Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Đề thi học sinh giỏi trào lưu nhân đạo chủ nghĩa qua các tác phẩm đã học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.84 KB, 7 trang )

Đề thi h ọc sinh gi ỏi: Trào l ư
u nhân đạo
ch ủngh ĩa qua các tác ph ẩm đã h ọc
Posted by Thu Trang On Tháng Tám 05, 2016 0 Comment
Đề thi dành cho học sinh giỏi lớp 10.
Đề bài :
Truyền thống nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam đã phát
triển thành hẳn một trào lưu mạnh mẽ với nhiều thành tựu rực
rỡ vào nửa cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX. Em hãy giải
thích và chứng minh hiện tượng trên dựa vào những điều đã được
học về thời đại và về sáng tác của Phạm Thái, Nguyễn Gia Thiếu,
Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương và Nguyễn Du.
Bài làm:
1. Chủ nghĩa nhân đạo là một trong những truyền thống tư tưởng
lớn của nền văn học Việt Nam qua trường kỳ lịch sử.
Truyền thống ấy đến khoảng cuối thế kỷ XVIXI sang đầu thế kỷ
XIX đã được phát huy mạnh mẽ trở thành hẳn một trào lưu văn
học lôi cuốn hàng loạt cây bút đầy bản lĩnh và tài năng: Phạm
Thái, Đặng Trần Côn, Doàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ….
Hiện tượng đó có cơ sở xã hội – lịch sử của nó. Đấy là sự phản ánh
một thời kỳ lịch sử đầy biến động của đất nước đã lay chuyển đến
tận gốc rễ chế độ phong kiến ở Việt Nam. Đấy là thời kỳ của
những cuộc tranh giành quyền lực đẫm máu và kéo dài của các
tập đoàn phong kiến Lê Trịnh, Trịnh – Nguyễn. Đấy cũng là thời kỳ
của những cuộc nổi dậy của nông dân nổ ra liên tục ở khắp nơi
mà đỉnh cao nhất là cuộc khởi nghĩa của anh em Tây Sơn đã quét
sạch cả tập đoàn phong kiến đàng trong lẫn đàng ngoài,
đồng thời đánh tan 5 vạn quân xâm lược Xiêm La ở phía Nam và
20 vạn quân Thanh tràn xuống từ phía Bắc. Triều đại Tây Sơn tồn



tại không được bao lâu. Nhà Nguyễn cuối cùng đã giành được
chính quyền. Chúng muốn kéo đất nước ta trở lại chế độ phong
kiến hủ bại và phản động, nhưng sự khủng hoảng của xã hội
không vì thế mà có thể chấm dứt.
Những biến động trên đây tất nhiên dẫn đến sự khủng hoảng sâu
sắc của ý thức hệ phong kiến. Đây là thời kỳ kỷ cương và đạo lý
phong kiến mất hết vẻ thiêng liêng. Trong thực tế, có biết bao
bằng chứng nói rằng đạo vua tôi, thầy trò. cha con, vợ chồng, anh
em đã bị đem bán rẻ vì quyền lợi cá nhân bẩn thỉu (xem Hoàng Lê
nhất thống chí của Ngô Gia Văn Phái, Vũ trung tùy bút của Phạm
Đình Hổ…). Trước tình hình đó, người ta nhận ra rằng, cái gọi là
tam cương, ngũ thường, của đạo lý phong kiến, lâu nay vẫn chi
phối đời sống tinh thần của con người, chỉ là giả dối, là trái với tự
nhiên và lòng người. Trong khi đó, những cuộc nổi dậy của nông
dân chống áp bức bóc lột khiến người ta thấy cần phải quan tâm
tới số phận con người, đến quyền sống và hạnh phúc của nổ và
cần phải đấu tranh để giải phóng con người. Đó là nguồn gốc ý
thức của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa chống phong kiến nổi lên
như một trận gió lớn thổi mạnh vào đời sống văn học nước ta cuối
thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX.
2. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn học thời kỳ này trước hết thể
hiện ở sự lên án mạnh mẽ chế độ phong kiến đã trở nên hết sức
thối nát và tàn bạo. Những tác phẩm tiêu biểu nhất của văn học
thời kỳ này, xét ở một phương diện nào đấy, có thể nói, đều là
những bản án khác nhau về chế độ phong kiến.
Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn cũng như bản dịch của
Đoàn Thị Điểm thực chất là một bản án đầy ai oán kết tội chiến
tranh phong kiến đã làm tan vỡ hạnh phúc lứa đôi của biết bao
chinh phụ, chinh phụ giữa “tuổi trẻ đương chừng hoa nở”. Lời than

vãn của người chinh phụ nhiều khi cất lên thành giọng oán trách
gay gắt muốn vút lên đến tận trời xanh:
Xanh kia thăm thẳm từng trên
VÌ ai gây dựng cho nên nỗi này!


