Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN NGẮN HAI ĐỨA TRẺ CỦA THẠCH LAM” VĂN MẪU SỐ 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.26 KB, 21 trang )

VĂN MẪU 11: HAI ĐỨA TRẺ - THẠCH LAM
6 BÀI VĂN MẪU “PHÂN TÍCH NHỮNG ĐẶC SẮC NGHỆ THUẬT
TRONG TRUYỆN NGẮN HAI ĐỨA TRẺ CỦA THẠCH LAM”

VĂN MẪU SỐ 1:

Mỗi lần đọc Thạch Lam trong trí tôi lại hiện lên hình ảnh cánh cổng gỗ của khu
vườn êm ả được miêu tả trong truyện Dưới bóng hoàng lan. Phía ngoài cánh cổng là một
thế giới ồn ào, phồn tạp, nắng nôi, nhưng bên trong là bầu không khí mát rười rượi
thoảng mùi hương thật thích hợp cho tâm trạng suy tư và cảm nhận, lắng nghe những
điều tế nhị của sự sống.
Văn Thạch Lam cũng như khu vườn bên trong cánh cổng ấy, ít sự kiện, hành động
nhưng đầy ắp những bâng khuâng. Nó cho ta cơ hội hiểu thấu sâu xa những cuộc đời giản
dị, qua sự chiêm nghiệm lặng lẽ. “Hai đứa trẻ” là truyện ngắn rất Thạch Lam. Chất liệu
của nó vẫn là cuộc sống tù đọng, mòn mỏi nơi những phố huyện nghèo nàn xơ xác.
Nhưng từ thứ chất liệu rất “văn xuôi” đó, nhà văn đã đưa lại cho chúng ta những trang
viết hết sức thi vị, không có gì chung với sự thi vị hoá cuộc sống một cách tầm thường.
Thi vị ( hay chất thơ) của tác phẩm gắn liền với dụng công của nhà văn muốn khêu gợi trí
tưởng tượng nơi người đọc và đánh động khả năng cảm nhận của các giác quan bằng lối
hành văn hoặc cách tổ chức lời văn khá riêng biệt. Đây chính là chiều sâu của một nghịch
lý tưởng chừng khó giải thích: viết về các sự vật, sự việc tầm thường, đơn điệu mà văn
vẫn lôi cuốn đến thế. Điều này phá vỡ một ngộ nhận (chí ít là của người đọc) về tính
quyết định của vật liệu. Thực ra nghệ thuật chính là một sự chế ngự vật liệu, vật liệu
thông qua những phương thức, phương tiện diễn tả đặc thù.
Câu văn của Thạch Lam tả rất sát sự thật, sự việc. Nhưng điều đó không có nghĩa
ở đây chỉ có sự khớp đúng đến nghẹt thở. Tiết điệu buông chùng của câu mở đầu thiên


truyện chứng tỏ điều đó : ” Tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ; từng
tiếng một vang xa để gọi buổi chiều”. Cái lõi ngữ pháp của câu chỉ được nhận ra ở vế sau,
nhưng sự cảm nhận của người đọc đã thực sự được khởi hành từ trước cùng cụm danh từ


được đảo lên trên. Trong câu này cái đáng chú ý còn có từ “gọi”. Nó xác lập một tương
quan mới (dù vô hình) giữa các sự vật mà từ báo hiệu chẳng hạn không nói lên được. Dĩ
nhiên câu văn vừa nêu không chỉ Thạch Lam mới viết nổi. Nhưng điều quan trọng là nó
xuất hiện có quy luật chứ không ngẫu nhiên, nhằm nhấn mạnh một điều gì khác hơn
những sự kiện nổi trên bề mặt. Xin chú ý thêm hai câu văn khác đứng kề nhau: ” Chiều,
chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng
theo gió nhẹ đưa vào”. Trong câu đầu dường như thừa một chữ “chiều”, xét theo góc độ
thông tin bình thường. Nhưng thực ra ở đây còn có thông tin về tâm trạng mà riêng hai
chữ “chiều rồi” chưa truyền tải được (do thiếu vắng nhịp điệu). Mặt khác, nếu không có
chữ chiều ” thừa ra” ấy, sự buông lơi êm đềm của câu sau sẽ ít có hiệu quả. Tính chất
thừa tiếp hô ứng của mạch văn cũng thiếu trọn vẹn. Rõ ràng đọc giả đang bị dẫn dắt bởi
văn chứ không phải cái gì khác.
Suốt truyện ngắn , nhà văn nhiều lần nhấn mạnh sự “ngây thơ” của hai nhân vật
chị em qua các nhận xét như: “Liên không hiểu sao…”, “Liên tưởng là…”, “tâm hồn
Liên… có những cảm giác mơ hồ không hiểu”, “vũ trụ thăm thẳm bao la đối với tâm hồn
hai đứa trẻ như đầy bí mật và xa lạ…”,”Liên thấy mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi
không biết…”. Rất có thể nhân vật của truyện “không biết”, không hiểu thật, nhưng điều
đáng nói là tác giả đã mượn chính tâm trạng nhân vật để ám thị người đọc. Các phủ định
từ “không” đã “bẫy” họ sa vào một không khí bất định, mông lung. Độc giả cứ ngỡ mình
đang cùng nhà văn theo dõi nhân vật, nhưng thật sự họ đã bị lây nhiễm chính cảm giác
của nhân vật và không thôi thao thức. Càng cố gắng hiểu những điều nhân vật “không
hiểu” để phân biệt với nó, anh ta càng rơi sâu vào không khí của truyện đến nỗi mất cả
đường ra, trong khi tác giả vẫn không ngừng tả, kể để trói anh ta chặt hơn vào câu chuyện
mà ông “bịa” ra.


