Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH CÁC BÌNH DIỆN THI PHÁP CỦA TÁC PHẨM HAI ĐỨA TRẺ- THẠCH LAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.54 KB, 12 trang )

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH CÁC BÌNH DIỆN THI PHÁP CỦA TÁC
PHẨM HAI ĐỨA TRẺ- THẠCH LAM”

BÀI LÀM:

Thạch Lam (1910-1942) là thành viên của "Tự lực văn đoàn". Ông thành công về
truyện ngắn và bút kí qua các tác phẩm như: "Gió đầu mùa", "Nắng trong vườn", "Hà Nội
36 phố phường", v.v... Tác phẩm của Thạch Lam có "cốt cách và phẩm chất văn học", để
lại "các dư vị và cái nhã thú" cho người đọc. Đó là chữ nghĩa của Nguyễn Tuân trong
"Lời bạt" Tuyển tập Thạch Lam. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" in trong tập "Nắng trong
vườn" (1938). Truyện ngắn này có những nét đặc sắc nghệ thuật tiêu biểu cho phong cách
của Thạch Lam.
Thạch lam có quan điểm về văn chương rất lành mạnh và tiến bộ "Văn chương
không phải là sự thoát li hay lãng quên,văn chương là vũ khí thanh cao và đắc lực mà
chúng ta có.Nó làm thay đổi xã hội giã dối và tàn ác.Nó làm cho lòng người trong sạch
và phong phú hơn". Khi đến với tác phẩm "Hai đứa trẻ",mỗi người có những hướng tiếp
cận riêng.Ở đây người viết chọn cho mình cách tiếp cận về không gian nghệ thuật,thời
gian nghệ thuật,cốt truyện,nhân vật và thi pháp ngôn ngữ.
* Thi pháp nhân vật:
Trong truyện “Hai đứa trẻ” nhà văn dụng ý xây dựng nhân vật là hai chị em Liên
và An cùng với những bọn trẻ trong khu phố nghèo. Từ cách đặt tên nhân vật “Liên”,
“An”, cách gọi tên nhân vật: bác Siêu, chị Tý, ông giáo, chị Thi, Cụ, Liên, An cũng mang
nhiều ý nghĩa. “Hai đứa trẻ” (bọn trẻ) - là mầm sống của tương lai, là chủ nhân tương lai
của đất nước. Đáng lẽ phải được sống trong sự thương yêu, che chở, đùm bọc của gia
đình, của người lớn và của toàn xã hội; phải được hưởng những gì tốt đẹp nhất như: học


tập, vui chơi, giải trí. Nhưng ngược lại, hình tượng trẻ em trong tác phẩm của Thạch Lam
thì hoàn toàn khác hẳn, thậm chí lại còn tệ hại hơn. Trẻ em phải tự kiếm sống trong môi
trường tối tâm, ẩm thấp và ô nhiễm của tiếng muỗi kêu vo ve, của gió lạnh về đêm, của


hơi đất âm ẩm, thời gian mà đáng lẽ phải được nghĩ ngơi “Một chiều êm ả như ru, văng
vẳng tiếng ếch nhái kêu vang ngoài đồng ruộng”, “muỗi bắt đầu vo ve”, “Một mùi âm ấp
bốc lên, hơi nóng của ban ngày lẫn với mùi cát bụi quen thuộc quá”, “ Trên đất chỉ còn
rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía”.
Tên “Liên” nghĩa là sự hồi tưởng, nhớ lại một thời vàng son của tuổi thơ với biết
bao hạnh phúc, mà nói đúng hơn là của tác giả chăng?. Liên rất phù hợp với diễn biến
của truyện, mà như ta đã biết, trong truyện hai yếu tố đan xen vào nhau, hòa quyện vào
nhau đó là sự hồi tưởng về quá khứ và mơ ước đến tương lai tốt đẹp hiện lên trong đôi
mắt, trong tâm tưởng của bọn trẻ. Vậy là tên “An” lại được tác giả khéo léo vận dụng rất
thành công và tên hai chị em trong tác phẩm gọp lại chẳng phải là: hồi tưởng về quá khứ
tốt đẹp của dĩ vãng và mơ ước đến một tương lai bình an và hạnh phúc đó sao. Quả thật
không sai.
Những con người xuất hiện trong tác phẩm là ai, là những người đều có tên, có
tuổi nhưng thân phận của họ thì như thế nào? Điều này ai cũng điều rõ. Nhưng tại sao
Thạch Lam lại gọi họ rất thân mật và trân trọng đến thế: là bác, là chị, là ông, là cụ và
thân mật hơn là Liên, An. Chỉ thông qua cách gọi tên cũng đủ cho ta biết được tấm lòng
nhân ái bao la của tác giả. Tác giả luôn trân trọng nâng niu và chia sẽ, cảm thông với họ,
dù họ là những con người nghèo khổ. Sự đồng cảm sâu sắc của tác giả.
Tất cả câu chuyện chỉ xoay quanh tâm trạng của một cô gái tên Liên - nhân vật
chính trong tác phẩm, và em gái cô tên là An. Hình ảnh hai chị em Liên hầu như… từ lúc
hoàng hôn buông xuống đến tận đêm khuya. Nhưng cuộc sống nghèo nàn nơi phố huyện
chỉ là cái nền để tác giả nói tới quan hệ giữa những người dân mộc mạc trong cảnh sống
bình thường. Cái tình người chân chất cứ nhẹ nhàng thấm sâu khắp thiên truyện, nó tỏa ra
trong mọi mối quan hệ: giữa chị em Liên với nhau; chị em Liên với những người xung
quanh. Người đọc cảm thấy ấm lòng trước tình thương và sự cảm thông của những con


