Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tổng hợp các bài văn mẫu bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm Văn mẫu lớp 12 Bài 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.12 KB, 13 trang )

VĂN MẪU 12: ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM
TỔNG HỢP BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH 9 CÂU ĐẦU TRONG BÀI
THƠ ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM”

BÀI MẪU 1:
Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Ông từng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin nay đã nghỉ hưu. Các tác phẩm tiêu
biểu: Đất ngoại ô,Trường ca Mặt đường khát vọng. Đất nước là bài thơ được trích từ
chương V trường ca “Mặt đường khát vọng” được hoàn thành ở chiến trường Bình Trị
Thiên năm 1971, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ miền Nam xuống đường tranh đấu hòa
hợp với cuộc kháng chiến của dân tộc. Đoạn thơ ta sắp phân tích sau đây là đoạn thơ để
lại dấu ấn về Đất Nước thân thương, bình dị trong trái tim mỗi con người:
1.

Khái quát: Khác với các nhà thơ cùng thế hệ – thường tạo một khoảng cách khá xa
để chiêm ngưỡng và ngợi ca đất nước, với các từ ngữ, hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, có tính chất
biểu tượng. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự
nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn
thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta
qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con
người Việt.
Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình chúng
ta, từ lời kể chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập quán quen thuộc
(tóc mẹ thì bới sau đầu) cho đến tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo ta ăn hàng
ngày, cái kèo cái cột trong nhà… Tất cả những điều đó làm cho Đất nước trở thành cái
gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống hàng ngày của con người.

2.

Nội dung cần phân tích, cảm nhận
Câu thơ mở đầu được nhà thơ viết theo thể câu khẳng định:




“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”
Theo cách giải thích của Nguyễn Khoa Điềm thì “Đất nước là một giá trị lâu bền,
vĩnh hằng; đất nước được tạo dựng, được bồi đắp qua nhiều thế hệ, được truyền nối từ
đời này sang đời khác. Cho nên “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi!” (Nguyễn Khoa Điềm
– Tác giả và Tác phẩm). Cách nói “Đất Nước đã có rồi” đã thể hiện niềm tự hào mãnh
liệt về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử. Đất Nước cũng như Trời
và Đất, khi ta sinh ra Đất đã ở dưới chân, Trời đã ở trên đầu. Cũng như vậy, không biết
Đất Nước có tự bao giờ nhưng khi ta lớn lên ta đã thấy Đất Nước của mình rồi, nó hiện
diện quanh ta với những gì yêu thương nhất.
Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả vẻ đẹp của Đất Nước trong chiều sâu văn
hóa, phong tục. Những từ ngữ như Đất Nước “có trong”, Đất Nước “bắt đầu” là những từ
ngữ diễn tả rất nhẹ nhàng về sự ra đời của Đất Nước:
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Tác giả mượn chất liệu văn học dân gian để diễn tả về Đất Nước. Đối với trẻ thơ,
Đất Nước thân thương qua lời kể “Ngày xửa ngày xưa” của bà của mẹ… Có nghĩa là Đất
Nước đã có từ lâu đời. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi
những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện
diện trong truyện cổ. Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những
câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài
hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và
lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần
con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta



Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần
(Truyện cổ nước mình)
Không chỉ “có trong những cái ngày xửa ngày xưa”, Nguyễn Khoa Điềm còn xác
định cái buổi ban đầu ấy qua một nét sống giản dị nhưng đậm đà của những người mẹ,
người bà Việt Nam. Đó là phong tục ăn trầu: “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ
bà ăn”. Đất Nước lớn lao, kỳ vĩ sao lại chứa đựng trong một miếng trầu bé nhỏ? Hình
thức câu thơ chứa đựng sự phi lí nhưng lại hoàn toàn hợp lí bởi tất cả những điều lớn lao
đều bắt nguồn từ những điều bé nhỏ. Ví không có những dòng suối nhỏ sao trở thành
dòng sông, ví như không có những dòng sông sao có thể trở thành biển cả. Cho nên nhắc
đến “miếng trầu” chắc hẳn là nhắc đến một điều sâu thẳm. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện
cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu
cũng từ câu truyện này mà nên. Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là
4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu
tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ
phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời. Hoàng Cầm trong bài thơ “Bên kia
sông Đuống” cũng đã từng nhắc đến nét đặc trưng ấy:
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng
Một Đất Nước không thể thiếu truyền thống mà một trong những truyền thống quý
báu của dân tộc ta là truyền thống đánh giặc giữ nước:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.
Nhà thơ lại liên tưởng song hành về sự lớn mạnh của đất nước qua ý thơ “Đất
Nước lớn lên…”. Chữ “lớn lên” là để chỉ sự trưởng thành của Đất Nước. Câu thơ gợi
nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, mới lên ba đã biết xông pha trận mạc.
Đứa bé ấy đã vươn vai trở thành chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà
đánh giặc. Từ đó, Thánh Gióng trở thành biểu tượng khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam
kiên cường, bất khuất trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Tố Hữu cũng đã có thơ:


Ta như thuở xưa thần Phù Đổng

Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi
(Tố Hữu)
Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến
hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ
giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt
Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi…
Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi
làng quê. Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam:
thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất
khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc
“Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ”, bởi:
“Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường”.
Từ truyền thống đánh giặc ngoại xâm Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khai thác
thêm nhiều yếu tố mang vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng


Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam, không ai khác là những người
mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ
một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gợi nhớ ca dao:
Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh

Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú,
lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí
ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: “Cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:
“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Hay:
“Muối ba năm muối đang còn mặn
Gừng chín tháng gừng hãy còn cay
Đôi ta tình nặng nghĩa đầy
Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”
Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ
nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời.
Quy luật của tự nhiên là gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn. Quy luật
trong tình cảm con người là con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong
đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái,
núi Vọng Phu… đi vào năm tháng. Từ cha mẹ thương nhau mới đi đến “Cái kèo cái cột
thành tên”. Câu thơ gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là
tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh
được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau;


siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con cái Kèo, cái Cột
cũng ra đời.
Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu
thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Câu thơ gợi nhắc
bài ca dao:
Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày
Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta
những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống
lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Để làm ra hạt gạo ta ăn hàng ngày, người nông
dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt
gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân bao đời nay.
Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: Đất Nước có từ
ngày đó. “Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có
truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước.
Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những
câu hát dân ca”. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước
trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật
đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa
Điềm.
3.Tổng kết nghệ thuật: Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng
khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh
giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ,
thành ngữ… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn


ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang
đậm hồn thơ triết lí.
Tóm lại, bằng cảm nhận rất đỗi thân thương, gần gũi. Nguyễn Khoa Điềm đã
mang đến cho chúng ta một hình ảnh Đất Nước bình dị nhưng không kém phần tươi đẹp.
Đọc đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung, ta cảm nghe như cội nguồn dân tộc, cội
nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta
thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.


BÀI MẪU 2:

Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng thành trong
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của dân tộc ta. Thơ ông đã phản ánh khá sinh động
hình ảnh hào hùng của nhân dân ta, đất nước ta trong cuộc đấu tranh một mất một còn với
kẻ thù để giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Hay nói một cách khác, thơ Nguyễn
Khoa Điềm thể hiện một tình yêu nước, yêu chân lí cách mạng tha thiết, bộc lộ niềm tự
hào dân tộc cao độ, niềm tin chắc chắn vào tương lai tất thắng của cách mạng. Đặc biệt là
Nguyễn Khoa Điềm luôn có ý thức nhắc nhở thế hệ hôm nay và những thế hệ mai sau
phải biết gìn giữ và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc. Điều này được Nguyễn
Khoa Điềm bộc lộ khá rõ trong đoạn thơ sau:
Em ơi em
...
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Đoạn thơ đã thể hiện được cái “tâm" của nhà thơ đối với đất nước. Nhà thơ mong
muốn thế hệ hôm nay đừng bao giờ quên đi nguồn cội của mình, đừng đánh mất quá khứ,
bởi quá khứ đã làm nên hiện tại, không có quá khứ thì làm sao có hiện tại. Dân tộc ta có
lịch sử bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là một quá khứ bi thương nhưng rất
hào hùng của dân tộc. Chính cái quá khứ ấy đã hun đúc làm nên bề dày truyền thống của
dân tộc, làm cho dân tộc vẫn tồn tại đến ngày hôm nay qua bao cuộc chiến tranh xâm
lược của kẻ thù mạnh hơn ta gấp bội về nhiều mặt như quân số, kinh tế, vũ khí... chúng ta
thắng kẻ thù bằng sức mạnh của lòng yêu nước. Chính vì vậy mà trong đoạn thơ này, nhà
thơ Nguyễn Khoa Điềm đã nhắc nhở, khuyên nhủ thế hệ hôm nay hãy nhìn rất xa vào quá
khứ của dân tộc:
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm đất nước