Truyện tuy rất ít hành động nhưng vẫn thấp thoáng những lời đối thoại. Chúng
được phân bố rất đều trong tác phẩm và xuất hiện giữa những đoạn miêu tả cảnh vật –
một khung cảnh lặng lẽ, êm đềm, có phần hiu hắt, buồn bã. Chính không khí ấy quy định
sắc điệu của lời đối thoại, trong khi bản thân lời đối thoại cũng mang tính chất lơ lửng,

không gây nên sự đột biến nào của mạch truyện. Những câu hỏi nêu ra có thể trả lời cũng
được mà không cũng được. Nó không nhằm mục đích tìm biết mà chỉ chờ đợi một sự phụ
hoạ, xác nhận điều người nói nghĩ và thậm chí cả sự hiện tồn mờ nhạt của họ nữa:
- Em thắp đèn lên chị Liên nhé !
- Cái chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ?
- Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế ?
- Còn cô chưa dọn hàng à?
- Có phải buổi trưa em bán cho bà Lực hai bánh xà phòng không ?
- A, cô bé làm gì thế ?
- Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ ?
- Tàu hôm nay không đông, chị nhỉ ?
Trước những câu hỏi ấy người đối thoại thường là “mãi rồi mới chép
miệng trả lời”, ngẫm nghĩ rồi đáp hoặc có đáp cũng “đáp vẩn vơ”, thậm chí “không
đáp”, “không cần ngoảnh mặt ra”. Một số người khi muốn chứng minh luận điểm nói
rằng cảnh đời được miêu tả trong truyện thật nghèo nàn buồn tẻ, đã viện đến các chi tiết
như đám trẻ con nhặt nhạnh những thứ rơi vãi trên nền chợ, chị Tý dọn hàng đến khuya
mà không bán được bao nhiêu, hai chị em Liên xem phở bác Siêu như một thứ quà xa xỉ,
một người mua hàng đến nửa bánh xà phòng cũng phải mua chịu… Thật ra cần chú ý hơn
đến những mấu đối thoại rời rạc đã nói ở trên. Dụng công của Thạch Lam cũng như hồn
văn của truyện chính toát lên từ đấy. Nó đưa tới cho người đọc không phải chuyện này
chuyện nọ mà là một ấn tuợng buồn nản, xót thương, thậm chí bực bội trước các câu hỏi
tủn mủn , bâng quơ, không cần thiết phải trả lời và những lời đáp quá chừng nhạt nhẽo,


phẳng lặng. Những ấn tưọng đó khó gây dựng hơn nhiều so với các nhận xét kết luận
“đóng bao”sẵn thường thấy ở nhiều truyện thừa giọng giáo huấn mà thiếu tính nghệ
thuật.
Trong truyện cũng vài lần nổi lên tiếng reo chứa đựng niềm hân hoan mong đợi:
- Kìa, hàng phở của bác Siêu đã đến kia rồi.
- Đèn ghi đã ra kia rồi.