người nơi đây. Khi miêu ta từng nhân vật, Thạch Lam không quan tâm đến ngoại hình,
hành động mà ông tập trung chủ yếu vào thế giới nội tâm, cái hiện thực tâm hồn với
những cảm giác, cảm xúc mong manh, mơ hồ. Bằng cách ấy, Thạch Lam đã khắc họa

được những xao động trong tâm hồn Liên lúc chiều về trên phố huyện "lòng buồn man
mác"; thấy mấy đứa trẻ lom khom nhặt nhạnh ở chợ mà "động lòng thương nhưng chính
chị cũng không có tiền để mà cho chúng nó"; Cả cái hãnh diện của Liên về chiếc xà tích
có gắn chìa khóa "vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang"; cái ước mơ chập
chờn ‘thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi".... Qua đó thức tỉnh những tâm hồn chán
chường.
Thạch Lam đã hiểu sâu sắc những con người bé nhỏ trong bóng tối này với những
ước vọng đáng thương của họ. Sống trong bóng tối, trong yên lặng, trong buồn chán, đêm
đêm chị em Liên cố thức để được nhìn chuyến tàu đi qua “tàu đến chị đánh thức em dậy
nhé!”. Nghe lời dặn của bé An ta cảm thấy hai đứa trẻ tha thiết với chuyến tàu đêm đến
biết chừng nào. Rồi đèn ghi ra. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vọng lại trong đêm khuya kéo
dài ra theo ngọn gió xa xôi. Và chỉ cần nghe chị Liên gọi: “Dậy đi An! Tàu đến rồi!” là
Anh nhổm dậy dụi mắt và tỉnh hẳn. Rồi tiếng còi rít lên, đoàn tàu rầm rộ đi tới. Liên quan
sát rất kĩ đoàn tàu, thèm khát như được nhìn một thế giới xa lạ “Liên chỉ thoáng trông
thấy những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh và các
cửa kính sáng”. Rồi chiếc tàu đi vào đêm tối, để lại những đốm than đỏ bay tung trên
đường sắt. Chuyến tàu đã xáo trộn cả cõi yên tĩnh của phố huyện. Chuyến tàu gợi cho
Liên mơ tưởng: “Họ ở Hà nội về! Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”.
Rõ ràng là Liên và An đợi tàu không phải để bán ít quà vặt cho khách đi đường mà
là một nhu cầu bức xúc về tinh thần của hai đứa trẻ, muốn trong chốc lát được thoát ra
khỏi cuộc sống buồn chán tối tăm này. “Con tàu như đã đem một chút thế giới khác đi
qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên khác hẳn các vầng sáng ngọn đèn của chị Tí và
ánh lửa của bác Siêu”. Dưới mắt hai đứa trẻ, chiếc tàu là hình ảnh của một thế giới văn
minh, giàu sang, nhộn nhịp, huyên nào và đầy ánh sáng.