Nhìn về quá khứ rất xa để thấy được năm tháng nào cũng người người lớp lớp bất
phân già trẻ, gái trai cũng luôn vừa cần cù làm lụng để kiếm miếng ăn vừa đánh giặc cứu
nước, bất chấp hy sinh, gian khổ, bất chấp trước bạo lực của kẻ thù:

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ông cha ta ngày trước đã luôn đặt quyền lợi của Tổ quốc lên trên hết, họ sẵn sàng
hy sinh những tình cảm riêng tư của mình như tình yêu, tình chồng vợ để đi đánh giặc
cứu nước với một thái độ dứt khoát mà không hề so đo, tính toán, phân bì, hơn thiệt. Hơn
nữa, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng của dân tộc ta là một chủ nghĩa yêu nước,
anh hùng tập thể,bất phân già trẻ, đàn ông hay đàn bà:
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Đúng là nhiều người đàn bà anh hùng cả anh và em đều nhớ. Chúng ta làm sao
quên được những người đàn bà đã đi vào lịch sử của dân tộc trong quá khứ như bà Trưng,
bà Triệu...
Và trong cái chiều dài của lịch sử dân tộc ấy, có biết bao lớp người con gái, con
trai giống như lớp tuổi chúng ta bây giờ, họ đã sống và chết một cách giản dị và bình tâm
không ai nhớ mặt đặt tên, nhưng mà nhà thơ đã khẳng định vai trò của họ đối với đất
nước thật vô cùng to lớn. Họ chính là những con người bình thường, giản dị, nhưng có
một tình cảm sâu đậm đối với đất nước. Khi đất nước lâm nguy, bị kẻ thù xâm chiếm, họ
tạm gác lại những tình cảm riêng tư, lên đường đi chiến đấu, đem máu xương của mình
hiến dâng cho Tổ quốc. Chính họ là những con người “làm ra Đất Nước”.


Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt, đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Điều này còn được nhà thơ khẳng định rõ trong hai câu thơ cũng ở trong trích
đoạn này:
Để Đất Nước này là Đất Nước nhân dân
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại.
Lời nhắn nhủ của nhà thơ đối với thế hệ hôm nay hết sức thuyết phục, bởi nó
không phải là lời giáo huấn suông, mà lời giáo huấn ấy dựa trên một sự thật rõ ràng, hiển
nhiên từ hiện thực lịch sử sinh động của dân tộc ta.
Hiện thực ấy qua từng thời đại đã làm nên bề dày truyền thống yêu nước của lịch
sử dân tộc.
Tóm lại, trong đoạn thơ trên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã bộc lộ tấm lòng yêu
nước thiết tha, lòng tự hào dân tộc cao độ của mình và nhà thơ muốn truyền lại cảm xúc
trào dâng ấy đến với thế hệ hôm nay với mong ước những thế hệ hôm nay đừng bao giờ
quên đi truyền thống tốt đẹp ấy của dân tộc, phải biết kế thừa, gìn giữ và phát huy những
truyền thống tốt đẹp ấy, để đưa đất nước đi xa hơn “đến những tháng ngày mơ mộng"
trong tương lai.


BÀI MẪU 3:
I/ Mở bài
- Nguyễn Khoa Điềm (1943) thuộc thế hệ nhà thơ chống Mỹ cứu nước.Đất nước,
nhân dân, cách mạng luôn là nguồn cảm hứng phong phú của thơ ông.
- “Đất nước” là một đọan trích thuộc chương V trong bản trường ca “Mặt đường
khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, sáng tác năm 1971, tại chiến trường Bình Trị Thiên.
- Chín câu thơ đầu của đọan thơ :
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có từ ngày đó”.
Là những cảm nhận sâu sắc của nhà thơ về sự sinh thành và phát triển của Đất

nước qua những hình tượng cụ thể, sinh động,gợi cảm sôi nổi và thiết tha.
II/ Thân bài
* Tòan đọan thơ có chín câu, được viết theo thể thơ tự do, hình ảnh thơ giàu sức
liên tưởng…, nhà thơ giúp cho người đọc có những suy nghĩ, cảm nhận về cội nguồn và
sự hình thành của Đất nước một cách sâu sắc.
* Trước hết,ở hai câu thơ đầu của đọan thơ, Tác giả đi tìm sự lý giải về sự sinh
thành của đất nước.Đất nước có từ bao giờ ? Để trả lời cho câu hỏi này, nhà thơ đã viết:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi,
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”.
- Tham vọng tính tuổi của Đất nước của nhà thơ thật khó bởi chính cái “ngày xửa
ngày xưa” (thời gian nghệ thuật thường thấy trong truyện cổ tích) có tính phiếm chỉ, trừư
tượng, không xác định. Đó là thời gian huyền hồ, hư ảo, thời gian mang màu sắc huyền
thoại. Song chính ở “cái ngày xửa ngày xưa” đó, nhà thơ đã giúp cho chúng ta nhận thức