Cung oán ngăn khúc của Nguyễn Gia Thiều lại là một bản án
khác, tố cáo tội ác hoang dâm vô độ của bọn vua chúa đã đấy đọa
biết bao cung nữ giữa tuổi xuân vào kiếp sống cô đơn. mòn mỏi
cho đến cùng đời mãn kiếp nơi cung cấm không khác gì thân goá
bụa:
Buồn vì nỗi nguyệt tà, ai trọng?
Buồn vì điều hoa rụng, ai nhìn?
(…) Suy đi đâu biết cơ trời,
Bỗng không mà hoá ra người vị vong…
Nỗi oán hận có khi lên đến cực điểm bộc lộ ở thái độ quyết liệt
của người cung nữ:
Dang tay muốn dứt to hông
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra.
Đanh thép và dứt khoát hơn nữa là những bản án của Hồ Xuân
Hương. Nhà thơ như muốn ném ra một quan niệm đạo đức đối lập
với luân lý phong kiến;’xuất phát từ quyền sống con người, hạnh
phúc con người, đặc biệt là quyền sống và hạnh phúc của người
phụ nữ. Nữ sĩ cực lực phê phán chế độ đa thê (Làm. lẽ), ngang
nhiên bênh vực người đàn bà không chồng mà chửa (Không chồng
mà chửa), lên án quan niệm trọng nam khinh nữ, đánh vỗ vào mặt
những “hiền nhân quân tử” vốn là linh hồn và bộ mặt cao đạo của
chế độ phong kiến, vạch trần bản chất dốt nát và đạo đức giả của
chúng (Mắng học trò dốt, Vịnh cái quạt, Đèo Ba Dội, Đề đền Sầm
Nghi Đống….V. ..)

Nhưng qui mô và toàn diện hơn cả là bản án Kim Vân Kiều truyện
của Nguyễn Du. Qua cuộc đời chìm nổi của nàng Kiều. nhà thơ lên
án xã hội phong kiến đã dày xéo lên tài và sắc. đã phá tan hạnh
phúc lứa đôi tuyệt đẹp của một. cặp giai nhân tài tử. Một xã hội
thối nát đến mức đồng tiền có thể mua được tất cả, dù là chân lý
hay công lý “Trong tay sẵn có đồng tiền, Dầu lòng đổi trắng thay
đen, khó gì”, “Một ngày lạ thói sai nha, làm cho khốc hại chẳng


qua vì tiền!” Một xã hội đầy rẫy những quan lại độc ác, những lưu
manh côn đồ, những bọn buôn thịt bán người có tên là Hồ Tôn
Hiến, là “họ Hoạn danh gia”, là Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Bà, Bạch
Hạnh, Sở Khanh, Khuyển Ưng. Khuyển Phệ. . Cả một lũ đầu trâu
mặt ngựa đào hố, giăng bẫy đẩy cô Kiều vào “Hết nạn nọ đến nạn
kia”, “làm cho sốngđọa thác đầy, đoạn trường cho hết kiếp này
mới thôi”
Trong xã hội ấy cực nhục nhất là người đàn bà vì họ phải chịu
nhiều tầng áp bức hơn cả. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du
đã nhiều lần thốt lên:
Đau đớn thay phận dàn bà!
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung…
3. Phương diện thứ hai là chủ nghĩa nhân đạo chống phong kiến
thể hiện ở thái độ trân trọng con người, không phải xuất phát từ
những tiêu chuẩn của đạo lý phong kiến, mà từ sự phát hiện
những phẩm chất người và vẻ đẹp có tính chất trần thế trần tục
của con người, nhiều khi đối lập hẳn với quan điểm đạo đức và
thẩm mỹ phong kiến.
Bài Văn tế Trương Quỳnh Như của Phạm Thái chẳng hạn có thể
xem là lời than tiếc đến đứt ruột của tác giả trước cái chết của
một

người tình tài hoa rất mực, nhan sắc tuyệt
vời, đã
phải
“oan thác” giữa “tuổi trăng rầm, hoa nụ” vì lễ
giáo phong kiến vô nhân đạo. Truyện Kiêu cũng vậy, Nguyễn Du
đã dành những vần thơ trân trọng nhất để ca ngợi tài và sắc của
Thuý Kiều, cũng như khí phách ngang tàng của Từ Hải đối lập hẳn
với đạo cương thường của Khổng Mạnh. Bằng ngòi bút táo bạo,
Hồ Xuân Hương đã vẽ nên hình ảnh đầy xuân tình, xuân sắc của
người phụ nữ trong các bài Tranh tố nữ hay Cô gái ngủ ngày:
Lược trúc chải cài trên mái tóc
Yếm đào trễ xuống dưới nương long…


