Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Thực trạng của lực lượng sản xuất ở việt nam hiện nay và vấn đề xây dựng, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ở ngân hàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.35 KB, 30 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

----------

BÀI TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI:

Thực trạng của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay và vấn đề
xây dựng, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ở
ngân hàng

Lớp
Nhóm
Khoa

: CAO HỌC 18.01 NHB
:9
: SAU ĐẠI HỌC

GVHD

: TS.TRẦN THỊ THU HƯỜNG

Hà Nội, tháng 09 năm 2016


DANH SÁCH NHÓM 9 LỚP CAO HOC 18.01.NHB


1. Thẩm Quỳnh Trang (nhóm trưởng)
2. Nguyễn Thị Quỳnh Trang
3. Đỗ Thị Mai Trang
4. Phan Thành Trung
5. Dương Thanh Tùng
6. Nghiêm Thị Tuyết
7. Trần Đức Vinh
8. Võ Thị Ngọc Yến



LỜI MỞ ĐẦU
Quá trình phát triển của lịch sử loài người gắn liền với các hình kinh tế xã hội
khác nhau, hình thái kinh tế xã hội phát triển sau hơn hình thái kinh tế xã hội trước.
Trong đó phải kể đến vai trò của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nền tảng
vật chất kĩ thuật cho mỗi hình thái kinh tế xã hội. Hình thái kinh tế xã hội khác nhau
có lực lượng sản xuất khác nhau. Lực lượng sản xuất luôn đóng vai trò to lớn trong đời
Rsống xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất quyết định hình thành, phát triển và
thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế xã hội, nó dẫn đến sự thay đổi quan hệ sản
xuất do đó kiến trúc thượng tầng thay đổi theo dẫn đến hình thái kinh tế xã hội cũ
được thay thế, hình thái kính tế mới cao hơn, tiến bộ hơn.
Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình hội nhập sâu
rộng với nền kinh tế thế giới, vì vậy phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao là một
trong những yếu tố quan trọng quyết định đến sự phát triển của đất nước và sự sống
còn của ngành ngân hàng. Ngân hàng được coi là mạch máu của nền kinh tế quốc dân,
vì vậy nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống ngân hàng, đặc biệt nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cho ngành ngân hàng. Vì vậy, muốn có một xã
hội ổn định, một nền kinh tế phát triển thì nhiệm vụ hàng đầu phải phát triển, xây dựng
lực lượng sản xuất.
Nhận thấy được tầm quan trọng của lực lượng sản xuất nói chung và vai trò quan

trọng đối với phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực ngân hàng nên
em đã chọn đề tài: “Thực trạng của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay và vấn
đề xây dựng, phát huy nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay ở ngân hàng” làm
đề tài cho bải thảo luận của mình


1. LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản
Lực lượng sản xuất dùng để chỉ tổng thể các yếu tố cấu thành nội dung vật chất,
kỹ thuật, công nghệ,... của quá trình sản xuất, tạo thành năng lực thực tiễn cải biến giới
tự nhiên của con người. Với nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất cũng đóng vai trò phản
ánh căn bản trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người: trình độ thủ công của lực
lượng sản xuất là lực lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên thấp
hơn rất nhiều so với lực lượng sản xuất ở trình độ kỹ thuật công nghiệp và công nghệ cao.
Quan hệ sản xuất là phạm trù triết học chỉ quan hệ giữa người với người trong
quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội) .Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ
sử hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, quan hệ về tổ chức và quản lý sản xuất và quan hệ
về phân phối các sản phẩm làm ra. Quan hệ sản xuất do con người tạo ra nhưng nó
hình thành và phát triển một cách khách quan ko phụ thuộc vào ý chí con người. Nếu
như quan niệm lực lượng sản xuất là mặt tự nhiên của sản xuất thì quan hệ sản xuất lại
là mặt xã hội của sản xuất.
1.1.2 Các bộ phận cấu thành lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất được cấu thành bởi hai bộ phận đó là người lao động và tư
liệu sản xuất trong đó:
Tư liệu sản xuất là những tư liệu để tiến hành sản xuất, bao gồm tư liệu lao động
và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động bảo gồm công cụ lao động (máy
móc…)và đối tượng lao động khác (phương tiện vận chuyển, bảo quản, chưa đựng
công cụ lao động và sản phẩm). Còn đối tượng lao động gồm hai bộ phận là những

yếu tố nguyên vật liệu có sẵn trong tự nhiên (đất đai, than đá,…) và một bộ phận phái
trải qua sự cải tạo của con người – còn gọi là nhân tạo ví dụ: nhựa, gỗ ép… Trong tư
liệu snar xuất thì công cụ lao động là yếu tố quan trọng nhất.
Người lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất vì người lao
động đóng vai trò là chủ thể của quá trình sản xuất, là người tạo ra tư liệu lao động và
sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao động tao ra sản phẩm còn tư liệu sản xuất
chỉ đóng vai trò là khách thể chịu sự tác động trong quá trình sản xuất. Lực lượng sản


xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động. Con người vừa
là một phần trong kết cấu của lực lượng sản xuất, vừa tác động đến quá trình phát triển
của lực lượng sản xuất. Sự tác động này thể hiện ở chỗ con người có thể đẩy nhanh
hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất thông qua những hoạt động phù
hợp hoặc không phù hợp với quy luật nội tại của lực lượng sản xuất, với quy luật sự
phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất. Mặc dù tư
liệu sản xuất, tiền vốn, khoa học và kỹ thuật đều là những yếu tố cần thiết để thực hiện
sản xuất song tất cả đều phải thông qua hoạt động của con người mới đem lại hiệu quả
kinh tế, những giá trị mới. Những yếu tố trên sẽ tồn tại ở dạng tiềm năng, sẽ trở thành
vô hiệu hóa khi nó không được đặt trong mối quan hệ giữa tư liệu sản xuất và sức lao
động. Con người tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là sức lao động, vừa với
tư cách là con người có ý thức, chủ thể của những quan hệ kinh tế. Trình độ văn hóa,
trình độ kỹ thuật, chuyên môn, ý thức và thái độ của người lao động đối với sản xuất
và sản phẩm là những yếu tố quan trọng để sử dụng, khai thác kỹ thuật và tư liệu sản
xuất vốn có để sáng tạo ra trong quá trình sản xuất. Ph Awngghen đã nhấn mạnh:
“Muốn nâng sản xuất công nghiệp và nông nghiệp lên mức độ cao… mà chỉ có
Phương tiện cơ giới và hóa học phù hợp thì không đủ, còn cần phải phát triển một
cách tương ứng năng lực con người sử dụng những phương tiện đó nữa”
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản của lực
lượng sản xuất, đóng vai trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do
con người sáng tạo ra là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hóa”, nó “nhân” sức

mạnh của con người trong quá trình lao động là yếu tố động lực của sản xuất. Cùng
với quá trình tích lũy kinh nghiệm với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ
lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Sự biến đổi công cụ lao động là
nguyên nhân suy đến cùng mọi sự biến đổi của xã hội. Các yếu tố trong lực lượng sản
xuất tác động lẫn nhau một cách khách quan làm cho lực lượng sản xuất trở thành yếu
tố hoạt động nhất, cách mạng nhất trong một phương thức sản xuất
1.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của quá trình sản xuất, chúng
tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại với nhau một cách biện chứng tạo thành
quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất – quy luật cơ bản nhất của sự vận động phát triển xã hội.