được. Đất Nước đã có từ rất lâu, rất xa, từ bao giờ chẳng biết .Chỉ biết rằng: khi ta cất
tiếng khóc chào đời, thì Đất Nước đã hiện hữu.
- Không dừng lại ở khát vọng đo đếm tuổi của đất nước, nhà thơ còn nỗ lực hình dung về
khởi đầu và quá trình trưởng thành của đất nước :
“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn,
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
+ Phải chăng, khởi thủy của đất nước là văn hóa được kết tinh từ tâm hồn và tính
cách anh hùng của con người Việt Nam. Ở đây,hình ảnh “miếng trầu” đã là một hình
tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ từng xuất hiện trong các câu chuyện cổ tích,ca
dao,tục ngữ.Bởi lẽ,“miếng trầu”là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chungcủa tâm
hồn dân tộc.Từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ văn hiện đại, cây tre đã trở thành
biểu tượng cho sức mạnh tinh thần dân tộc quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước.
- Và còn nữa, trong quá trình trưởng thành, đất nước còn gắn liền với với đời sống
văn hóa tâm linh, bằng phong tục tập quán lâu đời còn truyền lại và bằng chính cuộc sống
lao động cần cù vất vả của nhân dân:

“Tóc mẹ búi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên,
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần ,sàng…”.
+ Đọan thơ, bằng những ý thơ giàu sức liên tưởng , nhà thơ đã đưa người đọc trở
về với những nét đẹp văn hóa một thời của người phụ nữ Việt Nam bằng hình ảnh “tóc
mẹ búi sau đầu”, gợi tả một nét đẹp thuần phong mỹ tục của người Việt; và những câu ca
dao xưa ca ngợi vẻ đẹp đậm tình nặng nghĩa trong cuộc sống vợ chồng “cha mẹ thương
nhau bằng gừng cay muối mặn”.
+ Không những vậy, hình ảnh thơ còn thể hiện sự cảm nhận về đất nước gắn với
nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, lấy hạt gạo làm gia bản…


- Đọan thơ mở đầu trả lời cho câu hỏi về cội nguồn đất nước - một câu hỏi quen
thuộc, giản dị bằng cách nói cũng rất giản dị, tự nhiên nhưng cũng rất mới lạ: nhà thơ
không tạo ra khỏang cách sử thi để chiêm ngưỡng và ca ngợi đất nước hoặc dùng những
hình ảnh mĩ lệ , mang tính biểu tượng để cảm nhận và lý giải , mà dùng cách nói rất đỗi
giản dị,tự nhiên với những gì gần gũi , thân thiết , bình dị nhất.
- Gịong thơ thâm trầm, trang nghiêm; cấu trúc thơ theo lối tăng cấp : Đất nước đã
có; Đất Nước bắt đầu; Đất Nước lớn lên; Đất Nước có từ… giúp cho người đọc hình
dung cả quá trình sinh ra, lớn lên, trưởng thành của đất nước trong thời gian trường kỳ
của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Đặc biệt là cách nhà thơ viết hoa hai từ Đất
Nước ( vốn là một danh từ chung) cũng đã giúp ta cảm nhận tình yêu và sự trân trọng của
nhà thơ khi nói về đất nước, quê hương của mình.
III/ Kết bài
- Tóm lại, chín câu thơ mở đầu cho đọan trích “Đất Nước” đã thật sự để lại những
ấn tượng và cảm xúc sâu sắc cho người đọc về sự sinh thành và trưởng thành của đất
nước.
+ Bởi lẽ, đọan thơ đã giúp cho tất cả mọi người, đặc biệt là thế hệ trẻ, những ai mà
còn có những nhận thức mơ hồ về đất nước mình thật sự phải suy gẫm.

+ Bởi lẽ, đọan thơ còn cho chúng ta hiểu được đất nước thật thân thương và gần
gũi biết nhường nào. Từ đó đọan thơ bồi dưỡng thêm cho chúng ta về tình yêu đất nước,
quê hương mình và biến tình yêu ấy bằng thái độ, hành động dựng xây, bảo vệ đất nước.



×