Cao Bá Quát cũng tỏ ra có một quan niệm khá cởi mở khi ghi lại
hình ảnh một người đàn bà Tây phương nũng nịu bên chổng mà
ông bát gặp nhân một chuyên đi sứ (Dương phụ hành)…
Trái với quan niệm phong kiến không coi trọng sự độc đáo của cá
nhân, cá tính, văn học cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã ném ra
hàng loạt tính cách đầy bản lĩnh, ngang nhiên khẳng định cá tính
riêng của mình, như Phạm Thái một tính nhân đắm say lãng mạn,
như Hồ Xuân Hương tài hoa và ngỗ ngược, như Cao Bá Quát,
Nguyễn Công Trứ ngang tàng khí phách, v.v…
4.
Biểu hiện cao nhất của chủ nghĩa nhân đạo chống phong
kiến là yêu cầu giải phóng con người, là đấu tranh cho quyền
sống, nhân phẩm và hạnh phúc của con người. Văn học Việt Nam
cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã dũng cảm nêu cao tinh thần
ấy. Trước hết nó đòi giải phóng tình cảm của con người, đặc biệt
trong quan hệ tình yêu nam nữ. Bản thân mối tình đắm say của

Phạm Thái – Trương Quỳnh Như và nỗi đau đớn của đôi tình nhân
phải chịu cảnh sinh ly tử biệt là một tiếng kêu thống thiết đòi
quyền tự do luyến ái cho nam nữ thanh niên:
“Nương tử ơi! Chướng căn ấy bởi vì đâu ? Oan thác ấy bởi vì đâu?
Cho đến nỗi xuân tàn hoa nụ, thu lẫn trăng rằm!
(. ) Ta hăm hở chí trai hồ thỉ, bởi đợi tình cho nấn ná nhân duyên:
mình long đong thân gái liễu bồ vì giận phận hoá ngang tàng tính
mệnh.
Cho đến nói hoa rơi lá rụng. ngọc nát châu chìm, chua xót cũng
vì đâu Não nuột cũng vì đâu ?”
(Văn tế Trương Quỳnh Như)
Cần chú ý điều này: đối với xã hội phong kiến, tự do luyến ái giữa
nam và nữ không chỉ là vấn đề của quan hệ cá nhân, của hạnh
phúc cá nhân, đó là sự công phá trực tiếp vào nền tảng của đạo lý
phong kiến, của trật tự xã hội phong kiến. Có hiểu như thế mới
đánh giá được đày ‘đủ tinh thán phản phong- táo bạo của Nguyễn
Du khi ca ngợi mói tình tự do của Kim r Kiéu. Khi người con gái họ
Vương, nhân cha mẹ vắng nhà, đã “Xàm xăm băng lối vườn khuya


một minh” sang tinh tự với cậu học trò họ Kim bên hàng xđm, thì
cđ nghĩa là cô đã thực hiện một hành vi phiến loạn không thể tha
thứ được đôi với phép tác kỷ cương phong kiến Tinh thần phản
phong của tác giả còn được đẩy lẽn cao hơn nữa khi ông ngợi ca
Từ Hải, con người bất chấp trật tự phong kiến, “Nghênh ngang
một cõi biên thuỳ”, đường hoàng thực hiện công lý của nhản dân
giữa thanh thiên bạch nhật:
Phong trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giả áo túi cơm sá gì!
Đấu tranh cho quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc lứa đôi của

người phụ nữ, không gi táo bao hơn là những vần thơ của Hồ Xuân
Hương. Đối lập với quan niệm phong kiến trọng nam khinh nữ, nữ
sĩ đặt mình không phải ngang hàng, mà lên trên những đấng nam
nhi:
Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái Thú đứng cheo leo!
ví đây đổi phận làm trai được,
Thì sụ anh hùng há bấy nhiêu!
(Đề đền Sầm Nghi đống)
Nhà thơ còn ngang nhiên bênh vực những phụ nữ không chồng
mà chửa “Không có, nhưng mà có, mới ngoan”, và đường hoàng
khẳng định cá tính ngang ngược của mình như một thách thức đối
với xã hội phong kiến:
Quả cân nho nhỏ, miếng trầu hôi
Này của Xuân Hương đã quệt rồi
Có phải duyên nhau thi thắm lại
Đừng xanh như lá bạc như vôi.


(Mời trầu)
Có thể nói thơ Hồ Xuân Hương là một chuỗi cười vừa trẻ trung
sảng khoái, vừa quyết liệt dữ dội, ném thẳng vào xã hội phong
kiến Việt Nam đã bước vào thời kỳ suy tàn mạt vận.
Quan tâm tới số phận con người, tìm tòi khám phá phẩm chất
của nó và những khát vọng của nó, ấy là nhiệm vụ trọng yếu
nhất và vinh quang nhất của văn chương nghệ thuật. Đó là lý do
vì sao trào lưu văn học nhân đạo chủ nghĩa nửa sau thế kỷ XVIII,
nửa đầu thế kỷ XIX đã phát triển mạnh mẽ với những thành tựu
phong phú và rực rỡ chưa từng có trong lịch sử văn học nước ta ở
những thời kỳ trước đó.




×