Sự vận động phát triển của lực lượng sản xuất quy định và làm thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với nó. Khi một Phương thức sản xuất mới ra đời , khi đó quan
hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp của quan hệ
sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của
lực lượng sản xuất. Trong trạng thái đó, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo
địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển. Điều đó có nghĩa là nó tạo điều
kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuấtvà do
đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Lực lượng sản xuất
quyết định quan hệ sản xuất nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và
tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục
đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao động xã hội, đến tổ
chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ và do
đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển. Ngược lại quan hệ sản xuất lỗi thời, lạc hậu hoặc “ tiên tiến” hơn một cách giả
tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực
lượng sản xuất. Theo quy luật chung, khi đó quan hệ sản xuất cũ sẽ được thay thế bằng

quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất không chỉ chịu sự tác động của quan hệ sản
xuất mà còn nhiều yếu tố khác như: điều kiện tự nhiên, dân số, thời đại, dân tộc, thể
chế chính trị…
Dân số của một nước quyết định đến số lượng của lực lượng lao động, nước càng
đông dân thì nguồn lao động càng dồi dào
Thời đại: Xã hội loài người phát triển trải qua nhiều hình thái kinh tế xã hôi nối
tiếp nhau. Mỗi hình thái kinh tế xã hôi lại ứng với sự phát triển phù hợp của lực lượng
sản xuất. Trong đó xã hội Công xã nguyên thủy con người tìm ra lửa để nấu chín thức
ăn và đuổi thú dữ. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, con người đã chế tạo và sử dụng các
công cụ đồ thủ công bằng đá để làm vũ khí săn bắt… Dưới chủ nghĩa tư bản, máy hơi
nước ra đời năng suất lao động tăng cao…


1.2. VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1.2.1. Lực lượng sản xuất - yếu tố quyết định sự tồn tại, biến động và phát triển của
đời sống xã hội
Để thấy rõ hơn vai trò của lực lượng sản xuất với sự phát triển của xã hội loài
người, ta cần xét vai trò của nó với sự phát triển của nền kinh tế và đời sống xã hội.
Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển. Sự phát
triển đó xét đến cùng là bắt nguồn từ biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất,
trước hết là công cụ lao động. Sự phát triển của lực lượng sản xuất được đánh dấu
bằng trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ lực lượng sản xuất trong từng giai đoạn
lịch sử thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn lịch sử đó.
Trình độ lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh
nghiệm và kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã
hội, trình độ ứng dụng khoa học vào sản xuất.
Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất.
Trong lịch sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân lên

tính chất xã hội hoá. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém
phát triển thì lực lượng sản xuất chủ yếu có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt tới
trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất
có tính chất xã hội hoá. Vai trò của lực lượng sản xuất đối với nền kinh tế và đời sống
xã hội được thể hiện rõ nét trong quá trình lịch sử loài người. Xuất phát từ một nền
kinh tế nhỏ bé, lạc hậu, thô sơ nhất. Đó là nền văn minh nông nghiệp thời kì chế dộ
nguyên thuỷ tiếp đó là chiễm hữu nô lệ và cao hơn chút là chế độ phong kiến. Tất cả
các hình thái kể trên đều có lực lượng sản xuất nhỏ bé tự cung tự cấp. Trình độ người
lao động và sự phát triển công cụ lao động, cũng như đối tượng lao động còn rất nhiều
hạn chế. Bởi vậy mà của cải vật chất tạo ra không nhiều do đó, nền kinh tế thời kì này
chưa có gì nổi bật. Điều đó tất yếu dẫn tới ảnh hưởng đến đời sống xã hộ của con
người. Một khi không tạo ta được một cách đầy đủ nhu cầu vật chất của con người thì
đồng nghĩa không thể có một đời sống nâng cao. Các tiền đề cơ bản đảm bảo cho sự
tồn tại và phát triển của con người là ăn, mặc, ở, đi lại mà chưa được đáp ứng thì sẽ
chẳng có thể có những đòi hỏi khác được thoả mãn. Có lẽ vì thế nên nhiều tiêu chuẩn
để đánh giá sự phát triển toàn diện con người trong thới kì nền văn minh nông nghiệp
là rất kém. Tuổi thọ trung bình, tỉ lệ trẻ em tử vong khi sinh, trình độ giáo dục… đều ở
mức báo động. Đó là những hệ quả, tuy nhiên, khi chuyển dần sang chủ nghĩa tư bản,


lực lượng sản xuất đã có sự nhảy vọt. Tính chất xã hội hoá thay thế cho tính chất cá
nhân. lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất mới, tiến bộ hơn quan hệ sản
xuất phong kiến trước kia. Số lượng của cải vật chất mà con người làm ra bằng tất cả
các thế hệ trước kia cộng lại.
Có thể nói, chưa bao giờ lực lượng sản xuất phát triển mạnh đến thế và tạo ra
nhiều của cải vật chất đến vậy. Nhìn một cách toàn diện, con người tạo nên một nền
kinh tế phát triển thực sự, hơn hẳn các nền kinh tế trước đó. Đó là nền kinh tế hàng
hoá. lực lượng sản xuất đã làm thay đổi rất nhiều, nếu không nói là tất cả. Sự phát triển
của lực lượng sản xuất mới trong lòng chế độ phong kiến đã thay thế quan hệ sản xuất
cũ bằng một quan hệ sản xuất mới. Thiết lập nên chế độ cộng hoà. Như vậy, có thể

thấy rằng dù trong xã hội nào đi chăng nữa thì tầm qua trọng của lực lượng sản xuất
đối với nền kinh tế là rất lớn. Điều đó thực tế lịch sử chứng minh rất rõ ràng. Với sự ra
đời của lực lượng sản xuất mới Tư bản chủ nghĩa, đời sống xã hội của con người được
tăng lên rõ rệt. Tuổi thọ trung bình tăng, trình độ của con người được nâng cao, quyền
lợi con người được đảm bảo… Mặc dù vậy, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
vẫn có nhiều hạn chế, mâu thuẫn không thể khắc phục. Chỉ có chủ nghĩa xã hội với
tính ưu việt của nó mới khắc phục được tất cả những hạn chế của chế độ trước kia. Tạo
nên một xã hội mới, thực sự vì con người. Ở đó, lực lượng sản xuất được giải phóng
tối đa, tạo môi trường kinh tế bền vững, phát triển ở trình độ cao.
Nếu một nền kinh tế mà ở đó, thiếu vắng sự phát triển của lực lượng sản xuất
hiện đại thì nền kinh tế đó khó có thể đứng vững. Thậm chí còn bị tiêu vong. Do đó
mới thấy hết ý nghĩa, tầm quan trọng của lực lượng sản xuất. Sự phát triển lâu dài, bền
vững và ổn định của bất kì một quốc gia nào trong lịch sử đều đi liền với sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Yếu tố con người, lực lượng sản xuất chủ đạo sẽ là đòn bẩy, là
động lực thúc đẩy. Người ta biết đến sự thần kì của Nhật Bản sau thế chiến thứ hai bởi
một nền kinh tế phục hồi và phát triển nhanh chóng. Người lao động Nhật Bản, công
cụ lao động Nhật Bản, và cả sự quản lý, điều hành của Nhật Bản là bài học quý đối với
các nước đi sau. Những thành tựu kinh tế mà đất nước Nhật Bản đạt được không thể
tách rời sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Tóm lại, lực lượng sản xuất có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
một nền kinh tế và trong đời sống xã hội nói chung.


