Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Chương 6 ứng dụng ngọn lửa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (346.72 KB, 7 trang )

100

Chương 6
ỨNG DỤNG CỦA NGỌN LỬA
Ngọn lửa là nơi mà có nhiều phản ứng hóa học xảy ra và thường phát nhiệt, vì thế
người ta có thể sử dụng ngọn lửa để tổng hợp một số hợp chất hóa học. Những hợp chất
hóa học này có thể là sản phẩm cuối cùng của sự cháy của các chất tham gia phản ứng ban
đầu hay các sản phẩm trung gian của cùng một sự cháy. Trong trường hợp sau, người ta
hay dừng phản ứng trước khi sản phẩm mong muốn bị chuyển hoá thành các hợp chất
khác. Để làm điều đó, người ta thường dùng phương pháp làm lạnh đột ngột.
Việc tổng hợp những chất hóa học cũng có thể thực hiện được từ sự chuyển hoá của
các chất tham gia phản ứng được đưa vào trong các khí đang cháy ở đó ta tận dụng được
năng lượng đã có sẵn từ quá trình cháy.

6.1

Sự tạo thành các hạt cacbon trong ngọn lửa

Một thực tế mà ai cũng biết rằng các ngọn lửa đốt cháy hiđrocacbon sinh ra tương đối
dễ dàng than và khói. Than được hình thành đối với những ngọn lửa rất giàu nhiên liệu,
nghĩa là khi hỗn hợp khí có chứa một lượng nhiên liệu cao hơn nhiều so với yêu cầu đối
với sự cháy hợp thức với oxi. Muội than được hình thành do thiếu oxi cần thiết cho sự
cháy. Những ngọn lửa như vậy có màu vàng sáng. Đó là sự phát ra một quang phổ liên tục
do những hạt nhỏ than có mặt trong các khí bị cháy. Một ngọn lửa được tạo thành từ sự đốt
cháy hiđrocacbon đã được trộn đều trước và nghèo hiđrocacbon hay đúng thành phần hợp
thức không có sự phát màu này, mà nó gần như không màu và không nhìn thấy (ví dụ các
ngọn lửa của hiđro và oxi) hoặc là có màu xanh. Màu xanh là nguồn gốc của các quá trình
phát quang hóa học mà ta đã nói tới ở trên.
Về mặt ứng dụng công nghiệp đốt cháy trong các lò đốt, sự có mặt của tro than có tác
dụng không tốt, song sự tạo thành các hạt cacbon được ứng dụng để sản xuất muội cacbon
cho công nghiệp cao su và các ngành công nghiệp khác. Trong phần trước, chúng ta đã


thấy rằng một ngọn lửa bức xạ là cần thiết cho một lò đốt, ngược lại, kiểu truyền nhiệt này
là không thuận lợi trong một xilanh của động cơ nổ. Trong trường hợp này, sự cháy có
mục đích thực hiện một công cơ học và hoàn toàn không cần thiết cho sự đốt nóng xilanh.
Vậy tro than là gì? và nó được hình thành như thế nào?

Dưới kính hiển vi điện tử, tro than được lấy ra từ các ngọn lửa có dạng những hạt nhỏ,
gần hình cầu có đường kính vài trăm Angstrom (≈ 200 Å). Những hạt than này có chứa
khoảng 105 tới 106 nguyên tử cacbon. Qua phân tích hóa học còn chỉ ra chúng có chứa
hiđro (khoảng một vài phần trăm theo trọng lượng) và có thể chứa các nguyên tố khác với
nồng độ rất thấp. Những đặc trưng này cũng cho thấy bản chất của nhiên liệu. Như chúng
ta thấy, sự phân tích các sản phẩm cuối cùng chỉ cho ta những chỉ dẫn về cơ chế hình thành
tro và cần phải nghiên cứu thực nghiệm được tiến hành trực tiếp trong vùng cháy để đưa ra
các phản ứng hóa học đã tham gia vào quá trình hình thành than.

Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn


101

Trong tất cả các ngọn lửa đốt cháy hiđrocacbon, thực tế người ta đã phát hiện ra sự có
mặt của axetilen, poliaxetilen (C2nH2n) cũng như các gốc của axetilen và poliaxetilen. Kết
quả của các phản ứng tạo thành than có thể là như sau:
-

Cộng hợp liên tục axetilen hay poliaxetilen, tiếp theo

-

Cộng hợp các nguyên tử hiđro; các gốc axetilen (RA) hay gốc poliaxetilen (RPA)
bị chuyển thành các poliaxetilen khối lượng ngày càng lớn hơn. Ở trên một khối

lượng nhất định, các poliaxetilen này có thể bị vòng hoá dẫn đến những phân tử
vòng có mạch nhánh với khối lượng phân tử ít nhất từ 100 ÷ 600. Những phần tử
này còn có nhiều electron chưa cặp đôi (đó là các đại gốc), bởi vậy chúng rất hoạt
động và có thể cộng hợp thêm với những poliaxetilen khác để sinh ra các hạt than.
Quá trình có thể được sơ đồ hoá như sau:
H2

+ C2H2

C2H

C4H3

+ C2H2

H2

C6H3

+ C2H2

C2nH3

+H

+H

+H

C6H2 + H2


C4H2 + H2

(gèc poliaxetilen)

C2nH2 + H2

(poli) axetilen

+ RA kh¸c vµ RPA kh¸c
vßng ho¸

+ poliaxetilen kh¸c,
cïng ng−ng tô
C¸c h¹t tro than

Một số tác giả cho rằng những ion có mặt ở trong tuyến lửa đóng một vai trò cơ bản
trong quá trình nhân hoá (chuyển từ pha khí tới pha rắn) của than. Người ta thấy rằng sự có
mặt của các ion kim loại kiềm thổ có tác dụng kìm hãm sự tạo thành than, đặc biệt là ion
Ba2+. Các kim loại này sinh ra các gốc •OH và làm tăng tương đối tốc độ oxi hoá than so
với tốc độ của quá trình nhân hoá.

6.2

Sản xuất axit xianhiđric bằng sự đốt cháy

Một con đường lí thuyết đầy hứa hẹn về tổng hợp bằng ngọn lửa đó là việc sản xuất
đồng thời axetilen và axit xianhiđric bằng sự đốt cháy hỗn hợp giàu hiđrocacbon, amoniac
và oxi. Cơ chế tạo thành axit xianhiđric có thể trải qua sự hình thành đầu tiên của
nitrosometan, tiếp theo là sự phân huỷ của nó dưới tác dụng của nhiệt:



NH2



CH3 +



+

NH3

OH

+


NO

O2
+

M










NH2 +
NO



H2O

+

H2O

CH3NO

+

Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn

M


102

CH3NO




HCN

+

H2O

Chú ý rằng trong quá trình trên, một trong những sản phẩm đầu tiên trong quá trình
đốt cháy amoniac là nitơ oxit.

6.3

Sự tạo thành nitơ oxit trong ngọn lửa

Các nitơ oxit được tạo thành trong quá trình cháy đã thu hút các nhà nghiên cứu trong
những năm gần đây. Bởi vì các nitơ oxit được sinh ra gây nên sự ô nhiễm không khí và
tính độc của chúng, đồng thời nó còn gây nên sự ăn mòn rất lớn đối với các kim loại. Nitơ
oxit có mặt trong khí thải của sự đốt cháy công nghiệp (như động cơ, các lò đốt nóng, lò
sản xuất nhiệt...). Một phần các nitơ oxit được sinh ra từ phản ứng giữa oxi và nitơ phân tử,
chúng tạo thành một chất duy trì sự cháy, mặt khác nitơ oxit được tạo thành từ sự oxi hoá
những nguyên tử nitơ có trong các phần tử hữu cơ (piridin, porphyrin, amin) thường có
mặt trong các nhiên liệu. Trong trường hợp nhiên liệu có chứa các hợp chất của nitơ, người
ta đã chứng minh rằng tốc độ hình thành từ các phân tử chứa nitơ này nhanh hơn rất nhiều
tốc độ hình thành từ nitơ phân tử. Vì năng lượng liên kết của nguyên tử nitơ trong phân tử
N2 là 226,8 kcal/mol, cao hơn rất nhiều so với các liên kết của nitơ với các nguyên tử khác
trong các phân tử hữu cơ như C≡N, N=C hay N−H. Ví dụ trong ngọn lửa
hiđrocacbon/không khí, người ta thêm vào đó một lượng rất nhỏ amoniac (vài nghìn ppm)
thì việc phân tích chỉ ra rằng amoniac đã bị chuyển hoá hoàn toàn thành NO, ngay cả nếu
nồng độ NO cao hơn giá trị nồng độ của nó ở cân bằng ở nhiệt độ đã cho. Rõ ràng rằng, sự
dư NO này so với nồng độ cân bằng sẽ biến mất từ từ do phản ứng phân hủy của NO,
nhưng quá trình phân huỷ này là rất chậm, có thể không hoàn toàn khi các sản phẩm cháy