Nhưng những tiếng reo đó đã nhanh chóng phô ra tính chất tội nghiệp của chúng,
niềm vui mới nhóm lên đã bị triệt tiêu bởi lời kể nhẩn nha vô tình mà thật “ác nghiệt” : ”
An và Liên ngửi thấy mùi phở thơm, nhưng ở cái huyện nhỏ này, quà bác Siêu bán là một
thứ quà xa xỉ, nhiều tiền , hai chị em không bao giờ mua được ” và “chuyến tàu hôm nay
không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn”. Đúng là mong
đợi chỉ để mà mong đợi, reo lên chỉ để rồi buồn tiếc và thất vọng hơn. Cảm giác thất
vọng của nhân vật chắc chắn là sâu sắc. Nhưng đâu chỉ nhân vật, độc giả cũng thất vọng
không kém. Bị trói chặt bởi nhịp cầu lê thê của câu chuyện, họ đã chờ đợi bao nhiêu ở
những tiếng reo kia. Thật ra, niềm thất vọng này chính là hiệu quả nghệ thuật của truyện.
Sau sự hụt hẫng này, độc giả sẽ vỡ ra những ý nghĩa của đời sống mà truyện muốn hướng
tới. Nghệ thuật không phải là nói thẳng mà nói vòng, còn độc giả thì có được cảm giác
thật như người trong truyện. Cùng với nhân vật, họ tự nghiệm sinh các giá trị của đời.
Hình ảnh thiên nhiên trong truyện đã gây cho người đọc những ấn tượng sâu đậm.
Sự êm ả đượm buồn mà ta nhận thấy một phần là của thiên nhiên với tư cách là chất liệu,
vật liệu, một phần là của văn. Những bức tranh nho nhỏ được gài xen kẽ với nhũng mẫu
đối thoại rời rạc, không hoàn chỉnh. Chúng lấp đầy những khoảng trống của lời nói và
cầm giữ nhịp điệu của thiên truyện. Giả sử tác giả viết khác đi, dồn hẳn những đoạn miêu
tả thiên nhiên về một phía, và phía kia là hình ảnh sinh hoạt của con người, hẳn giọng
điệu điều hoà của truyện sẽ biến mất và chủ đề của truyện sẽ khác đi. Ở đây thiên nhiên
không thu hút toàn bộ thần trí con người để họ mê man trong đó. Nó gần gũi, vỗ về, khơi
gợi những cảm xúc dịu dàng và bâng khuâng. Nó trổi lên đánh lạc hướng tâm trạng buồn


chán của nhân vật ( và của độc giả) thông qua mùi âm ẩm của đất bụi, vẻ lung lay của
bóng đèn, bóng người, ánh nhấp nháy của ngàn sao và đom đóm, tiếng động mơ hồ, khe
khẽ của loạt hoa bàng rụng xuống vai…Tuy nhiên, việc đánh lạc hướng kia chỉ diễn ra
từng lúc một, và nhân vật của truyện lại trở về với thực tại túng thiếu, lam lũ, để tiếp đó
rơi vào trạng thái chập chờn nửa mơ , nửa thức, khắc khoải chờ mong, hi vọng ( dẫu
chẳng biết hi vọng ở cái gì. Truyện sở dĩ không rơi vào nhàm tẻ dù đối tượng hàm chứa
sự tẻ nhàm, chính một phần nhờ lối tả, kể xen kẽ, chắp nối đó.

Hai đứa trẻ là truyện ngắn giàu tính nghệ thuật. Tác giả đã rất ung dung, thoải mái
khi xử lí chất liệu hiện thực. Tất cả chất liệu đã được tổ chức lại nhằm khơi dậy ở người
đọc những cảm xúc nghệ thuật thuần khiết . Nhà văn đưa họ vào thế giới của ông, thôi
miên họ, sau đó tự để họ ngẫm nghiệm và rút ra những bài học cần thiết. Ở trên có nhắc
tới “khu vườn Thạch Lam”. Thực ra “khu vườn”ấy không chỉ có nghĩa là đề tài. Đó là
“khu vườn” của nghệ thuật – một nghệ thuật biết vượt thoát khỏi sự trói buộc của đề tài
để làm vang dậy tiếng nói riêng của nhà văn.


VĂN MẪU SỐ 2:

Nếu đọc truyện Tắt đèn của Ngô Tất Tố ta cảm nhận được sự cay đắng nghiệt ngã
của số phận chị Dậu thì đến với truyện ngắn hai đứa trẻ của Thạch Lam vẫn là hiện thực
đấy nhưng chúng ta cảm nhận được sự thi vị của cuộc sống này. Văn Thạch Lam khác so
với những nhà văn hiện thực khác. Không hề dữ dội và phong ba bão táp mà chỉ là sự nhẹ
nhàng nhưng mang lại những bâng khuâng trầm lắng trong lòng người đọc. Hai đứa trẻ là
một minh chứng điển hình cho phong cách văn chương Thạch Lam. Có lẽ thế nên tính
nghệ thuật được thể hiện rất rõ trong tác phẩm này.
Hai đứa trẻ là một tác phẩm văn xuôi thế nhưng lại mang đậm chất thơ. Đó chính
là sự khác biệt của tác phẩm này và nhà văn Thạch Lam so với tác phẩm và nhà văn khác.
Tính nghệ thuật trong tác phẩm này là sự thi vị của thơ ca trên nền chất liệu là văn xuôi.
Thứ nhất là về cách thức tổ chức những câu văn trong bài. Những câu văn trong
tác phẩm hai đứa trẻ là được tổ chức sắp xếp tương đối linh hoạt mềm mại nhẹ nhàng như
những vần thơ. Hẳn trong chúng ta khi đọc tác phẩm này rồi đều không quên được những
câu văn mở đầu như mang lại sự thầm nhuần không khí của bức họa đồng quê cảnh chiều
tàn: “Phương tây đỏ rực như lửa cháy và những đám mây ánh hồng như hòn than sắp
tàn. Dãy tre làng trước mặt đen lại và cắt hình rơ rệt trên nền trời. Chiều, chiều rồi. Một
chiều êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa
vào. Trong cửa hàng hơi tối, muỗi đã bắt đầu vo ve”. Hay khi đêm mùa hạ êm về êm như
nhung và thoảng qua gió mát.