Qua tâm trạng đợi tàu của hai đứa trẻ, tác phẩm thể hiện một niền xót thương vô
hạn đối với những kiếp người nhỏ bé vô danh không bao giờ được biết ánh sáng và hạnh
phúc. Cuộc sống mãi mãi bị chôn vùi trong tăm tối nghèo đói, buồn chán nơi phố huyện
và nói rộng ra trên đất nước còn chìm đắm trong cảnh nô lệ và đói nghèo. Qua tâm trạng

Liên, tác giả đồng thời cũng muốn thức tỉnh tâm hồn uể oải đang lụi tắt ngọn lửa lòng
khao khát được sống một cuộc sống có ý nghĩa hơn, khao khát thoát khỏi cuộc đời tăm
tối đang chôn vùi họ.
* Cốt truyện:
Câu chuyện dường như không có cốt truyện.Toàn bộ mạch truyện được dẫn dắt
bởi suy nghĩ và tâm trạng của Liên, An. Mỗi ngày có một chuyến tầu từ Hà Nội sẽ qua
phố huyện trong mấy phút. Mỗi đêm, hai đứa trẻ lại chờ đợi. Hẳn các em phải chờ
chuyến tầu ấy qua suốt một ngày buồn tẻ. Nỗi chờ đợi càng trở nên khắc khoải hơn khi
đêm đổ xuống : đèn thắp sáng ở các nhà xung quanh, ngọn đèn leo lét nơi hàng nưước
nhà chị Tí, cái chấm lửa nhỏ của bác phở Siêu... đó chính là những điểm mốc, bưước đi
của thời gian đang cho các em xích lại gần với chuyến tàu. Nên mặc dù đã buồn ngủ ríu
cả mắt, hai em vẫn cố gưượng, và cho đến khi không thể chờ thêm đưược nữa, An vẫn
còn dặn chị : “tàu đến thì chị đánh thức em nhé”. Các em khao khát chờ đón đoàn tầu
nhưư chờ đón một sự cố trọng đại. Bởi chính chuyến tầu đêm đã mang một thế giới khác
đến gợi cho các em nhớ lại một vùng sáng rực rỡ lấp lánh có nhiều thứ quà ngon lạ,
đưược uống những cốc nưước lạnh xanh đỏ, mà giờ đây với các em đã là một thứ xa xỉ
nhiều tiền không bao giờ mua đưược . Chính Đoàn tàu gợi cho các em nhớ lại một hồi ức
đẹp. Hồi ức đó, ước mơ đó như trong truyện cổ tích nhưng chỉ khác một điều ra đi không
bao giờ trở lại, vịt qua chớt nhoáng rồi qua ngay, xa dần, xa dần để rồi ngày mai lại xuất
hiện, lại hi vọng mơ hồ. Đoàn tàu cũng là niềm an ủi nỗi khỏt khao mơ hồ, ước mơ không
bao giờ trở về một chút tương lai cho dù nghèo khổ hàng ngày. Đoàn tàu qua, tiếng rầm
rộ của đoàn tàu, tiếng ồn ào của hành khách, cả cái ánh đèn sáng trắng chiếu xuống
đường làm phố huyện như bừng tỉnh trong chốc lát Chuyến tàu là niềm vui duy nhất giải
toả tâm lí sau một ngày mệt mỏi buồn chán.


Như những chuyến tàu cũng nhanh chóng xa dần, khuất dần. Phố huyện hết sức
náo động, chỉ có bóng đêm lồng với bóng người đi về. Chị Tí sửa soạn đồ đạc. Bác phở
Siêu gánh hàng vào làng, vợ chồng bác Xẩm ngủ gục trên manh chiếu tự bao giờ. Liên
như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ cũng ngập dần vào giấc