bị loại ra ngoài không khí tự do.
Điều này hoàn toàn khác khi nguồn tạo thành nitơ oxit là nitơ phân tử. Trong trường
hợp này, sự thay đổi nồng độ NO là do sự cạnh tranh của 2 cơ chế:
-

Cơ chế tạo thành:
N2

+

O

1
ZZX
N
YZZ
2

+ NO;

(E1 = 75 kcal/mol)

(E2 = 0)
-

Cơ chế phân huỷ:
N

+


O2

3
ZZX
O
YZZ
4

+ NO;

(E3 = 7 kcal/mol)

(E4 = 39 kcal/mol)
Tốc độ biến đổi nồng độ của NO (XNO) được biểu diễn bằng tổng đại số của 4 phản
ứng cơ bản mà các phản ứng 1 và 3 là tốc độ tạo thành (Vf) và các phản ứng 2 và 4 là các
phản ứng phân huỷ với tốc độ phân huỷ (Vd) của nitơ oxit:
dX NO
= k1X N2 X O + k 3 X N X O2 + k 2 X N X NO + k 4 X O X NO



dt
Vf

Vd

Như ở trên đã nói, tốc độ phân huỷ Vd là nhỏ và thường có thể bỏ qua trong sự gần
đúng bậc nhất, đặc biệt khi nồng độ NO lại nhỏ. Đó là trong trường hợp của các ngọn lửa.
Chúng ta nhận thấy rằng tốc độ tạo thành NO, Vf được quyết định bởi số hạng đầu tiên bởi


Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn


103

vì năng lượng hoạt hoá của nó là rất cao so với năng lượng hoạt hoá của phản ứng 3. Bởi
vậy, chúng ta có giá trị gần đúng của tốc độ hình thành nitơ oxit từ N2 như sau:
dX NO
≈ Vf ≈ f1 Z2 XN2 XO . e−ε1/RT
dt

Khi nitơ oxit được hình thành trong hỗn hợp tinh khiết của oxi và nitơ ở một nhiệt độ
đủ cho phản ứng có tốc độ đo được thì oxi nguyên tử tham gia vào phản ứng như một tác
nhân phản ứng ở bước 1 chỉ có thể đến từ phản ứng phân huỷ oxi phân tử:
O2 +

M

5
ZZX
YZZ

O

+

O (+M)

Vì nguyên nhân này, ở đây người ta coi rằng phần mol của nguyên tử oxi, XO, là bằng
giá trị cân bằng (XO)e được xác định từ hằng số cân bằng của phản ứng sau cùng này:

X O = K1/O 2 X1/O22

ở đây K O =
2

X O2
= (K O2 ) . e−ΔH/RT
X O2

(*)

ΔH là nhiệt hình thành oxi, bằng 116 kcal/mol.
Khi thay thế biểu thức của XO này vào biểu thức của tốc độ hình thành Vf ta có:
dX NO
≠ Vf ≠ f1 Z2 (K O2 )1/O 2 K N2 X N2 X1/O22 . e−133000/RT
dt

(**)

Phương trình (*) đảm bảo chắc đúng trong trường hợp hỗn hợp cháy chỉ có oxi và nitơ
(hỗn hợp tinh khiết) và nó không còn đúng nữa khi các sản phẩm cháy đi ra khỏi tuyến lửa,
ít nhất trên một khoảng cách nhất định đằng sau tuyến lửa. Thật vậy, các nguyên tử oxi,
gốc được hình thành trong tuyến lửa (chủ yếu từ bước cơ bản O2 + H → OH + O) có nồng
độ thông thường rất cao so với giá trị cân bằng và sự kết hợp lại của các nguyên tử oxi (O
+ O + M → O2 + M) sẽ liên tục dẫn phần mol tới giá trị cân bằng (XO)e của nó. Sự kết hợp
này xảy ra từ từ vì nó là một sự va chạm tam phân tử (O + O + M). Từ đó rút ra rằng biểu
thức (**) không có giá trị trong các sản phẩm cháy trong vùng tương đối gần với tuyến lửa.
Trong tuyến này, cần phải để ý đến giá trị thực của XO. XO có thể tính toán được từ sơ
đồ phản ứng của tất cả các bước cơ bản làm mất đi hay xuất hiện nguyên tử oxi. Một tính
toán như thế rất phức tạp không được trình ở đây. Tuy nhiên, ta có thể dễ dàng hiểu rằng