1.2.2. Vai trò của lực lượng sản xuất ở một số nước trên thế giới trong giai đoạn hiện nay
Trong thời đại ngày nay, khi mà tiến bộ khoa học - kỹ thuật phát triển mạnh mẽ,
cho phép máy móc thay thế sức lao động của con người trong những hoạt động sản
xuất vật chất thì vai trò của con người - nguồn lao động đối với nền kinh tế càng được
đưa lên hàng đầu. Số lượng lao động đông đảo trong các doanh nghiệp sẽ giúp họ mở
rộng quy mô sản xuất, đáp ứng những nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Chất lượng
của lao động cũng ảnh hưởng rất lớn đến quá trình sản xuất. Máy móc, trang thiết bị

được cải tiến càng đòi hỏi người lao động có trình độ chuyên môn phù hợp để sử dụng
những trang thiết bị hiện đại đó. Sự sáng tạo trong sản xuất kinh doanh của con người
sẽ thôi thúc sản xuất phát triển ở nhiều lĩnh vực khác nhau...
Vai trò của yếu tố con người có vị trí quan trọng hàng đầu đối với sự phát triển
của xã hội. Không phải không có lý khi các nước trên thế giới tập trung vào phát triển
nguồn lực con người. Đầu tư vào con người được xem như nguồn đầu tư mang lại hiệu
quả cao nhất. Máy móc, kỹ thuật, công nghệ hiện đại rồi sẽ đến lúc trở nên lạc hậu
nhưng nguồn lực con người nếu được bồi dưỡng sẽ trở thành nguồn tài nguyên vô tận.
Nhật Bản là nước thành công nhất trong việc đầu tư vào con người. Với nguồn tài
nguyên thiên nhiên, Nhật Bản sớm ý thức được tầm quan trọng của yếu tố con người
và tập trung mọi sức mạnh để phát triển nguồn lực này. Bằng các chính sách ưu tiên,
hỗ trợ cho người lao động đặc biệt là về đời sống tinh thần, Nhật Bản đã tận dụng
được nguồn lao động trong nước, tạo điều kiện để người lao động tiếp cận nhanh với
khoa học - kỹ thuật và nhanh chóng ứng dụng vào trong sản xuất. Thành công trong
việc đầu tư vào yếu tố con người là nhân tố hàng đầu giải thích cho sù phát triển “thần
kỳ” của Nhật Bản trong những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai. Tiếp thu kinh
nghiệm đó, một loạt các nước như Trung Quốc, Singapore, Hàn Quốc, Ấn Độ... cũng
tập trung phát triển nguồn lao động và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Thành
công vang dội của Singapore có phần nhờ chủ nghĩa nhân tài do ông Lý Quang Diệu
đề ra và thực thi, với nội dung: tài nguyên duy nhất của Singapore là con người; không
đào tạo và sử dụng nhân tài thì đất nước sẽ suy vong. Còn trong Báo cáo chính trị tại
đại hội XV Đảng Cộng Sản Trung Quốc viết: “Nhân tài là nguồn tài nguyên quan
trọng nhất trong phát triển kinh tế xã hội”. Các nước đang phát triển nói chung và Việt
Nam nói riêng hoàn toàn có thể dựa vào biện pháp phát triển nguồn tài nguyên con
người của mình để từng bước phát triển xã hội.


Ta đã biết vai trò to lớn của lực lượng sản xuất trong nền kinh tế như Thái Lan
nhờ có lực lượng sản xuất phát triển đã giúp cho nền kinh tế phát triển bền vững.
Trước những năm 1945 nền kinh tế Thái Lan là nền nông nghiệp lạc hậu, độc

canh là phổ biến với kỹ thuật sản xuất dùng trong nông nghiệp hết sức lạc hậu. Công
nghiệp phát triển què quặt, phiến diện chủ yếu là công nghiệp khai thác mỏ và sơ chế
nguyên liệu. Nền kinh tế phụ thuộc hoàn toàn vào tư bản nước ngoài.
Từ cuối thập kỷ 60 đến nay nhờ có sự quan tâm đầu tư cho phát triển lực lượng
sản xuất mà nền kinh tế Thái Lan đã có sự biến đổi sâu sắc đạt được nhiều thành tựu.
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao và liên tục ổn định. Trong giai đoạn năm 19901999 tốc độ tăng GDP hằng năm đạt 4,7%. Cơ cấu kinh tế đã có sự chuyển hướng.
GDP trong nông nghiệp năm 1990 là 12,5% nhưng đến năm 2001 giảm xuống 8,6%.
Dịch vụ năm 1990 là 50%; năm 2001 là 49,3%. GDP bình quan đầu người năm 1995
là 3500 USD đến năm 2005 là 9000 USD một người.
Ngành nông nghiệp đã chú trọng đầu tư vốn ứng dụng khoa học kỹ thuật, phương
pháp canh tác mới, lai tạo nhiều giống mới, phát triển thuỷ lợi và tăng cường chiều sâu
cho nông nghiệp. Thái Lan từ chỗ chỉ có 2 loại cây trồng truyền thống như gạo, cao su
đã đa dạng hoá nhiều loại cây trồng. Sản lượng lương thực tăng đứng đầu thế giới về
xuất khẩu gạo.
Công nghiệp thì Thái Lan chú trọng ứng dụng thành tựu khoa học vào chế biến
nông sản, biến ngành này trở thành ngành mũi nhọn cạnh tranh với các nước trên thế
giới.
Dịch vụ đang phát triển nhanh với nhiều loại hình đa dạng. Đầu tư về trang thiết
bị, khoa học cho ngành này càng được nâng cao.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 đã làm cho nền kinh tế Thái
Lan gặp rất nhiều khó khăn. Nhưng nhờ có giải pháp của nhà nước và đặc biệt là sự
lớn mạnh không ngừng của lực lượng sản xuất đã giúp cho Thái Lan khôi phục được
nền kinh tế và trở thành con rồng trong khu vực Đông Nam Á.
Tóm lại vai trò của lực lượng sản xuất trong đời sống xã hội là vô cùng quan
trọng, quyết định về lượng và chất của đời sống xã hội.
Về lượng: Lực lượng sản xuất tạo ra của cải vật chất cho xã hội, đáp ứng nhu cầu
của xã hội Trong quá trình sản xuất con người đã sử dụng công cụ lao động tác động
vào tự nhiên, cải biến, các dạng vật chất của giới tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất
thỏa mãn nhu cầu và phát triển của con người.
Về chất: Theo quy luật chung của sự phát triển xã hội, khi lực lượng sản xuất