ngủ yên tĩnh nhưru trong phố huyện tịch mịch và đầy bóng tối. Sự xuất hiện của chuyến
tàu đêm càng làm nổi bật cuộc sống buồn tẻ tù đọng đáng thương nơi phố huyện.
Truyện được xây dựng theo kết cấu vũng trũn: “Chiều, đêm, khuya”. Nhịp sống
ếm ả quẩn quanh uể oải đơn điệu buồn tẻ. Hàng loạt chi tiết gây cảm giác về sự lặp lại
một cách đơn điệu buồn tẻ : “Chị Tí chiều nào cũng dọn hàng từ tối đến nửa đêm. Bác
phở Siêu thổi lửa. Chị em Liên đêm nào cũng ra ngồi trên chiếc chõng tre dưới gốc cây
bàng trong bóng tối”. Tất cả phố xá trong huyện đều thu nhỏ nơi hàng nưíc cña chị Tí.
Và trong tác phẩm hình ảnh ngọn đèn con hàng nước như chị Tý được tác giả nhắc đi
nhắc lại nhiều lần. Ngọn đèn con được nhắc 4 lần, tượng trưng cho những kiếp người
nhỏ bé bé vô danh, vô nghĩa sống leo lét trong đêm tối mênh mang của xã hội cũ. Họ
sống không hạnh phúc không tương lai, những kiếp người u tối. "Chừng ấy con người
trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng".
Với lối kết cấu vòng tròn, câu chuyện không có cốt truyện, xuất phát từ điểm nhìn
của một tấm lòng nhân ái, tác giả giúp người đọc hình dung được cuộc sống, số phận của
những con người bé nhỏ nơi phố huyện nghèo bế tắc, không có tương lai. Với giọng điệu
tâm tình chứa đầy chất thơ, nhà văn Thạch Lam góp phần chuyên chở tấm lòng nhân đạo
thấm thía của tác giả. Thông qua đó, nhà văn giúp người đọc hình dung được một bức
tranh hiện thực của xã hội đương thời.
* Không gian nghệ thuật
Không gian cụ thể trong tác phẩm là làng quê nông thôn, phố huyện nghèo nàn
xơ xác, tối tâm “ Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng tiếng một vang
ra để gọi buổi chiều”, “Trời đã bắt đầu đêm, môt đêm mùa hạ êm như nhung và thoảng
qua gió mát. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”.


Không gian đó được nhìn dưới con mắt của Liên - Chị của An. Với cái nhìn của
người trong cuộc làm cho bức tranh của phố huyện nghèo hiện lên càng chân thật hơn,
bộc lộ được chiều sâu tâm trạng của nhân vật hơn, giúp cho người đọc càng thấm thía
hơn với cuộc sống ở làng quê tiêu điều xơ xác và qua đó bộc lộ được những khát vọng về
một tương lai tươi sáng hơn của những đứa trẻ - tương lai còn đó với biết bao hi vọng và

tươi đẹp.
Tính chất của không gian đó là hẹp, tĩnh lặng mặc dù còn đó những sự sống.
Không gian nghệ thuật còn là hình tượng con tàu, ánh sáng con tàu. Con tàu trong tác
phẩm mang một ý nghĩa biểu tượng đối với nhân vật Liên. Đối với những đứa trẻ khác
cùng những con người trong khu phố nghèo, họ mong con tàu đến để có thể bán được
một ít hàng, hay để nhìn thấy được ánh sáng của ngọn đèn điện. Còn đối với Liên, con
tàu và ánh sáng của nó mang lai một thế giới khác hẳn nó như ngôi sao băng vút qua bầu
trời, sáng cả không gian và tâm hồn con người. Ánh sáng cháy rực trong tiềm thức Liên,
đó là ánh sáng của ước mơ, là quá khứ tốt đẹp của Liên “mẹ Liên dọn ngay từ khi cả nhà
bỏ Hà Nội về quê ở, vì thầy Liên mất việc”, con tàu đi qua làm liên sống lại những ngày
tháng sống hạnh phúc với gia đình ở Hà Nội, Liên nhớ về tuổi thơ vui vẻ, hạnh phúc như
bao đứa trẻ khác mỗi lần được nhìn thấy con tàu mang ánh sáng, mang cuộc sống từ Hà
Nội về “ Liên nhớ lại khi ở Hà Nội chị được hưởng những thức quà ngon, lạ - bấy giờ
mẹ Liên nhiều tiền - được đi chơi Bờ Hồ,…”.
Truyện được tạo dựng chủ yếu xuất phát từ điểm nhìn về mình của nhà văn, do
vậy không gian nghệ thuật trong truyện ngắn của ông cũng tuân theo điểm nhìn chủ
quan, với những ẩn ức trong bản thân.Vì vậy, không gian nghệ thuật xuất hiện trong các
truyện là không gian tâm tưởng, với chiều sâu dồn nén tâm lí. Để tạo lập không gian tâm
tưởng, Thạch Lam chú trọng vào các tình thế trọng yếu gợi khoảng lặng nội tâm nhân
vật, tạo nên những co giãn không gian giữa hai chiều: Không gian thực( Cái gợi ký ức)
vào không gian chiều sâu tâm lý ( những giấc mơ: Giấc mơ thức và giấc mơ ngủ) tạo nên
sự day dứt giữa hiện thực và tâm trạng con người. Không gian về một Hà Nội tráng lệ
trong Hai đứa trẻ vẫn gợi lại những ẩn ức đứt quãng, chỉ còn là những hình ảnh mơ hồ