sự phụ thuộc của XO theo nhiệt độ sẽ bị khống chế bởi một năng lượng hoạt hoá tổng cộng
khác (thông thường là nhỏ hơn ΔH/2 = 58 kcal/mol), từ đó rút ra rằng năng lượng hoạt
động hoá tổng cộng của tốc độ hình thành nitơ oxit Vf sẽ khác 113 kcal/mol (thông thường
là nhỏ hơn). Việc xác định năng lượng hoạt hoá tổng cộng này trong các sản phẩm cháy
đằng sau tuyến lửa hiđrocacbon là vào khoảng từ 100 ÷ 110 kcal/mol đối với các khoảng
cách rất nhỏ, sau đó tăng lên từ từ với khoảng cách để cuối cùng đạt được giá trị 133
kcal/mol, tương ứng với điều kiện X O = (X O )e .
Cuối cùng, cần biết rằng trong tuyến lửa và đặc biệt trong tuyến lửa giàu, sự hình
thành nitơ oxit từ nitơ phân tử được thực hiện rất có thể theo một cơ chế mà nó quyết định
một tốc độ hình thành cao hơn trong vùng các sản phẩm cháy. Điều này đòi hỏi trong tuyến
lửa giàu một nồng độ tương đối lớn các gốc hiđrocacbon (ví dụ C2 và CH) có khả năng làm
đứt gãy liên kết ba N≡N dễ dàng hơn là qua phản ứng giữa N2 và O. Ví dụ ta có phản ứng
kiểu:

Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn


104

CH

+

N2



HCN +

N


Mặt khác đã có nhiều công trình nghiên cứu cơ chế tạo thành NO trong ngọn lửa, xong
còn nhiều điểm chưa rõ ràng mà nó có một vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống ô
nhiễm môi trường. Thật vậy, một câu hỏi được đặt ra là: trong ngọn lửa có CO và các hạt
cacbon, vậy làm thế nào có được một hiệu ứng khử NO được hình thành trong quá trình
cháy.

6.4

Sản xuất năng lượng

Ứng dụng quan trọng nhất của sự cháy để sản xuất năng lượng là chuyển hoá năng
lượng hóa học thành công cơ học, năng lượng đẩy hay nhiệt năng.
Trong tất cả những ứng dụng này, năng lượng nhiệt có thể là một mục đích hay cũng
có thể là bước trung gian để chuyển sang một dạng năng lượng khác (công cơ học, sức
đẩy, tạo thành các ion hóa học trong lĩnh vực thuỷ từ động lực học magnetohydrodynamic). Bởi vậy, tất cả các ứng dụng này đặc biệt thú vị đối với các vấn
đề nhiệt động học của sự cháy, đặc biệt là nhiệt đốt cháy và nhiệt độ cuối cùng của các
sản phẩm cháy. Nếu nhiệt đốt cháy là một yếu tố tích cực thì nhiệt độ cuối cùng của các
sản phẩm cháy lại không cần thiết: nhiệt độ cuối cùng cao sẽ đặt ra những vấn đề nghiêm
trọng về sức bền nhiệt của vật liệu và sự ion hoá của các sản phẩm cháy. Các hiện tượng
truyền nhiệt (bằng đối lưu hay bằng bức xạ hồng ngoại) cũng đóng một vai trò quan
trọng. Trong việc áp dụng đốt nóng và xử lí nhiệt một số vật liệu thì sự truyền nhiệt này
là điều mong muốn; nhưng ngược lại, trong các lĩnh vực ứng dụng nhằm chuyển tiếp
theo năng lượng nhiệt thành công cơ học hay năng lượng đẩy thì sự truyền nhiệt này
không cần thiết.