không ngừng phát triển mâu thuẫn với quan hệ sản xuất đã lỗi thời, kìm hãm nó, tất
yếu phải thay thế quan hệ sản xuất lỗi thời bằng một quan hệ sản xuất mới tiên tiến


hơn. C.Mác và Ph. Ăngghen đã chỉ rõ “Từ chỗ là những hình thức phát triển của các
lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng
sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội” C.Mác và Ph.Ăngghen:
Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993. Dưới chủ nghĩa tư bản, nhất là từ khi
máy hơi nước ra đời, lực lượng sản xuất mang tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu xã hội. C.Mác đã viết: “Sự tập trung tư liệu sản xuất và xã hội hoá lao động đạt
đến cái điểm mà chúng không còn thích hợp với cái vỏ tư bản chủ nghĩa của chúng
nữa... nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu
của một quá trình tự nhiên”. Sự phát triển của lực lượng sản xuất dẫn đến sự biến đổi
quan hệ sản xuất, do đó mà phương thức sản xuất mới ra đời. Phương thức sản xuất
mới nhất định tiến bộ hơn phương thức sản xuất trước đó. Phương thức sản xuất là sự
thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương
ứng. Trình độ phát triển của một xã hội thể hiện ở chính phương thức sản xuất của xã
hội hay cụ thể là ở lực lượng sản xuất tồn tại trong xã hội đó. Các Mác đã chứng minh:
“ Cái rìu đá cho ta xã hội công xã nguyên thủy. Cái cối xay gió cho ta xã hội phong
kiến. Cái máy hơi nước cho ta xã hội tư bản”.
Trong quá trình đấu tranh cho sự phát triển xã hội, Lênin đã nói: “Suy cho cùng
phương thức sản xuất này thắng phương thức sản xuất kia chính là ở chỗ tạo ra năng
suất lao động xã hội cao hơn”.
Qua việc nghiên cứu trên thấy được vai trò quan trọng của lực lượng sản xuất.
Nó là động lực thôi thúc nền kinh tế phát triển không ngừng.
Nhờ nghiên cứu lực lượng sản xuất ta có thể hiểu và áp dụng nó một cách sáng
tạo, khoa học vào trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước vững bước trên con
đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng chủ nghĩa xã hội.
2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY

2.1. BỐI CẢNH CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY.
Bối cảnh của quá trình phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay.
Ở Việt Nam, do điểm xuất phát rất thấp từ một nước nông nghiệp lạc hậu trong
chế độ phong kiến hàng nghìn năm, bị chủ nghĩa thực dân cai trị hàng trăm năm, nên
yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa càng bức thiết. Sau Cách mạng
Tháng Tám 1945, đất nước vừa giành được độc lập lại phải tiến hành kháng chiến lâu


dài chống xâm lược nên chưa có điều kiện để chuyển lên con đường Xã hội chủ nghĩa.
Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn xây dựng Chủ nghĩa xã hội phải
phát triển kỹ nghệ, tức là phát triển công nghiệp, khoa học, kỹ thuật.
Miền Bắc Việt Nam được giải phóng năm 1954 và bước vào thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội. Đại hội III của Đảng (9-1960) xác định công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ, tiến hành cách mạng kỹ
thuậtxây dựng nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hóa và khoa học
tiên tiến. Xác lập và củng cố quan hệ sản xuất Xã hội chủ nghĩa. Với đường hướng đó,
mặc dù trong điều kiện phải tiến hành kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lực lượng sản
xuất ở miền Bắc đã tăng gấp nhiều lần về cơ sở vật chất-kỹ thuật. Quan hệ sản xuất
mới được xây dựng và củng cố với ba yếu tố cơ bản: chế độ công hữu về tư liệu sản
xuất với hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể; chế độ quản lý kế hoạch hóa, tập
trung, hành chính mà Nhà nước là chủ thể; chế độ phân phối theo lao động, có tính đến
một phần về đóng góp tư liệu sản xuất (ruộng 5%).
Sau khi miền Nam được giải phóng (1975), đất nước thống nhất và xây dựng Chủ
nghĩa xã hội trên cả nước. Đại hội IV của Đảng (12-1976) tiếp tục đường lối đẩy mạnh
công nghiệp hóa Xã hội chủ nghĩa và coi cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt
để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Xây dựng quan hệ sản xuất mới ở miền
Nam theo mô hình đã được xây dựng và củng cố ở miền Bắc, để nhanh chóng thống
nhất về chế độ kinh tế. Trong hơn 10 năm xây dựng Chủ nghĩa xã hội trên cả nước, dù
bị bao vây, cấm vận và chiến tranh biên giới với những tổn thất nặng nề, song lực

lượng sản xuất vẫn phát triển đáng kể; “đã hoàn thành mấy trăm công trình tương đối
lớn và hàng nghìn công trình vừa và nhỏ, trong đó có một số cơ sở quan trọng về điện,
dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, đường, thủy lợi, giao thông…”(4). Xây dựng các công
trình thủy điện Hòa Bình, Trị An, nhiệt điện Phả Lại, các nhà máy xi măng Bỉm Sơn,
Hoàng Thạch, cầu lớn Thăng Long, Chương Dương, công trình thủy lợi Dầu Tiếng, Kẻ
Gỗ, kênh Hồng Ngự thật sự có ý nghĩa lớn về kinh tế - xã hội.
Với nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên Việt Nam đã lâm vào khủng
hoảng từ năm 1979. Một trong những nguyên nhân đó là nóng vội, duy ý chí trong cải
tạo Xã hội chủ nghĩa và quan hệ sản xuất mới bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết điểm, nhất
là về cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý. Quan hệ sản xuất đã làm cho nền kinh tế trì trệ,
kém phát triển và cũng không thể mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Đại hội
VI của Đảng (12-1986) cho rằng: “Kinh nghiệm thực tế chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị
kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản


xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Tình hình thực tế của nước ta đòi hỏi phải coi trọng những hình
thức kinh tế trung gian, quá độ từ thấp lên cao, từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn”(5).
Nhận thức đúng đắn đó là cơ sở để quyết định đường lối đổi mới, lấy đổi mới kinh tế
là trung tâm. Đổi mới cơ cấu kinh tế với chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế
gắn với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất; đổi mới cơ chế quản lý và chế độ
phân phối, xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính, tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển
sang hạch toán kinh doanh, chuyển dần sang nền kinh tế thị trường. Quan hệ sản xuất
đã được nhận thức và chuyển đổi phù hợp.
Trong công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện nhất quán đường
lối công nghiệp hóa – hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước nhằm phát triển mạnh mẽ
lực lượng sản xuất. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa VII (7-1994) nêu rõ:
“Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động
thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,

phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp
và tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Đó là một quá
trình lâu dài, “Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta
thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất-kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp
lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của sức sản xuất, mức
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng - an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, văn minh”.
Đại hội VIII của Đảng (6-1996) khẳng định Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng
kinh tế-xã hội, hoàn thành những nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu tiên của thời kỳ
quá độ, cho phép chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Chiến lược
phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ do Hội nghị Trung ương 2 khóa
VIII (12-1996) đề ra và xác định giáo dục, đào tạo cùng với khoa học công nghệ là
quốc sách hàng đầu nhằm phát triển lực lượng sản xuất, phát triển đất nước.
Đẩy mạnh CNH, HĐH, chú trọng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo và khoa
học, công nghệ là cần thiết và đúng đắn. Nhưng sau 10 năm đổi mới, Đại hội VIII lại
thấy rõ một khuyết điểm là: “Việc lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới có phần
vừa lúng túng vừa buông lỏng”(8). Kinh tế nhà nước, doanh nghiệp nhà nước chưa
phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Chưa đổi mới kinh tế hợp
tác, hợp tác xã tan rã hoặc chỉ tồn tại hình thức chưa có hình thức hợp tác xã mới.