chồng lớp hiện về trong tưởng tượng (giấc mơ thức): Một “ Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng
rực vui vẻ và huyên náo” được gửi về phố huyện trên con tàu đêm, để rồi khi con tàu đi
qua không gian hiện thực trở lại với những cảm nhận mơ hồ nửa tỉnh nửa mê ( sự dai
dẳng của Hà nội) trong hiện tại: “ An và Liên lặng ngước mắt lên nhìn các vì sao để tìm
sông Ngân Hà và con vịt theo sau ông Thần Nông. Vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm

hồn hai đứa trẻ đầy bí mật, xa lạ và làm mỏi trí nghĩ, nên chỉ một lát hai chị em lại cúi về
mặt đất, về quãng sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng chị
Tý”.
Với việc xây dựng một không gian như vậy là nhà văn đã đưa lại cho chúng ta
những ký ức về một không gian tươi sáng nơi Hà Thành đã ám ảnh, lùi sâu vào vô thức
bọn trẻ, khiến đôi mắt buồn trũng muốn yên giấc nhưng vẫn không sao dập tắt cái khao
khát được chứng kiến con tàu đêm của An. Bởi lẽ chỉ có chứng kiến con tàu đêm, với ánh
sáng điện mới khỏa lấp những mong muốn đang trỗi dậy trong sâu thẳm tâm trí An và nó
đòi hỏi phải được giải tỏa. Vì vậy mặc dù rơi vào trạng thái nửa tỉnh nửa mơ nhưng An
vẫn cố mở to đôi mắt trước khi chìm sâu vào vô thức của giấc mộng mà với dặn Liên: “
Tàu đến chị đánh thức em dạy nhé”. Không gian tâm tưởng trong truyện được Thạch
Lam đặt cạnh không gian thực tại, gợi cảm giác hoài cổ về một nơi trong dĩ vãng .
Ngoài ra trong tác phẩm có một không gian đặc biệt nữa xuất hiện nữa là không
gian bóng tối, không gian bóng tối có một giá trị rất lớn trong việc tạo ấn tượng cho
người đọc. Hình ảnh cuộc sống và con người cứ chìm dần, khuất hẳn trong bóng tối. Nó
gợi sự xót xa và thương cảm của người đọc dành cho những con người, những cuộc đời,
những không gian như thế. Bóng tối càng dày đặc, cảnh sống của con người càng thê
lương theo cấp số cộng của cảnh đó thì lòng nhân đạo của nhà văn nhìn từ cảnh và người
ấy cũng theo cấp số nhân mà phát triển lên. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng ta cũng bắt gặp
không gian của ánh sáng. Bảy lần nhà văn nhắc đến ánh sáng của các ngọn đèn “ Các
nhà đã lên đèn cả rồi, đèn treo trong nhà bác phở Mĩ, đèn hoa kì leo lét trong nhà ông
Cửu, và đèn dây sáng xanh trong hiệu khách.” Nhưng ở đây không phải là ánh sáng xua
tan đi bóng tối, mà đó là ánh sáng lẻ loi, đơn độc. Ánh sáng xuất hiện với mục đích là để


làm nền cho bóng tối, làm cho bóng tối xuất hiện càng dày đặc hơn, bao trùm cả đất trời.
Điều này càng giúp cho người đọc hình dung, cảm nhận được số phận đáng thương của
người dân trong phố nghèo khổ, bế tắc, không có tương lai., càng giúp ta thấy được tấm
lòng nhân đạo của nhà văn đối với cuộc sống bất hạnh của con người.
* Thời gian nghệ thuật