Đến với những câu văn nhiều sức gợi như thế lòng ta như thấm nhuần những
nghèo khổ của phố huyện nghèo nơi này. Nhưng chính sự nghèo khổ ấy lại làm nên
những suy ngẫm về cuộc đời con người. Ở đây ta thấy câu văn của Thạch Lam vẫn rất sát
thực thế nhưng những câu văn như có nhịp điệu khiến cho nó giống như những câu thơ
dài miên man. Những câu văn ấy đọc lên khiến cho người ta trải lòng mình cùng nhịp
điệu chính vì thế mà cái tình ở đây sẽ được người đọc cảm nhận một cách dễ dàng.


Thứ hai,chất liệu hiện thực ở đây là phố huyện nghèo. Rõ là một phố huyện xơ xác
tiêu điều vậy mà nhà văn cho ta thấy điều đó thông qua những hình ảnh bình thường nhẹ
nhàng nhưng lại mang đến sự suy ngẫm. Sức gợi của hình ảnh phố huyện nghèo không
nhấn mạnh vào cảm nhận khổ cực của các nhân vật nơi đây mà chỉ để thông qua đó ta
thấy được cuộc sống tù túng nghèo nàn của họ. Có thể nói tất cả những gì trong truyện
ngắn của thạch Lam đều rất nhẹ nhàng. Những hình ảnh của phố huyện như cảnh buổi
chiều về với tiếng trống thu không trên cái chòi huyện nhỏ văng từng tiếng một ra để gọi
buổi chiều, hình ảnh dãy tre làng cắt trên nền trời, rồi hình ảnh cảnh chợ tàn xơ xác, đêm
tối chẳng chịt như màn đêm không đáy và những con người sống lay lắt nơi bùn lầy nước
đọc ấy. Thế nhưng tất cả những thứ ấy hiện lên bằng sự nhẹ nhàng thi vị giống như cách
nói lên mùi đất quê hương của phố huyện. Đó là một mùi âm ẩm bốc lên chỉ có phố
huyện nghèo này mới có. Chính vì thế mà chúng ta thấy được Thạch Lam không dùng
những từ cay nghiệt nhất để bày tỏ sự xót thương cho số phận của những người nghèo
khổ nơi phố huyện này mà chỉ bằng những hình ảnh xác thực mà nhẹ nhàng.
Thứ ba là những mẩu đối thoại trong truyện. Nhà văn không đi vào xây dựng
những đoạn đối thoại có kịch tính hay hấp dẫn li kì mà những chỉ xây dựng những mẩu
đối thoại. Nó chưa thể coi là đoạn vì dung lượng rất ít. Trong tác phẩm ta thấy bắt gặp
những câu hỏi như:
– Em thắp đèn lên chị Liên nhé !
– Cái chõng này sắp gãy rồi chị nhỉ?
– Sao hôm nay chị dọn hàng muộn thế ?
– Còn cô chưa dọn hàng à?

– Có phải buổi trưa em bán cho bà Lực hai bánh xà phòng không ?
– A, cô bé làm gì thế ?
– Giờ muộn thế này mà họ chưa ra nhỉ ?
– Tàu hôm nay không đông, chị nhỉ ?