Chưa thật sự thúc đẩy và quản lý tốt kinh tế tư nhân. Quản lý kinh tế liên doanh với
nước ngoài có nhiều sơ hở.
Có sự buông lỏng và lúng túng trong lãnh đạo xây dựng quan hệ sản xuất mới vì
quan hệ sản xuất được xây dựng trước đổi mới đã không còn thích hợp và nhận thức
về quan hệ sản xuất mới còn chưa rõ ràng.
Sau khi khẳng định nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế
thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, thì nhận
thức về quan hệ sản xuất và thể hiện nó trong xây dựng, phát triển các hình thức tổ
chức kinh tế, các thành phần kinh tế mới từng bước được làm rõ.

Hội nghị Trung ương 3 khóa IX (9-2001) ban hành nghị quyết Về tiếp tục sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Nghị quyết
Trung ương 5 khóa IX (2-2002) Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả
kinh tế tập thể và Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều
kiện phát triển kinh tế tư nhân. Những quan điểm cơ bản đó được thể chế hóa trong sự
bổ sung, phát triển Luật doanh nghiệp và Luật hợp tác xã.
Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế đã thúc đẩy phát
triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam. Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực. Gần 30 năm đổi mới, nhiều công trình lớn của
đất nước được xây dựng và đi vào hoạt động. Đó là nhà máy thủy điện Yaly, Sơn La,
Tuyên Quang cùng với Hòa Bình, Trị An trước đó, hệ thống tải điện Bắc Nam, cùng
với các nhà máy thủy điện vừa và nhỏ, nhiệt điện đã là thành tựu lớn của điện khí hóa
toàn quốc. Công nghiệp dầu khí với khu công nghiệp lọc dầu Dung Quất, khí điện đạm
Phú Mỹ, Cà Mau. Hiện đại hóa ngành khai thác than và khoáng sản. Tiếp tục phát triển
công nghiệp gang thép, cơ khí. Phát triển công nghệ thông tin và viễn thông. Nâng cấp
hệ thống đường giao thông. Xây mới các cầu hiện đại: Mỹ Thuận, Cần Thơ, các cầu ở
Đà Nẵng, cầu Thanh Trì, Vĩnh Tuy ở Hà Nội và nhiều cầu hiện đại khác. Hiện đại hóa
các sân bay, cảng biển. Phát triển hàng trăm khu công nghiệp và chế xuất, hình thành
những trung tâm công nghiệp, khu vực kinh tế trọng điểm của đất nước.
2.2. THỰC TRẠNG CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1 Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam
Dân số: Việt Nam có quy mô dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế giới, thứ
7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố không đều và có sự


khác biệt lớn theo vùng. Dân cư Việt Nam phần đông vẫn còn là cư dân nông thôn
(khoảng 68 % - năm 2013). Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá; tuổi thọ trung
bình tăng khá nhanh (năm 2013 đạt 73,1 tuổi).
Lao động: Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người; hàng

năm trung bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể lực và
tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao, tuy nhiên
so với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Xinh-ga-po, Trung Quốc,..) nói
chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo dai. Lao động Việt Nam
được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, tuy nhiên ý thức kỷ luật, năng lực làm
việc theo nhóm,… còn nhiều hạn chế.
Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều
này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực.
Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng là 2.058.922
người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp
là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự
phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với
nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ lực
lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3 lần tỷ
lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối với
nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại học trở lên)
trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm 2010 là 5,7%, năm 2012 là
6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ).
Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong nền
kinh tế là khá cao. Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá
XIII, nền kinh tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58-1,6 triệu việc làm mới; tỷ lệ
thất nghiệp là 2,18% (trong đó thành thị là 3,59%, nông thôn là 1,54%), tỷ lệ thiếu
việc làm là 2,75% (trong đó thành thị là 1,48%, nông thôn là 3,31%).
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất lao
động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số
người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2005 là 21,4 triệu
đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu đồng/người,
sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người.
Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được

thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính


viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng
lượng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày
càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh doanh, từng bước tiếp
cận trình độ quốc tế.
Có thể khái quát một số hạn chế chủ yếu của nguồn nhân lực nước ta như:
Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng,
miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của
xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với
nhu cầu xã hội để phát triển các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam, nhất là để tham
gia vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như nâng cấp vị thế của Việt Nam trong chuỗi giá
trị đó.
Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ chuyên
môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực
hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần có thời
gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.
Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ
là công cụ giao tiếp và làm việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi trường
làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là điểm yếu
của lao động Việt Nam.
Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức
văn hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động chưa
cao.
Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Mặt
khác, đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so
với các nước đang phát triển trong khu vực như Trung Quốc, Ấn Độ, In-đô-nê-xia.
2.2.2 Nguyên nhân

Nguyên nhân của những hạn chế có nhiều, cần được phân tích kỹ và đầy đủ để
rút kinh nghiệm, trong đó theo chúng tôi, đáng chú ý là
Thứ nhất, nguồn lực quốc gia và khả năng đầu tư cho phát triển nhân lực của
phần lớn các gia đình còn hạn chế, chưa đáp ứng điều kiện tối thiểu để bảo đảm chất
lượng các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao. Nguồn lực tài chính từ
ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực còn hạn chế; chưa huy động được nhiều
các nguồn lực trong xã hội (nhất là các doanh nghiệp) để phát triển nhân lực.


Thứ hai, quản lý nhà nước về phát triển nhân lực còn những bất cập so với yêu
cầu. Chủ trương, đường lối phát triển nguồn nhân lực chưa được thể chế hoá bằng các
văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách và các kế hoạch phát triển một cách
kịp thời và đồng bộ; việc triển khai thực hiện các chủ trương, đường lối, chính sách
chưa kịp thời, chưa nghiêm túc. Nhiều mục tiêu phát triển nguồn nhân lực chưa tính
toán đầy đủ các điều kiện thực hiện. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển nguồn nhân lực chưa
chặt chẽ.
Thứ ba, hệ thống giáo dục quốc dân - lực lượng nòng cốt trong đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực đất nước bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể là: công tác phân luồng
định hướng nghề nghiệp cho học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông chưa tốt;
công tác đào tạo, giáo dục nghề nghiệp chưa thực sự dựa trên cơ sở nhu cầu xã hội,
chưa thu hút được sự tham phát triển nguồn nhân lực từ các đơn vị sử dụng lao động;
đội ngũ giáo viên, giảng viên còn thiếu về số lượng, yếu về chuyên môn nghiệp vụ,
còn sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển giữa các địa phương, vùng, miền; hệ thống
phương pháp, công cụ kiểm tra, giám sát, kiểm định và đánh giá kết quả giáo dục và
đào tạo còn lạc hậu, kém hiệu quả; mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và
thực hiện đúng…
Thứ tư, hợp tác và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực
chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập ngày càng sâu rộng về kinh tế, xã hội,
văn hoá nước ta với thế giới. Còn nhiều sự khác biệt trong các quy định về giáo dục