Thời gian trong truyện ngắn Hai đứa trẻ là một cảnh chiều tàn nơi phố huyện
nghèo trôi đi rất chậm chạp, báo hiệu cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu của những con người
nơi đây. Cấu trúc không gian lồng vào thời gian, dùng không gian để đo thời gian là một
trong những thành công nghệ thuật đặc sắc của Thạch Lam, thể hiện tài năng của tác giả
trong việc cảm nhận tinh tế từng bước chuyển của thời gian trong tác phẩm. Có thể dễ
dàng nhận thấy nhịp điệu thời gian trong tác phẩm diễn ra khá chậm: tác giả đã sử dụng
thời gian văn bản trải dài trong 10 trang giấy để nói về thời gian cốt truyện trong mấy
tiếng đồng hồ (khoảng 6, 7 giờ). Thời gian trong Hai đứa trẻ được đo và cảm nhận bằng
rất nhiều phương tiện khác nhau cả âm thanh, hình ảnh, không gian. Ngay câu mở đầu tác
phẩm thời gian buổi chiều tàn đã được cảm nhận bằng âm thanh của tiếng trống thu
không “Tiếng trống thu không trên cái chợ của huyện nhỏ; từng tiếng một vang xa để gọi
buổi chiều”. Vậy là thời gian được đánh dấu bởi âm thanh của tiếng trống thu không
“gọi” buổi chiều về. Và bước chuyển từ buổi chiều tà đến lúc chập choạng tối được báo
hiệu bằng âm thanh quen thuộc của tiếng côn trùng kêu nơi phố huyện nghèo “văng vẳng
tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng”, tiếng vo ve của muỗi trước thời khắc của ngày tàn.
Thời khắc đó cũng được đo bằng những hình ảnh của “những đám mây ánh hồng như
hòn than sắp tàn”, và được lồng vào không gian “ phương tây đỏ rực như lửa cháy”,
“Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời”. Thời gian từ lúc hoàng
hôn đến lúc sẩm tối và đêm khuya được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, xuất hiện xuyên suốt
toàn bộ tác phẩm và được thể hiện nhiều nhất qua hình ảnh của ánh sáng và bóng tối.
Thạch Lam đã khéo léo sử dụng hình ảnh ánh sáng phát ra từ những ánh đèn leo lét nơi
phố huyện trong nhà bác phở Mĩ, đèn dây sáng xanh trong các hiệu khách, đèn từ gánh
hàng của mẹ con chị Tí… làm phương tiện để thông báo thời gian. Đối lập với ánh sáng


là hình ảnh đêm tối giăng khắp toàn bộ tác phẩm. Chính hình ảnh bóng tối cũng được coi
là một công cụ hữu dụng được nhà văn sử dụng khéo léo trong việc thể hiện thời gian
trong tác phẩm. Như vậy có thể nhận thấy rằng thời gian cốt truyện của Hai đứa trẻ chỉ
diễn ra trong vòng mấy tiếng đồng hồ từ lúc chiều tà đến khoảng 9 giờ tối nhưng Thạch
Lam đã rất có ý thức trong việc sử dụng rất nhiều các phương tiện khác nhau để thể hiện

khoảng thời gian ngắn đó. Thời gian nơi phố huyện nghèo dường như ngưng đọng vì sự
trôi đi hết sức chậm chạp của những âm thanh nơi vùng quê nghèo, âm thanh của tiếng
trống thu không gọi buổi chiều về, âm thanh xao xác xa xôi của cảnh chợ tàn… tất cả
những thứ đó khiến ta cảm nhận thời gian trong tác phẩm giống như một sinh thể già cỗi,
đánh giấu sự tàn lụi, già nua. Khi mặt trời sắp tắt, đó là cái giờ khắc của ngày tàn. Khi
chợ vãn, tức là lúc sự hoạt động của con người đã hết, cũng là khi đêm đã khuya. Ngay
trong thế giới con người, âm thanh cũng ít ỏi chẳng kém gì. Khi chợ vãn thì những tiếng
ồn ào cũng mất theo bước chân của con người. Lúc trời nhá nhem tối, tiếng ồn ào nơi chợ
búa cũng mất. Người ta trao đổi với nhau, nhưng có lời ma không có tiếng. Có chăng là
tiếng cười khanh khách của bà cụ Thi, một bà già hơi điên. Cảnh đêm nơi phố huyện tái
hiện chân thực bức tranh cuộc sống nghèo nàn, đơn điệu, tẻ nhạt của những con người
nơi đây. Bên cạnh đó, khoảng thời gian của ngày tàn cũng được thể hiện rõ nét qua không
gian ngập tràn bóng tối. Trong cái không gian chứa đầy bóng tối ấy, sự hiện diện của ánh
sáng càng làm bóng tối sẫm đen hơn và cuộc sống con người càng trở lên đơn điệu, tẻ
nhạt.
* Thi pháp ngôn ngữ
Hai đứa trẻ được ví như một bài thơ trữ tình đầy xót thương. Chất thơ ấy được bay
lên từ một cuộc sống còn lầm than cơ cực của những kiếp người bé nhỏ vô danh trong xã
hội cũ (họ sống lầm lũi giống như những cái bóng vật vờ trong không gian phủ đầy bóng
tối nơi phố huyện ). Đặc biệt chất thơ ấy còn được toát lên từ chính những câu văn, giọng
điệu văn mà tác giả sử dụng. Không chỉ dừng lại ở đó, có thể nhận thấy chính cái cấu tứ
của truyện cũng làm nó giống với một bài thơ giàu chất trữ tình. Truyện có kết cấu vòng
tròn xoay quanh hình ảnh bóng tối được lặp đi lặp lại nhiều lần xuyên suốt toàn bộ văn