Tắt cả những câu hỏi ấy được đáp lại một cách rời rạc hoặc là không đáp. Thật ra
thì dụng ý của Thạch lam không phải khiến cho bạn đọc hấp dẫn bởi sự kịch tính của câu
chuyện này hay câu chuyện khác mà chỉ là thấy được sự chán nản xót xa, buồn chán
trong những nhân vật mà thôi. Chính điều đó còn khó xây dựng hơn là những tác phẩm
xây dựng đối thoại kịch tính hấp dẫn. Bởi không phải ai cũng làm được những đối thoại
tủn mụn ít ỏi nhẹ nhàng vẩn vơ mà lại có thể hấp dẫn người đọc như Thạch Lam. Hay
trong truyện có nhiều khi thấy được sự reo hò của nhân vật khi thấy gánh phở bác Siêu,
chiếc đèn ghi sáng của đoàn tàu thế nhưng những tiếng reo hò ấy cũng nhanh chóng bị tắt
bật đi. Điều đo cho ta thấy sự tôi nghiệp của chúng.
Thứ tư, hình ảnh thiên nhiên đã để lại cho chúng ta những ấn tượng khó phai về
phố huyện nghèo. Tác giả cố tình chọn cảnh chiều tàn chợ tàn và đêm tối để làm nổi bật
cuộc sống nghèo nàn nơi đây. Chiều tàn đẹp như một bức họa đồng quê với màu đỏ của
ánh mặt trời đang xuống núi phía tây,màu đen của hình những rặng tre làng…nhưng lại
đượm buồn. Cái buồn ấy thể hiện qua màu sắc và qua âm thanh của những tiếng trống thu
không văng ra gọi buổi chiều hay tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng. Một nỗi buồn phảng
phất sẽ được cảm nhận thấy khi ở đây.
Như vậy qua đây ta có thể khẳng định Hai đứa trẻ quả là một tác phẩm giàu tính
nghệ thuật. Hiện thực cuộc sống tù túng chật hẹp lay lắt của con người sống nơi phố
huyện ấy nhưng lại trở nên thi vị đượm buồn. Đó là tính lãng mạn của hai đứa trẻ. Và có
lẽ đây cũng chính là sự khắc phục hạn chế văn học hiện thực của Thạch Lam.


VĂN MẪU SỐ 3:


Thạch Lam (1910 - 1942) là thành viên của "Tự lực văn đoàn". Ông thành công về
truyện ngắn và bút kí qua các tác phẩm như: Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Hà Nội 36
phố phường... Tác phẩm của Thạch Lam có "cốt cách và phẩm chất văn học", để lại "cái
dư vị và cái nhã thú" cho người đọc. Đó là chữ nghĩa của Nguyễn Tuân trong Lời bạt cho
Tuyển tập Thạch Lam. Truyện ngắn Hai đứa trẻ in trong tập Nắng trong vườn (1938).
Truyện ngắn này có những nét đặc sắc nghệ thuật tiêu biểu cho phong cách của Thạch
Lam.
Có thể nói rằng những truyện ngắn: Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ và Dưới bóng
hoàng lan là những truyện ngắn không có cốt truyện, mỗi truyện là một bài thơ trữ tình
đượm buồn. Gió lạnh đầu mùa nói về chuyện cho áo và trả áo, cho vay tiền để mua áo ấm
giữa ba đứa trẻ và hai người mẹ. Dưới bóng hoàng lan có bốn nhân vật: hai bà cháu, cô
thôn nữ Nga và cây hoàng lan. Mái nhà xưa và bóng bà che mát tâm hồn đứa cháu;
hương thơm và bóng hoàng lan ướp hương và ủ ấp cho một mối tình êm đẹp dịu ngọt
chăng tơ... Còn truyện Hai đứa trẻ nói về một phố huyện nghèo và tâm trạng thao thức
của hai chị em Liên và An khắc khoái đợi chờ một chuyến tàu đêm đi qua. Hình ảnh đoàn
tàu và tiếng còi tàu đã trở thành một thói quen của cảm xúc và ước vọng. Tuy không có
cốt truyện, nhưng Hai đứa trẻ có một hương vị thật là man mác. Đó là chất thơ.
Hai đứa trẻ có bao chi tiết nghệ thuật giàu sức gợi sâu xa Thạch Lam tả cảnh, tả
người hay kể chuyện đều chọn lọc, tạo nên ấn tượng, nhiều xao xác và bâng khuâng.
Cảnh phố huyện tối dần, ngoài đồng thì ếch nhái kêu ran; trong nhà thì tiếng muỗi vo ve.
Liên ngồi yên lặng, đôi mắt bóng tối ngập đầy dần, tâm hồn thơ ngây thấm thía cái buồn
của buổi chiều quê. Bà cụ Thi hơi điên, nghiện rượu, tiếng cười khanh khách. Tiếng đàn
bầu của bác Xẩm thì bẩn bật. Mẹ con chị Tí bán nước chè. Thằng khiêng hai cái ghế trên
lưng; mẹ nó đội cái chõng tre trên đầu... Thật là vất vả, cực nhọc và nghèo khổ. Những
chi tiết ấy rất sống, rất hiện thực.


Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn thuộc khuynh hướng lãng mạn. Nhưng truyện của
Thạch Lam, đặc biệt là truyện Hai đứa trẻ, thì nội dung hiện thực - nhân đạo hòa quyện
đầy ám ảnh và lay động. Một nét đặc sắc trong nghệ thuật của Thạch Lam là tinh tế và

sâu sắc trong phân tích thế giới nội tâm nhân vật, gợi tả xúc động những biến thái mơ hồ,
mong manh trong lòng người. Những dòng viết về tâm trạng của nhân vật Liên với bao
buồn vui lẫn lộn, nhiều xao xác bâng khuâng. Trời tối dần, Liên ngồi nhìn phố huyện,
không hiểu sao chị thấy lòng buồn man mác. Ngồi đợi tàu trong màn đêm, dưới ngàn sao
lấp lánh, và ánh sáng của những con đom đóm nhấp nháy, tâm hôn Liên yên tĩnh hắn, có
những cảm giác mơ không hiểu.
Tàu đến, Liên vội đánh thức em dậy, hai chị em nhìn đoàn xe vút qua, nhìn theo
cái chấm nhỏ đèn xanh, xa mãi dần rồi khuất sau rặng tre. Liên cầm tay em, lặng theo mơ
tưởng. Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực, vui vẻ và huyên náo. Liên nhớ lại tuổi thơ và
ước vọng Rồi Liên chìm dần trong giấc ngủ yên tĩnh của phố huyện về khuya tịch mịch
và đầy bóng tối.
Truyện Hai đứa trẻ có một giọng điệu rất riêng, giọng điệu tâm tình thủ thỉ. Đó là
tiếng nói của một con người, như Nguyễn Tuân nhận xét là "tính 'tình nhẹ nhàng tinh tê ,
"vừa sống vừa lắng nghe chung quanh" với bao chuyện buồn vui đang xảy ra. Cái dây xà
tích bằng bạc của Liên, Thạch Lam đã phát hiện ra thứ vật dụng mà chị quý mến và hãnh
diện vì nó tỏ ra chị là người con gái lớn và đảm đang. Gánh phở bác Siêu là một thứ quà
xa xỉ, nhiều tiền mà hai chị em Liên không bao giờ mua được, vì thế hai chị em Liên chỉ
biết ngửi thấy mùi phở thơm. Liên nhớ về Hà Nội.là nhớ những kỉ niệm tuổi thơ, ngày bố
còn đi làm, mẹ nhiều tiền, 'hai chị em được đi chơi Bờ Hồ, được uống những cốc nước
lạnh xanh đỏ. Phải chăng đó là những kí ức tuổi thơ êm đềm của Thạch Lam ? Thạch
Lam sử dụng thành công ' thủ pháp nghệ thuật tương phản dối lập để làm nổi bật những
cảnh đời lầm than nơi phố huyện. Phố huyện ngập đầy bóng tối. Chỉ có vài ngọn đèn le
lói. Riêng ngọn đèn nơi chõng hàng chị Tí được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Càng về
khuya, phố huyện càng im lìm tịch mịch. Đêm nào cũng có một chuyến tàu chạy qua phố
huyện. Dù chỉ trong khoảnh khắc, nhưng con tàu đã mang đến một thế giới đầy ánh sáng


và náo động. Lân khói bừng sáng. Các toa đèn sáng trưng. Đồng và kềnh lấp lánh. Các
cửa kính sáng. Đốm than đỏ bay tung trên đường sắt Tiếng xe rít lên. Tiếng hành khách
ồn ào, khe khẽ. Tiếng còi rít lên. Đoàn tàu rầm rộ đi tới và vút qua.. ánh sáng và bóng tối,

ồn ào náo động và tịch mịch; tương phản ấy đã làm nổi bật những cảnh ngộ nghịch trái,
đồng thời đi sâu vào những tâm tình, tâm trạng, những cảm xúc, cảm giác đầy ám ảnh.
Một nét đặc sắc nữa về nghệ thuật của Thạch Lam là câu văn dưới ngòi bút của
ông thanh nhẹ, trong sáng, giàu hình ảnh và gợi cảm. Ví dụ, cảnh phố huyện lúc chiều
tàn: Phương Tây, đỏ rực như lửa cháy (..). Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng
vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào... Đây là cảnh đầu
đêm nơi phố huyện: Trời bắt đầu đêm, một đêm nwa hạ êm như nhung và thoảng qua gió
mát. Đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy bóng tối... Nói về câu văn Thạch Lam.
Nguyễn Tuân nhận xét: "Bằng sáng tác văn học, Thạch Lam đã làm cho tiếng nói Việt
Nam gọn ghẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại ra, và tươi đậm hơn".
Sự đào thải và thanh lọc 1à vô cùng nghiêm khắc và nghiệt ngã đối với bất kì ai,
sự vật nào, nhất là đối với văn chương nghệ thuật Nhiều cây bút trong Tự lực văn đoàn đã
bị độc giả ngày nay hờ hững! Riêng tác phẩm của Thạch Lam, hơn 60 năm sau, vẫn được
chúng ta yêu thích. Cái đẹp trong văn chương Thạch Lam, trước hết, là cái đẹp của tình
người, cái đẹp của một trái tim nhân hậu. Là cái đẹp của chất thơ đậm hương đời và vị
đời, là một cái đẹp của ngòi bút giàu bản sắc là tinh thần nhân đạo sáng bừng trang văn...
Con người và văn chương của Thạch Lam đáng để ta trân trọng và mến mộ.