nghề nghiệp, đào tạo nhân lực của hệ thống pháp luật Việt Nam so với pháp luật của
các nước; mô hình hệ thống giáo dục và đào tạo, nội dung, chương trình và phương
pháp đào tạo nhân lực chưa tương thích và chưa phù hợp với các tiêu chuẩn phổ biến
của các nước trong khu vực và thế giới; chưa thu hút được nhiều các nguồn lực quốc
tế cho phát triển nhân lực. Việc tổ chức, đánh giá chất lượng dạy và học ngoại ngữ, bồi
dưỡng một số hiểu biết, kỹ năng cần thiết để hội nhập quốc tế chưa đáp ứng yêu cầu.
Môi trường pháp lý, điều kiện làm việc, cơ chế chính sách chưa bảo đảm cho trao đổi
nhân lực giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học giữa Việt Nam và các nước được
thực hiện thuận lợi, chưa phát huy hết tiềm năng của khả năng hợp tác quốc tế này
phục vụ phát triển nguồn nhân lực của đất nước.


2.3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC GIAI ĐOẠN 2015-2020
Phát triển lực lượng sản xuất là yếu tố quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển kinh
tế xã hội. Vì vậy các biện pháp phát triển lực lượng sản xuất có vai trò then chốt trong
hệ thống các biện pháp phát triển kinh tế xã hội
2.3.1 Chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
Xây dựng, thường xuyên cập nhật hệ thống pháp luật về phát triển nguồn nhân
lực Việt Nam phù hợp với trình độ phát triển của Việt Nam nhưng không trái với thông
lệ và luật pháp quốc tế về lĩnh vực này mà Việt Nam tham gia, ký kết, cam kết thực
hiện.
Thiết lập khung trình độ quốc gia phù hợp với khu vực và thế giới. Xây dựng nội
dung, chương trình và phương pháp giáo dục và đào tạo theo định hướng phù hợp
chuẩn quốc tế và đặc thù Việt Nam; tăng cường quan hệ liên thông chương trình đào
tạo giữa các cơ sở giáo dục và các ngành đào tạo của Việt Nam và quốc tế; thực hiên
công nhận lẫn nhau chương trình đào tạo giữa các cơ sở giáo dục và đào tạo của Việt
Nam và của thế giới; thỏa thuận về việc công nhận văn bằng, chứng chỉ đào tạo giữa
Việt Nam với các nước.
Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo đại học,

sau đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo
dục đại học Việt Nam và thế giới.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có
tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào
quá trình đào tạo nhân lực đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở
giáo dục đại học Việt Nam.
Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ từ ngân sách nhà nước và huy động các
nguồn lực xã hội, kêu gọi đầu tư nước ngoài nhằm xây dựng một số trường đại học,
cao đẳng và dạy nghề đạt chuẩn quốc tế. Thu hút các trường đại học, dạy nghề có đẳng
cấp quốc tế vào Việt Nam hoạt động.
Tăng cường dạy và bồi dưỡng ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh), văn hoá thế giới,
kỹ năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc tế cho người Việt Nam.
Để thực hiện thành công các giải pháp trên, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, làm
cho cán bộ, công chức của toàn bộ hệ thông chính trị các cấp, các tầng lớp nhân dân,
các nhà trường, các doanh nghiệp, tổ chức hiểu rõ vai trò và trách nhiệm đào tạo và sử


dụng nhân lực, biến thách thức về nhân lực thành lợi thế để phát triển kinh tế, xã hội
và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.
2.3.2 Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển nhân lực
Trong đó, cần tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy quản lý phát triển nhân lực,
đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ
máy quản lý về phát triển nhân lực. Cần hình thành một cơ quan chịu trách nhiệm thu
thập, xây dựng hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực trên địa bàn cả nước nhằm
bảo đảm cân đối cung - cầu nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới các chính
sách, cơ chế, công cụ phát triển nhân lực (bao gồm các nội dung về môi trường làm
việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các
điều kiện sinh sống, định cư, chú ý các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng
cao, nhân tài). Cải tiến và tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành, các chủ thể
tham gia phát triển nhân lực. Thực hiện có hiệu quả các chính sách tạo việc làm,

khuyến khích mọi người tự tạo, tự tìm việc làm và thu hút lao động nhằm tăng thu
nhập cho bản thân và góp phần làm giàu đất nước. Các chính sách lao động, tiền
lương, khen thưởng,… phải có tác dụng động viên tích cực lực lượng lao động cho
công cuộc phát triển đất nước. Bên cạnh việc có thể tạo động lực về mặt vật chất, cần
quan tâm đến việc tạo động lực về tinh thần như: tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân
tộc, sự say mê và lương tâm nghề nghiệp, niềm tin, quyền tư do dân chủ, tính công
bằng xã hội….
2.3.3 Bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực
Ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia đến
năm 2020. Tăng đầu tư phát triển nhân lực cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng
nguồn vốn đầu tư toàn xã hội. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước
theo hướng tập trung chi để thực hiện các chương trình, nhiệm vụ, dự án đào tạo theo
mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội (hỗ trợ đào tạo, phát triển nhân lực ở
các vùng sâu, vùng xa, cho các đối tượng là người dân tộc thiểu số, đối tượng chính
sách,…). Nghiên cứu đổi mới cơ chế phân bổ và hỗ trợ bằng ngân sách nhà nước cho
phát triển nhân lực từ hỗ trợ cho các đơn vị cung ứng sang hỗ trợ trực tiếp cho đối
tượng thụ hưởng và bảo đảm công bằng giữa các cơ sở công lập và ngoài công lập.
Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân
lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân đầu tư


và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức: Trực tiếp đầu tư xây dựng cơ
sở giáo dục, đào tạo, cơ sở y tế, văn hoá, thể dục thể thao; Góp vốn, mua công trái,
hình thành các quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực. Cần quy định trách nhiệm của doanh
nghiệp đối với sự phát triển nhân lực, tạo điều kiện thuận lợi và có cơ chế, chính sách
mạnh để doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tăng đầu tư phát triển nhân lực
nói chung và đào tạo, bồi dưỡng, dạy nghề nói riêng. Mở rộng các hình thức tín dụng
ưu đãi cho các cơ sở giáo dục, đào tạo và cho học sinh, sinh viên để học nghề, học đại
học, cao đẳng, hỗ trợ người lao động học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát

triển nhân lực Việt Nam; sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ trợ phát
triển nhân lực (ODA); thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển
nhân lực (đầu tư trực tiếp xây dựng các cơ sở giáo dục, đào tạo, bệnh viện, trung tâm
thể thao..).
2.3.4 Cải cách mạnh mẽ và triệt để hơn giáo dục và đào tạo, coi đó là vấn đề trung tâm
của phát triển lực lượng sản xuất
Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu để phát triển nhân lực Việt Nam
trong giai đoạn từ nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo. Cần quán triệt và triển
khai quyết liệt Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 04-11-2013 của Hội nghị Trung ương 8
khoá XI và Nghị quyết số 44/NQ-CP ngày 09-6-2014 của Chính phủ ban hành
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại
hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc
tế. Trước mắt, cần tập trung vào một số nội dung sau đây:
Thứ nhất, hoàn thiện hệ thống giáo dục theo hướng mở, hội nhập, thúc đẩy phân
tầng, phân luồng, khuyến khích học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Tổ chức
lại mạng lưới giáo dục đào tạo, sắp xếp lại hệ thống giáo dục quốc dân cả ở quy mô
đào tạo, cơ cấu ngành nghề, cơ sở đào tạo, quy hoạch lại mạng lưới giáo dục nghề
nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước,
vùng, miền và địa phương. Thực hiện phân tầng giáo dục đại học.
Thứ hai, đổi mới chương trình, sách giáo khoa phổ thông, khung chương trình
đào tạo ở bậc đại học và giáo dục nghề nghiệp theo hướng phát huy tư duy sáng tạo,
năng lực tự học, tự nghiên cứu, tăng thời gian thực hành, tập trung vào những nội
dung, kỹ năng người học, doanh nghiệp và xã hội cần, đảm bảo liên thông giữa các


bậc học, cấp học, giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Đa dạng hoá các
phương thức đào tạo. Có cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia
xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình đào tạo và đánh giá năng lực người học.
Phải xác định rõ phương hướng phát triển giáo dục để đạt tới mục tiêu tổng quát là

nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài (theo quan điểm phát triển toàn
diện, bao gồm kiến thức, kỹ năng, đạo đức và thẩm mỹ)
Thứ ba, đổi mới phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp học, bậc học. Cải cách
mục tiêu, nội dung, hình thức kiểm tra, thi và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo,
đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Từng bước áp dụng kiểm định, đánh giá theo
kết quả đầu ra của giáo dục và đào tạo.
Thứ tư, đổi mới chính sách đối với nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; nâng cao
chất lượng nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ vào giáo dục và đào tạo.
Đặc biệt chú trọng việc tổ chức sắp xếp lại và hoàn thiện cơ chế, chính sách đối với
các trường sư phạm trên phạm vi cả nước. Bên cạnh đó tăng cường nguồn lực đầu tư
cho giáo dục và đào tạo, trong đó nguồn đầu tư từ ngân sách là phần chủ yếu. Tập
trung vào đầu tư phát triển cơ sở vật chất, cải tiến chương trình học, đổi mới phương
pháp giảng dạy…. Song song với việc đó là đẩy mạng hơn nữa công tác xã hội hóa
giáo dục. Thực hiện các biện pháp khắc phục triệt để những tiêu cực trong hệ thống
giáo dục đào tạo đang diễn ra rất bức xúc như: học giả bằng thật, chạy theo thành tích.
3. VẤN ĐỀ XÂY DỰNG, PHÁT HUY NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG
CAO HIỆN NAY Ở NGÂN HÀNG
3.1. THỰC TRẠNG NGUỒN NHÂN LỰC NGÂN HÀNG HIỆN NAY
Theo báo cáo tài chính quý II -2016 và tình hình 6 tháng đầu năm 2016 mới công
bố của Ngân hàng Thương mại cổ phần Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), số
nhân viên tại ngân hàng này là 2.969 người, giảm 77 người so với đầu năm. Ngân
hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB) cũng có số lượng nhân sự giảm 143 người
so với cuối năm 2013. Theo SCB, số lượng cán bộ nhân viên giảm là do cơ cấu tách
nhân sự tạp vụ, tài xế để thành lập Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thương mại Dịch vụ
Sinh tài. Tại báo cáo tài chính riêng lẻ của Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Hà Nội (SHB), điểm khiến giới tài chính “giật mình” là việc ngân hàng này đã quá
mạnh tay trong việc cắt giảm nhân sự. Chỉ trong 6 tháng, 666 nhân viên phải rời SHB
khiến cho tổng số nhân sự tại ngân hàng này chỉ còn 4.256 người.


Tuy nhiên, đây không phải lần đầu tiên SHB cắt giảm nhân sự lớn. Trước đó, vào

quý III-2013, ngân hàng này cũng đã cắt giảm 134 người và cắt đến 70% lương so với
cùng kỳ năm 2012. Ngân hàng Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam
(VietinBank) có tổng số cán bộ tính đến cuối tháng 6-2016 là 19.503 người, giảm 383
người so với đầu năm. Ngân hàng Thương mại cổ phần Bắc Á (Bac A Bank) tính đến
thời điểm hiện tại có 2.630 nhân sự, giảm 41 người so với quý I-2014. Ngân hàng
Thương mại cổ phần Á Châu (ACB) cũng giảm 379 người.
Bên cạnh hàng loạt ngân hàng mạnh tay cắt giảm nhân sự thì cũng có vài ngân
hàng vẫn tiếp tục tuyển dụng nhân sự nhưng quy mô tuyển không lớn, có thể kể đến
vài cái tên như ABBank, VietBank, Vietinbank, Vietcombank, Oceanbank, OCB,
VIB… Điển hình như Ngân hàng Quân đội tăng thêm gần 500 người trong 6 tháng,
Ngân hàng Sacombank tăng hơn 200 người…
Kết quả khảo sát của Viện Nhân lực ngân hàng - tài chính (BTCI) cho thấy trong
2 năm 2013 và 2014 có khoảng 30.000 - 32.000 sinh viên tài chính ngân hàng ra
trường nhưng chỉ có khoảng một nửa trong số đó được nhận vào làm việc trong các
ngân hàng. Đội ngũ nhân lực trên đã cơ bản đáp ứng được sự phát triển của ngành
ngân hàng trong thời gian qua, song khách quan nhìn nhận, chất lượng nguồn nhân lực
vẫn còn thấp. Đại đa số sinh viên sau khi tốt nghiệp đi làm tại các ngân hàng còn
“hổng” cả về kỹ năng (thái độ làm việc, kỹ năng làm việc nhóm, trình độ tiếng Anh,
khả năng giao tiếp) và kiến thức (các kiến thức về lĩnh vực tài chính, ngân hàng nói
chung). Do đó, hầu như các ngân hàng đều phải mất thời gian đào tạo lại mới có thể
đáp ứng được yêu cầu công việc.
Một số lĩnh vực chuyên sâu thiếu rất nhiều nhân lực và các ngân hàng phải mất
nhiều chi phí để thuê chuyên gia nước ngoài tư vấn, thực hiện. Theo khảo sát được
thực hiện bởi Viện Nhân lực ngân hàng - tài chính và Tập đoàn HayGroup, lượng sinh
viên ra trường trong ngành này các năm 2013 - 2014 vào khoảng 29.000 - 32.000
người và đến năm 2016 là khoảng 61.000 người. Tuy nhiên, số sinh viên được tuyển
chọn chỉ khoảng 15.000 - 20.000 người. Khảo sát tại các ngân hàng Việt Nam cho
thấy, có 3 vị trí rất khó tuyển dụng hiện nay là quản trị rủi ro, quản lý và đầu tư…
Hiện cả nước có khoảng 40 cơ sở đào tạo ngành tài chính - ngân hàng, trong đó
có 24 trường Đại học, mỗi năm có khoảng 11.000 cử nhân ra trường và 16 trường Cao

đẳng, mỗi năm có khoảng 7.000 sinh viên ra trường. Nhưng trong số này, rất ít người
được các ngân hàng tuyển dụng.


Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh quý I/2016 của Vụ Dự báo thống kê tiền tệ
Ngân hàng Nhà nước vừa qua cho thấy những tín hiệu tích cực trong lĩnh vực nhân sự
ngân hàng. Theo đó, 40% ngân hàng cho rằng họ vẫn đang thiếu người và chắc chắn
sẽ tuyển thêm trong tương lai. Phần còn lại nhận thấy nguồn nhân lực hiện tại đủ đáp
ứng nhu cầu. Tuy nhiên, hầu hết các đơn vị vẫn nhận định ngành ngân hàng sẽ phục
hồi và sẵn sàng tăng lao động để nắm bắt, đón đầu.
Trong những năm gần đây, nguồn nhân lực Ngân hàng phát triển rất sôi động về
cơ cấu, số lượng, chất lượng do nhu cầu mở rộng nhanh mạng lưới kinh doanh. Sự
phát triển quá nóng của các tổ chức tín dụng dấn đến nguồn nhân lực chất lượng cao,
có đạo đức nghề nghiệp thiếu, không đáp ứng được yêu cầu, trong khi đó công tác
tuyển dụng, đào tạo lại chưa được coi trọng nên rủi ro tác nghiệp và đạo đức gia tăng.
Theo một nghiên cứu của Trường đại học Tài chính – Marketing thực hiện vào tháng
5/2015 cho thấy, có khoảng 70% nhân viên ngân hàng đáp ứng được yêu cầu công
việc, 30% còn lại cần phải tiếp tục đào tạo. Riêng đối với một số chi nhánh mới, đặc
biệt là ở các tỉnh chỉ có khoảng 50% nhân viên có thể đáp ứng được yêu cầu công
việc.
Ngoài ra, 20-30% nhân viên tín dụng chưa nắm rõ các quy trình nghiệp vụ, yếu
về kiến thức pháp lý trong hồ sơ tín dụng phân tích tài chính, quản lý và xử lý nợ; 5060% nhân viên yếu kỹ năng giao tiếp, kỹ năng bán hàng, bán chéo sản phẩm, tổ chức
công việc. Mặt khác đa số cản bộ quản lý trung và cao cấp ở các ngân hàng thương
mại chủ yếu được đề bạt qua hoạt động chuyên môn, thiếu kiến thức về quản lý, điều
hành một chi nhánh, một ngân hàng hiện đại, nên đôi khi chỉ một sơ xuất nhỏ trong
quản lý nhân sự cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động ngân hàng.
3.2. NGUYÊN NHÂN VÀ HẠN CHẾ
3.2.1 Những hạn chế
Thứ nhất, nguồn nhân lực được đào tạo còn thiếu kỹ năng mềm: Kỹ năng giao
tiếp, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng lắng nghe, kỹ năng

ứng xử... của nguồn nhân lực ngành ngân hàng còn nhiều yếu kém. Thiếu tự tin trong
giao tiếp, dẫn đến thiếu khả năng trình bày thuyết phục. Đặc biệt là sinh viên mới ra
trường.
Thứ hai, Nguồn nhân lực vẫn còn có những lỗ hổng nhất định về kiến thức trong
đào tạo. Chương trình đào tạo chưa mang tính ứng dụng cao cho nên sinh viên khi ra
trường còn phải đào tạo lại để đáp ứng nhu cầu công việc thực tế. Phần lớn nhân viên


mới vào còn rất ngỡ ngàng với công việc của NH, chưa hình dung được vị trí mà mình
sắp đảm nhận nên rất lúng túng. Bên cạnh đó, khối kiến thức bổ trợ như ngoại ngữ, tin
học, giao tiếp đối với khách hàng vẫn còn yếu kém, thiếu tính hiện đại, chủ động,…
đặc biệt là Tiếng Anh là tấm vé thông hành trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, yêu cầu
nắm bắt thông tin và xử lý thông tin ngày càng bức thiết. Một trong những kênh cung
cấp thông tin nhanh và đa dạng chính là internet. Muốn lướt tin trên các trang tin
nhanh chóng thì đòi hỏi tiếng anh không chỉ dừng lại ở mức cơ bản, tiếng anh giao
tiếp, mà phải có được vốn tiếng anh để giúp đọc hiểu tin tức và thu thập thông tin thị
trường. Nhưng trên thực tế, không nhiều tân cử nhân đáp ứng được yêu cầu này khi
tuyển dụng
Thứ ba, chất lượng liên kết đào tạo quốc tế còn có những bất cập, chưa đáp ứng
yêu cầu của hội nhập quốc tế. Là một ngành có sự liên thông, liên kết quốc tế cao, đòi
hỏi người được đào tạo phải am hiểu sâu về kiến thức chuyên ngành, tin học, ngoại
ngữ; ngoài ra đòi hỏi phải có tính nhạy bén và đạo đức nghề nghiệp. Nhưng hiện nay,
ngoài một số trường đại học liên kết với một số trường có uy tín đào tạo chuyên ngành
về tài chính ngân hàng thì cũng có rất nhiều trường cũng liên kết đào tạo nhưng chất
lượng đào tạo chưa thực sự như mong đợi của xã hội.
Thứ tư, chưa có bộ quy tắc chuẩn mực về các chức danh công việc và tiêu chuẩn
nghề nghiệp cũng như chưa xây dựng được dự báo chuẩn về nguồn nhân lực nói chung
và nguồn nhân lực chất lượng cao nói riêng
Thứ năm, việc tuyển dụng, đặc biệt là tại một số NHTM nhà nước còn chưa thực
sự khách quan, công tâm; cơ chế thi đua khen thưởng còn có tính chất chủ quan, cào

bằng, chưa thực sự là động lực thúc đẩy người lao động hăng hái thi đua hoàn thành
nhiệm vụ.
Thứ sáu, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa các trường học và các ngân hàng. Việc
đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cũng nhằm mục đích cung cấp cho ngân hàng,
doanh nghiệp và xã hội. Tuy nhiên thời gian qua, chưa có sự tham gia sâu rộng của các
ngân hàng, doanh nghiệp vào quá trình đào tạo nguồn nhân lực cho ngành ngân hàng.
3.2.2 Những nguyên nhân
a.Nguyên nhân từ phía cơ quan quản lý vĩ mô:
Chưa xây dựng được chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ngành ngân hàng cũng
như thiếu quy hoạch cụ thể đối với việc phát triển các trường đại học đào tạo chuyên
ngành ngân hàng, các trung tâm bồi dưỡng nguồn nhân lực của hệ thống ngân hàng.
b. Nguyên nhân từ phía các trường đại học:


×