bản và được miêu tả từ nhiều góc độ khác nhau, nhiều thời điểm khác nhau với những
cách diễn đạt khác nhau: “buổi chiều hòn than sắp tàn”, “mặt đen lại”, “chiều, chiều
rồi”, “bóng tối ngập đầy”, “bước của buổi chiều”, “ngày tàn”.
"Hai đứa trẻ" có bao chi tiết nghệ thuật giàu sức gợi sâu xa. Thạch Lam tả cảnh, tả
người hay kể chuyện đều chọn lọc, tạo nên ấn tượng, nhiều xao xác và bâng khuâng.

Cảnh phố huyện tối dần, ngoài đồng thì ếch nhái kêu ran; trong nhà thì tiếng muỗi vo ve.
Liên ngồi yên lặng, đôi mắt bóng tối ngập đầy dần, tâm hồn ngây thơ thấm thía cái buồn
của buổi chiều quê. Bà cụ Thi hơi điên, nghiện rượu, tiếng cười "khanh khách". Tiếng
đàn bầu của bác xẩm thì "bần bật". Mẹ con chị Tí bán nước chè. Thằng cu "khiêng hai
cái ghế trên lưng"; mẹ nó "đội cái chõng trên đầu"... Thật là vất vả, cực nhọc và nghèo
khổ. Những chi tiết ấy rất sống, rất hiện thực. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thuộc khuynh
hướng lãng mạn. Nhưng truyện của Thạch Lam, đặc biệt truyện "Hai đứa trẻ" thì nội
dung hiện thực - nhân đạo hòa quyện đầy ám ảnh và lay động.
Một nét đặc sắc nghệ thuật của Thạch Lam là tinh tế và sâu sắc trong phân tích thế
giới nội tâm nhân vật, gợi tả xúc động những biến thái mơ hồ, mong manh trong lòng
người. Những dòng viết về tâm trạng của nhân vật Liên với bao buồn vui lẫn lộn, nhiều
xao xác bâng khuâng. Trời tối dần, Liên ngồi nhìn phố huyện, không hiểu sao "chị thấy
lòng buồn man mác". Ngồi đợi tàu trong màn đêm, dưới ngàn sao lấp lánh, và ánh sáng
của những con đom đóm nhấp nháy, tâm hồn Liên "yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ
hồ không hiểu".Tàu đến, Liên vội đánh thức em dậy, hai chị em nhìn đoàn xe vút qua,
nhìn theo cái chấm nhỏ đèn xanh, xa mãi dần khuất sau rặng tre. Liên cầm tay em, "lặng
theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo". Liên nhớ lại kí
ức tuổi thơ và ước vọng. Rồi Liên chìm dần trong giác ngủ yên tĩnh của phố huyện về
khuya "tịch mịch và đầy bóng tối".
Truyện "Hai đứa trẻ" có một giọng điệu rất riêng, giọng điệu tâm tình thủ thỉ. Đó
là tiếng nói của một con người, như Nguyễn Tuân nhận xét là "tính tình nhẹ nhàng tinh
tế", "vừa sống vừa lắng nghe chung quanh..." với bao chuyện buồn vui đang xẩy ra. Cái
dây xà tích bằng bạc của Liên, Thạch Lam đã phát hiện ra thứ vật dụng mà "chị quý mến


và hãnh diện" vì nó tỏ ra chị là người con gái "lớn và đảm đang". Phở bác Siêu là một
thứ quà "xa xỉ, nhiều tiền" mà hai chị em Liên không bao giờ mua được, vì thế hai chị em
chỉ biết "ngửi thấy mùi phở thơm". Liên nhớ về Hà Nội là nhớ những kỉ niệm tuổi thơ,
ngày bố còn đi làm, mẹ nhiều tiền, hai chị em được đi chơi bờ Hồ, được uống những cốc
nước lạnh xanh đỏ. Phải chăng đó cũng là kí ức tuổi thơ êm đềm của Thạch Lam?