VĂN MẪU SỐ 4:

1. Hai đứa trẻ có bao chi tiết nghệ thuật giàu sức gợi sâu xa, Thạch Lam tả cảnh, tả
người hay kể chuyện đều chọn lọc, tạo nên ấn tượng, nhiều xao xác và bâng khuâng.
Cảnh phố huyện tối dần, ngoài đồng thì ếch nhái kêu ran: trong nhà thì tiếng muỗi vo ve.
Liên ngồi yên lặng, đôi mắt bóng tối ngập đầy dần, tâm hồn ngây thơ thấm thìa cái buồn
của buổi chiều quê. Bà cụ Thi hơi điên, nghiện rượu, tiếng cười “khanh khách”. Tiếng
đàn bầu của bác xẩm thì “bần bật”. Mẹ con chị Tí bán nước chè. Thằng cu “khiêng hai
cái ghế trên lưng”; mẹ nó “đội cái chõng trên đầu” ... Thật là vất vả, cực nhọc và nghèo
khổ. Những chi tiết ấy rất sống, rất hiện thực. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thuộc khuynh
hướng lãng mạn. Nhưng truyện của Thạch Lam, đặc biệt truyện “Hai đứa trẻ” thì nội

dung hiện thực - nhân đạo hòa quyện đầy ám ảnh và lay động.
2. Một nét đặc sắc nghệ thuật của Thạch Lam là tinh tế và sâu sắc trong phân tích
thế giới nội tâm nhân vật, gợi tả xúc động những biến thái mơ hồ, mong manh trong lòng
người. Những dòng viết về tâm trạng của nhân vật Liên với bao buồn vui lẫn lộn, nhiều
xao xác bâng khuâng. Trời tối dần, Liên ngồi nhìn phố huyện, không hiểu sao “chị thấy
lòng buồn man mác”. Ngồi đợi tàu trong màn đêm, dưới ngàn sao lấp lánh, và ánh sáng
của con đom đóm nhấp nháy, tâm hồn Liên “yên tĩnh hẳn, có những cảm giác mơ hồ
không hiểu”.
Tàu đến, Liên vội đánh thức em dậy, hai chị em nhìn đoàn xe vút qua, nhìn theo
cái chấm nhỏ đèn xanh, xa mãi dần rồi khuất sau rặng tre. Liên cầm tay em, “lặng theo
mà tưởng. Hà Nội xa xăm. Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”. Liên nhớ lại ký ức tuổi
thơ và ước vọng. Rồi Liên chìm dần trong giấc ngủ yên tĩnh của phố huyện về khuya
"tịch mịch và đầy bóng tối”.
3. Truyện “Hai đứa trẻ” có một giọng điệu rất riêng, giọng điệu tâm tình thủ thỉ.
Đó là tiếng nói của một con người, như Nguyễn Tuân nhận xét là “tính tình nhẹ nhàng


tinh tế”, “vừa sống vừa lắng nghe chung quanh...” với bao chuyện buồn vui đang xảy ra.
Cái dây xà tích bằng bạc của Liên, Thạch Lam đã phát hiện ra thứ vật dụng mà “ chị quý
mến và hãnh diện” vì nó tỏ ra chị là người con gái “lớn và đảm đang”. Phở bác Siêu là
một thứ quà “xa xỉ, nhiều tiền” hai chị em Liên không bao giờ mua được, vì thế hai chị
em chỉ biết “ngửi thấy mùi phở thơm". Liên nhớ về Hà Nội là nhớ những kỉ niệm tuổi
thơ, ngày bố còn đi làm, mẹ nhiều tiền, hai chị em được đi chơi Bờ Hồ, được uống những
cốc nước lạnh xanh đỏ. Phải chăng đó cũng là kí ức tuổi thơ êm đềm của Thạch Lam?
4. Thạch Lam sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật tương phản đối lập để làm
nổi bật những cảnh đời lầm than nơi phố huyện. Phố huyện ngập đầy bóng tối. Chỉ có vài
ngọn đèn le lói. Riêng ngọn đèn nơi chõng hàng chị Tí được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Càng về khuya, phố huyện càng im lìm, tịch mịch. Đêm nào cũng có một chuyến tàu
chạy qua phố huyện. Dù chỉ trong khoảng khắc, nhưng con tàu đã mang đến một thế giới
đầy ánh sáng và náo động. Làn khói bừng sáng. Các toa đèn sáng trưng. Đồng và kền lấp