6.4.1 Đốt cháy công nghiệp và dân dụng
Đối với việc đốt cháy được thực hiện ở trong lò đốt thì các vấn đề sau đây hay gặp
phải hàng ngày:
a)


Sự nhóm lửa, điều này thông thường không khó khăn.

b)

Ổn định ngọn lửa khuếch tán. Có nhiều khả năng khác nhau có thể giữ ổn định
ngọn lửa: ta có thể tận dụng dạng hình học của các thiết bị phun nhiên liệu (khí
hay lỏng) và dạng của lò đốt cũng như các lượng tương đối của chuyển động
xuyên tâm và chuyển động dọc của các nhiên liệu được đưa vào lò.

c)

Tạo dáng ngọn lửa khuếch tán để tối ưu hóa sự truyền nhiệt về phía thành lò, để ý
đến phần năng lượng bị truyền đi bằng phát xạ và đối lưu. Những vấn đề về
truyền năng lượng bằng bức xạ thì việc tối ưu thông thường đòi hỏi phải khống
chế độ sáng của ngọn lửa và bởi vậy phải biết các hiện tượng về sự hình thành và
oxi hoá cacbon trong ngọn lửa.

Các vấn đề b) và c) bị lệ thuộc rất nhiều vào các thông số chảy rối luôn luôn có mặt
trong trường hợp này. Ảnh hưởng của sự khuếch tán rối lên sự truyền nhiệt có thể dễ dàng
khảo sát. Cũng tương tự như vậy ảnh hưởng của nó lên sự ổn định của ngọn lửa và sự hình
thành của hỗn hợp các chất tham gia phản ứng. Song, nếu như việc nghiên cứu sự chuyển
động của các nhiên liệu trong lò là rất tiến bộ thì việc nghiên cứu dao động thống kê chảy

Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn


105

rối chỉ mới bắt đầu và người ta cũng thấy rằng ảnh hưởng của sự chảy rối lên sự tạo thành

và sự cháy của cacbon trong các ngọn lửa khuếch tán cũng gắn liền với ảnh hưởng của nó
lên sự tạo thành hỗn hợp cháy.
d)

Đảm bảo một sự cháy càng hoàn toàn càng tốt với lượng dư không khí tối thiểu.
Đó là những nguyên nhân kinh tế nhưng cũng là yêu cầu bắt buộc phải thực hiện
để tránh gây ô nhiễm không khí.

6.4.2 Sản xuất công cơ học và đẩy
Trong các ứng dụng cổ điển của loại này thì sự cháy được thực hiện hoặc là gián đoạn
(trong các động cơ) hoặc là liên tục (trong các tuabin khí, tuabin nhiên liệu lỏng, trong các
ngành giao thông đường bộ, đường hàng không, động cơ phản lực thẳng, tên lửa).
a)

Các động cơ. Tùy theo bản chất gián đoạn của sự cháy, sự cháy xuất hiện một
cách tuần hoàn và ở những thời điểm mong muốn. Sự cháy đó càng hoàn toàn
càng tốt. Trong các động cơ xăng, sự bùng cháy được cố định ở một nơi bởi tia
lửa điện từ bugi, như vậy hỗn hợp cháy cháy nhờ sự truyền lửa mà điều quan
trọng nhất là tốc độ bùng cháy. Tốc độ bùng cháy trong xilanh của động cơ phụ
thuộc vào nhiều tham số mà cho tới nay người ta biết không nhiều về vấn đề này,
vì việc sử dụng các phương pháp đo cổ điển các thông số trong động cơ là đặc
biệt khó khăn. Còn trong động cơ điezen, hiện tượng cơ bản là hiện tượng tự bốc
cháy mà trước hết là thông số thời hạn tự bốc cháy. Hiện tượng này còn nhiều vấn
đề phải nghiên cứu vì thực tế hỗn hợp nhiên liệu và không khí là rất dị thể, như
vậy bên cạnh thời hạn hóa học của sự cháy còn tồn tại thời hạn vật lí khi để ý đến
hiện tượng hóa hơi của nhiên liệu, sự khuếch tán của các phân tử nhiên liệu trong
không gian xilanh.

Như vậy, gần như chắc chắn rằng sự bùng cháy kiểu khuếch tán riêng phần là sự
chồng chất của hiện tượng vật lí - hóa học của sự tự bốc cháy.