Thạch Lam sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật tương phản đối lập để làm nổi
bật những cảnh đời lầm than nơi phố huyện. Phố huyện ngập đầy bóng tối. Chỉ có vài
ngọn đèn le lói. Riêng ngọn đèn nơi chõng hàng chị Tí được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Càng về khuya, phố huyện càng im lìm, tịch mịch. Đêm nào cũng có một chuyến tàu
chạy qua phố huyện. Dù chỉ trong khoảnh khắc, nhưng con tàu đã mang đến một thế giới
đầy ánh sáng và náo động. Làn khói bừng sáng. Các toa đèn sáng trưng. Đồng và kền lấp
lánh. Các cửa kính sáng. Đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Tiếng xe rít. Tiếng hành
khách ồn ào, khe khẽ. Tiếng còi tàu rít lên. Đoàn tàu rầm rộ đi tới và vút qua... ánh sáng
và bóng tối, ồn ào náo động và tịch mịch, tương phản ấy, đối lập ấy đã làm nổi bật những
cảnh ngộ nghịch trái, đồng thời đi sâu vào những tâm tình, tâm trạng, những cảm xúc,
cảm giác đầy ám ảnh.
Một nét đặc sắc nữa về nghệ thuật của Thạch Lam là câu văn dưới ngòi bút của
ông thanh nhẹ, trong sáng, giàu hình ảnh và gợi cảm. Ví dụ, cảnh phố huyện lúc chiều
tàn: "Phương tây đỏ rực như lửa cháy (...). Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru,
văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào...". Đây là cảnh
đầu đêm nơi phố huyện: "Trời đã bắt đầu đêm, một mùa hạ êm như nhung và thoảng qua
gió mát. Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối...". Nói về câu văn Thạch
Lam, Nguyễn Tuân, nhận xét: "Bằng sáng tác văn học, Thạch Lam đã làm cho tiếng nói
Việt Nam gọn ghẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại ra, và tươi đậm hơn"
Tổng kết
Thạch Lam được đánh giá là một trong những ngôi sao tỏa sáng nhất trên bầu trời
văn học Việt Nam trước Cách Mạng Tháng Tám, mỗi tác phẩm của ông là sự kết tinh
toàn vẹn giữa tài năng nghệ thuật và bút pháp trữ tình. Truyện của Thạch Lam không có


cốt truyện đặc biệt, giọng điệu và ngôn ngữ nhiều chất trữ tình: Mỗi truyện ngắn của
Thạch Lam có cấu tứ và giọng điệu như một bài thơ trữ tình, gợi sự thương xót trước số
phận của những con người nhỏ bé bất hạnh. Một giọng văn bình dị mà tinh tế, mềm mại,
uyển chuyển, giàu hình ảnh, nhạc điệu. Truyện ngắn Hai đứa trẻ cũng là một trường hợp
như thế.

Thay lời kết luận, Văn học là một dòng sông, nhà văn là con thuyền trên dòng
sông ấy. Nước chảy thuyền trôi. Con thuyền đi qua mọi bến bờ của thời gian, không gian
và ở một nơi xa nào đó trên một bờ vắng đầy cỏ dại, nó đã cập bến mang theo những
khuông hàng chất nặng suy tư. Để rồi mỗi khuông hàng ấy được trao đến tay độc giả
những bài học, những cảm thức và những suy nghiệm mà nhà văn lưu giữ nó suốt chặng
đường lênh đênh sóng nước. Thạch Lam đã đem sản phẩm tinh thần của mình vượt quá
khứ xa xăm, băng qua mọi rào cản xã hội để đến với con người mới thế kỷ XXI, hòa điệu
trong những khoảnh khắc đồng hiện của cảm xúc .Và rồi bước ra khỏi thế giới ấy, con
người không khỏi ngỡ ngàng ngoái nhìn lại bản thân và hô to lên một tiếng như để tán
thưởng cho giây phút thăng hoa



×