Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Tổng hợp các bài văn mẫu bài thơ đất nước của nguyễn khoa điềm Văn mẫu lớp 12 Bài 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.53 KB, 6 trang )

VĂN MẪU 12: ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM
BÀI VĂN MẪU “QUAN ĐIỂM “ĐẤT NƯỚC LÀ CỦA NHÂN DÂN”
QUA BÀI ĐẤT NƯỚC CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM”

BÀI LÀM:
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ như Lê Anh Xuân, Bằng Việt, Nguyễn Mĩ, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy,
Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh… Nguyễn Khoa Điềm nổi tiếng
với hai tác phẩm là trường ca “Mặt đường khát vọng” và bài thơ “Khúc hát ru những em
bé lớn trên lưng mẹ”.
Nguyễn Khoa Điềm cũng như một số nhà thơ hàng đầu của thế hệ ông đã cảm
nhận sâu sắc thời điểm lịch sử trang nghiêm nên đã để tâm huyết vào chủ đề lớn của thơ
ca là đất nước. Và tất nhiên để phù hợp với nội dung phong phú, rộng lớn đó, phải có một
hình thức có dung lượng lớn là trường ca. Cho nên nhiều trường ca đã ra đời trong giai
đoạn văn học này mà nổi tiếng hơn cả là ba trường ca “Những người đi tới biển” của
Thanh Thảo, “Đường tới thành phố” của Hữu Thỉnh và “Mặt đường khát vọng” của
Nguyễn Khoa Điềm. “Đất nước” là một đoạn trích thuộc phần đầu chương V – chương
trọng tâm của trường ca “Mặt đường khát vọng”, (chương năm), là chương trong tâm của
tác phẩm. Tác giả tập trung trong chương thơ này là những cảm nhận và suy nghĩ sâu sắc
về đất nước: “Đất nước này là Đất Nước Nhân Dân”. Nhận thức mới mẻ ấy cũng chính là
sự lựa chọn, ý thức về trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước và dân tộc trong cuộc
đấu tranh giành độc lập, thống nhất nước nhà. Nguyễn Khoa Điềm kết hợp giữa trữ tình
và chính luận, lối kết hợp này trong thơ giống Chế Lan Viên (thường các nhà thơ tự sáng
tác những bài thơ dài và trường ca đều kết hợp giữa trữ tình và tự sự). Trữ tình – Chính
luận phát huy đựơc mặt trí tuệ, thể hiện sự uyên bác với những kến thức sách vở triết lí,
nếu biết khéo léo kết hợp với xúc cảm, với tri thứ nhỡn kiến thì sẽ tạo ra sự hấp dẫn lạ
lùng cho thơ.


Ta có thể hình dung chính luận trong khúc trường ca này như một sợi dây: Đất
nước trường tồn trong chiều dài thời gian, trong chiều rộng không gian, trong phong tục


tập quán, trong tâm hồn và tính cách của người Việt. Bằng sợi dây dẻo dai ấy, những hạt
cườm trữ tình óng ánh, lung linh được xâu lại thành chuỗi cườm “Đất Nước muôn đời”.
Ta hãy xem nghệ thuật xâu cườm dẻo dai, cần mẫn, khéo léo của thi sĩ Nguyễn Khoa
Điềm:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Điệp ngữ “Đất Nước” vọng lên khúc nhạc thiêng liêng. Thiêng liêng về thời gian
thăm thẳm “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, thiêng liêng với cổ tích, thiêng liêng với
“miếng trầu bây giờ bà ăn”, thiêng liêng với sự trưởng thành về ý thức bảo vệ Tổ quốc:
“Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”
Nhờ “sợi chỉ” chính luận mà những “hạt cườm” của đời sống vật chất (miếng trầu,
cây tre, tóc, cái kèo cái cột, hạt gạo…) và đời sống tinh thần (chuyện cổ tích, cha mẹ
thương nhau…) được xâu lại tạo ra hết bất ngờ này đến bất ngờ khác:
“Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Tác giả chuyển từ những câu kể sang những câu đẳng thức, từ những chi tiết xa
xôi đến những chi tiết gần gũi đậm đặc trữ tình. Ca dao thấm trong từng lời:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
“Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
Nếu thời gian hiện lên trong “chuỗi cườm” trữ tình – chính luận thật là thiêng
liêng thì không gian hiện lên thơ mộng, hùng vĩ:


“Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
… Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Để mở rộng khái niệm đất nước, tăng cường bề dày, bề sâu của khái niệm này, tác
giả điệp lại kiểu câu đẳng thức “Đất là…”, “Nước là…” nhưng các hình ảnh của xúc
cảm, của ý tưởng đều mới, giống như những biến tấu trong âm nhạc vừa nhấn mạnh chủ
đề, vừa mở rộng chủ đề gây ấn tượng mới lạ. Luận lí của mạch chính luận là từ xa đến
gần, từ khái quát đến cụ thể, từ ngoài vào trong, từ cộng đồng đến cá nhân:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hoà nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”
Những suy nghĩ về đất nước trong mỗi cá nhân càng sâu sắc thì giọng điệu trữ tình
càng thống thiết:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Để dẫn đến những suy luận về sự trường tồn của đất nước, nhà thơ đã huy động
vốn kiến thức của sách vở, của đời sống, của lịch sử, địa lí, của truyền thuyết, của ca dao,
của phong tục tập quán… Mỗi chi tiết đều có tính thẩm mĩ và được nuôi dưỡng trong xúc
cảm của nhà thơ, cho nên suy luận thơ của tác giả vừa có sức thuyết phục về trí tuệ lại


vừa truyền cảm. Sang đoạn hai, nhà thơ phát triển và mở rộng chủ đề Đất Nước để dẫn
đến chiều sâu của khái niệm này là “Đất Nước Nhân dân”. Vẫn là mạch trữ tình – chính
luận, nhưng trên sợi chỉ chính luận, ta nhận ra những hạt cườm có màu sắc và hình dạng
khác. Trên kia là những hình ảnh của “Đất Nước đã có rồi” và đây là những hình ảnh của
con người các thời đại “góp cho Đất Nước”. Phẩm chất thi sĩ biểu hiện ở sự lựa chọn

những “hạt cườm” để xâu vào sợi dây chính luận ấy.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng
Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên”
Hồi đó đất nước còn đang bị kẻ thù chia cắt, nhà thơ viết trường ca “Mặt đường
khát vọng” ở chiến trường, nhưng trong tư duy của nhà thơ là một đất nước thống nhất.
Những tên đất, tên núi, tên sông, sự tích, những truyền thuyết đều gắn bó máu thịt trong
một cơ thể thống nhất. Vừa mới thấy “những núi Vọng Phu” đâu như ở Bình Định (mà
núi Vọng Phu trên đất nước ta nơi nào chẳng có) đã thấy “hòn Trống Mái” ở Sầm Sơn
(Thanh Hoá), vừa mới thấy “gót ngựa của Thánh Gióng” suốt dọc đường từ Bắc Ninh
đến Lạng Sơn đã thấy “những con rồng” xanh thẳm ở Nam Bộ (sông Cửu Long). Những
“núi Bút, non Nghiên” ở xứ Quảng, những “con cóc, con gà” ở Hạ Long, nhưng “Ông
Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” đều góp phần tạo ra “một dáng hình, một ao ước,
một lối sống ông cha”. Đất nước thống nhất trong máu thịt, trong xương tuỷ, trong tình
cảm, trong ước vọng như thế, kẻ thù nào chia cắt được!
Nhưng đó chỉ là một khía cạnh tư tưởng chủ đề của khúc trường ca này. Những dòng
khái quát sau đây mới là dòng mạch chính của chủ đề tác phẩm:


“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”

Rồi nhà thơ chuyển từ bút pháp sử thi sang giọng điệu trữ tình, nhà thơ tâm tình
với “em” mà tìm sự đồng cảm của hết thảy chúng ta:
“Em ơi em Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con…”
Càng nhìn sâu vào “bốn nghìn năm Đất Nước”, nhà thơ càng thấm thía với công
lao xây dựng, vun đắp, bảo vệ đất nước. Đặc biệt là lớp người tuổi trẻ, những “con gái,
con trai bằng tuổi chúng ta” đã làm cho nhà thơ xúc động mãnh liệt. Có lẽ đây là trực
cảm của nhà thơ đối với lớp thanh niên trong thời kì chống Mĩ cứu nước:
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.
Chính những người anh hùng vô danh ấy đã “giữ và truyền” cho ta từ hạt lúa đến
ngọn lửa, từ ngôn ngữ đến hành động:
“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân”
Như vậy là theo mạch chính luận và suy tưởng, tác giả đã dẫn dắt đến chiều sâu
chủ đề khúc trường ca. Nhưng tác giả không dừng ở phát hiện “Đất Nước này là Đất


Nước Nhân Dân” mà còn muốn cho khái niệm này ngân vang lên trong thần thoại, trong
cổ tích, trong ca dao dân ca. Khúc trường ca không bị khô khốc trong triết lí mà trở nên
hồn nhiên, tươi mát, huyền ảo:
“Đất Nước của Nhân Dân,
Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu…”
“Đất nước” là một trích đoạn hay trong bản trường ca “Mặt đường khát vọng” của
Nguyễn Khoa Điềm. Bằng trữ tình – chính luận, tác giả đã khéo léo dẫn dắt đến chủ đề
sâu sắc là Đất Nước Nhân Dân. Xúc cảm trực tiếp, mãnh liệt từ cuộc chiến đấu sinh tử
của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mĩ mà tác giả đã huy động tình cảm, trí
tuệ, kiến thức về địa lí, lịch sử, văn học, đặc biệt là văn học dân gian để diễn tả sức mạnh
thần kì của Nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Một “Đất Nước
Nhân Dân” tươi đẹp và thần kì như thế sẽ chiến thắng bất kì kẻ thù xâm lược nào.



×