất nước như thế, trong một hoàn cảnh như thế để
rồi từ đó ngân lên những câu thơ thật xúc động, những lời thơ yêu thương về Đất mẹ Việt
Nam.
Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi,
Đất nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa"…mẹ thường hay kể...".


Nhà thơ đà truyền tải tới người đọc một phát hiện mới, một cái nhìn mới, tinh tế
và toàn diện, để mỗi chúng ta có cho mình một định nghĩ cụ thể về Đất nước. Đất nước là
bản sắc văn hóa, là truyền thống muôn đời của cha ông tới hôm, là ngọn núi con sông là
vòm trời này luôn ở bên ta và mãi trong ta trong mỗi thăng trầm của lịch sử và nấc thang
cuộc đời.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
… Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Ở đây, trong những vần thơ này là cả dặm dài chiều sâu văn hóa – địa lý – lịch sử
dân tộc từ thiên nhiên thuần túy tới những con người vô danh đã tạo ra những công trình
của núi sông, làm nên những vùng đất xứ sở đi và ca dao, dân ta, đi vào tâm thức mỗi
người.

Có thế, ta mới biết "những con cóc, con gà quê hương đã góp cho Hạ Long thành
thắng cảnh"; có thế ta mới thấm thía bài học về cách nhìn sự vật hiện tượng ở chiều sâu.
Chỉ ngần ấy câu thơ, ta biết thêm và muốn biết thêm và hiểu thêm về những nơi đã đặt

chân đến và chưa từng đặt chân đến. Và khao khát được ngắm nhìn cảnh đẹp của núi
sông, để thấm thía công lao của cha ông muôn đời.
Nguyễn Khoa Điềm đã phù phép để bầu không gian văn hóa dân gian trong nhân
dân lao độc bao bọc lấy câu chữ, thấm vào lời thơ Đất nước bằng việc sử dụng tài tình,
sáng tạo ngôn ngữ làm sáng lên linh hồn trích đoạn "Đất nước của Nhân Dân"
"Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc
Nước là nơi con cú ngư ông móng nước biển khơi
Nhưng có khi chỉ bằng rất ít từ ông đã gợi tả lên một truyền thuyết:
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng"


Đoạn trích giúp ta nhìn vào lịch sử, văn hóa dân tộc thêm một bình bình diện mới,
một góc độ mới với niềm biết ơn và kính trọng những con người lao động bình dị, những
con người được gọi bằng hai tiếng bình dị "Nhân dân", "Đất nước này là đất nước của
nhân dân", nhân dân chính là điệu hồn dân tộc:
"Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân"
Đoạn trích đã mang đến cho người đọc những cảm nhận tinh tế và mới mẻ về Đất
nước. Đất nước đã thấm biết bao xương máu, mồ hôi và nước mắt của thế hệ cha ông,
chính vì thế đất nước là sự hoá thân của bao dáng hình. Để cho mỗi người Việt Nam hôm
nay và mai sau có "một phần Đất Nước" cho riêng mình. Để luôn nhắc nhở nhau:
"Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời..."




×