Trong cả hai loại động cơ trên, các hiện tượng truyền nhiệt là rất phức tạp. Ví dụ,
trong động cơ xăng, đó là sự khác nhau giữa phần khí bị cháy và thành xilanh, giữa khí làm
lạnh với thành ngoài xilanh.
b)

Các động cơ với dòng liên tục. Trong các tuabin khí và nhiên liệu lỏng, các
vấn đề được đặt ra là sự bốc cháy, sự ổn định của ngọn lửa và trước tiên là sự
truyền nhiệt ra ngoài thành và cánh của tuabin. Để tránh những bất tiện do
nhiệt độ cao của ngọn lửa, người ta bắt buộc phải làm lạnh thành của buồng
đốt nhiên liệu bằng các màng không khí làm lạnh; đối với các cánh của máy
nén, người ta làm giảm nhiệt độ của các sản phẩm cháy bằng cách tiêm vào đó
một lượng nhất định không khí trước khi chúng đến trên cánh máy nén. Để
giải quyết vấn đề này người ta phải sử dụng các vật liệu cực bền.

c)

Các động cơ phản lực thẳng. Trong các ứng dụng này, các vấn đề về ổn định sự
cháy, truyền nhiệt, sức bền vật liệu là những khó khăn cần phải giải quyết.

Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn


106

6.4.3 Vấn đề an toàn sự cháy
a)

Chống cháy

Trong lĩnh vực an toàn, hoả hoạn là một hiện tượng cháy nhanh không mong muốn

xảy ra tại một nơi cố định trong không gian. Tùy theo từng trường hợp, đó là sự cháy của
các vật liệu hay các khí cháy thoát ra từ lỗ rò rỉ hay một lớp nhiên liệu lỏng... Trong tất cả
các trường hợp, đó là những ngọn lửa mà tốc độ truyền bị khống chế bởi các hiện tượng
bay hơi, phân hủy nhiệt, sự khuếch tán...
Để ngăn ngừa các hiện tượng này, thường người ta dùng các vật liệu bền không cháy
hay dùng các chất kìm hãm sự cháy như các muối halogen.
Việc đấu tranh tích cực chống lại hỏa hoạn có thể dùng nhiều kĩ thuật khác nhau:
-

Giảm nhiệt độ của vật đang cháy.

-

Thêm một lượng lớn chất pha loãng (ví dụ khí CO2) vào hỗn hợp cháy.

-

Sử dụng bột phân cách nhiên liệu ra khỏi không khí.

b)

Chống nổ

Việc đấu tranh ngăn ngừa chống lại sự nổ có một tầm quan trọng rất to lớn bởi vì đó là
khả năng duy nhất chống lại sự nổ. Việc ngăn ngừa có thể có nhiều dạng khác nhau như:
-

Phát hiện những hỗn hợp có thể cháy.

-


Phá bỏ các nguồn có thể gây cháy ở trong các vùng có các hỗn hợp có khả năng
bốc cháy không thể tránh được. Các nguồn đó là các tia lửa điện, các chất rắn có
nhiệt độ cao hơn nhiệt độ tự bốc cháy của hỗn hợp cháy...

-

Phát hiện sự bùng cháy. Người ta có thể dùng các thiết bị phát hiện sóng (máy
nhạy với các sóng áp suất phát ra bởi tia lửa đang tăng tốc) hay máy phát hiện
nhạy với các tia tử ngoại của ngọn lửa.

-

Phát hiện một số bụi có thể cháy ở thể huyền phù với không khí. Trong thực tế sản
xuất có một số bụi nhiên liệu có thể hình thành các huyền phù với không khí và đạt
tới giới hạn nồng độ để có thể cháy được dễ dàng khi có những nguồn năng lượng
kích thích. Việc nghiên cứu cơ bản của các hiện tượng bốc cháy kiểu này mới chỉ
bắt đầu, nhưng điều quan trọng là phải loại được nguồn gốc của sự nổ này.

Trong nhiều trường hợp, khi người ta phát hiện ra sự bùng cháy sớm có thể dập tắt
ngay được chúng. Trong mục đích này, các máy phát hiện hoạt động ở một khoảng cách
mà các thiết bị dập lửa được đặt đúng trên đường đi của ngọn lửa. Tùy từng trường hợp có
thể là một lớp bột được trải ra ngay tức thời trong ngọn lửa hoặc là một khí trơ thoát ra từ
chai để dập tắt đám cháy. Trong một số trường hợp khác, người ta có thể dùng máy dập lửa
để cản trở sự truyền cháy về các vùng chưa cháy.

Sưu tầm bởi: www.daihoc.com.vn




×