lánh. Các cửa kính sáng. Đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Tiếng xe rít. Tiếng hành
khách ồn ào, khe khẽ. Tiếng còi tàu rít lên. Đoàn tàu rầm rộ đi tới và vút qua, ánh sáng và
bóng tối, ồn ào náo động và tịch mịch, tương phản ấy, đối lập ấy đã làm nổi bật những
cảnh ngộ nghịch trái, đồng thời đi sâu vào những tâm tình, tâm trạng, những cảm xúc,
cảm giác đầy ám ảnh.
5. Một nét đặc sắc nữa về nghệ thuật của Thạch Lam là câu văn dưới ngòi bút của
ông thanh nhẹ, trong sáng, giàu hình ảnh và gợi cảm. Ví dụ, cảnh phố huyện lúc chiều
tàn: “Phương tây, đỏ rực như lửa cháy (...). Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru,
văng vẳng tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào...”. Đây là
cảnh đầu đêm nơi phố huyện: “Trời bắt đầu đêm, một đêm mùa hạ êm như nhung và
thoáng qua gió mát. Đường phố và các con ngõ dần dần chứa đầy bóng tối...”. Nói về
câu văn Thạch Lam, Nguyễn Tuân nhận xét: “Bằng sáng tác văn học. Thạch Lam đã làm
cho tiếng nói Việt Nam gọn ghẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại ra, và tươi đậm hơn”.
Tóm lại, cái đẹp trong văn chương Thạch Lam, trước hết là cái đẹp của tình người,
cái đẹp của một trái tim nhân hậu. Là cái đẹp của chất thơ đậm hương đời và vị đời, là cái


đẹp của một ngòi bút giàu bản sắc. Là tinh thần nhân đạo sáng bừng trang văn... Con
người và văn chương của Thạch Lam đáng để ta trân trọng và mến mộ.


VĂN MẪU SỐ 5:

Thạch Lam (1910-1942) là thành viên của "Tự lực văn đoàn". Ông thành công về
truyện ngắn và bút kí qua các tác phẩm như: "Gió đầu mùa". "Nắng trong vườn", "Hà Nội
36 phố phường". Tác phẩm của Thạch Lam có "cốt cách và phẩm chất văn học", để lại
"cái dư vị và cái nhã thú" cho người đọc. Đó là chữ nghĩa của Nguyễn Tuân trong Tuyển
tập Thạch Lam. Truyện ngắn "Hai đứa trẻ" in trong lập "Nắng trong vườn” (1938).
Truyện ngắn này có những nét đặc sắc nghệ thuật tiêu biểu cho phong cách của Thạch
Lam.

Trên sách Văn học Trung học Phổ thông, Thạch Lam có ba truyện ngắn: "Gió đầu
mùa", "Hai đứa trẻ", và "Dưới bóng hoàng lan". Đó là những truyện ngắn không có cốt
truyện, mỗi truyện là một bài thơ từ tình đượm buồn. “Gió lạnh đầu mùa" nói về chuyện
cho áo và trả áo, cho vay tiền để mua áo ấm giữa 3 đứa trẻ và hai người mẹ. "Dưới bóng
hoàng lan" có 4 nhân vật: hai bà cháu, cô thôn nữ Nga và cây hoàng lan. Mái nhà xưa và
bóng bà "che mát" tâm hồn đứa cháu; hương thơm và bóng hoàng lan ướp hương và ủ ấp
cho một mối tình êm đẹp "dịu ngọt chăng tơ...". Còn truyện "Hai đứa trẻ" nói về một phố
huyện nghèo và tâm trạng thao thức của hai chị em Liên và An khắc khoải đợi chờ một
chuyến tàu đêm đi qua. Hình ảnh đoàn tàu và tiếng còi tàu đã trở thành một thói quen của
cảm xúc và ước vọng. Tuy không có cốt truyện, nhưng "Hai đứa trẻ"có một hương vị thật
là man mác. Đó là chất thơ.
"Hai đứa trẻ" có bao chi tiết nghệ thuật giàu sức gợi sâu xa. Thạch Lam tả cảnh, tả
người hay kể chuyện đều chọn lọc, tạo nên ấn tượng, nhiều xao xác và bâng khuâng.
Cảnh phố huyện tối dần, ngoài đồng thì ếch nhái kêu ran; trong nhà thì tiếng muỗi vo ve.
Liên ngồi yên lặng, đôi mắt bóng tối ngập đầy dần, tâm hồn ngây thơ thấm thía cái buồn
của buổi chiều quê. Bà cụ Thi hơi điên, nghiện rượu, tiếng cười "khanh khách". Tiếng
đàn bầu của bác xẩm thì "bần bật". Mẹ con chị Tí bán nước chè. Thằng cu "khiêng hai
cái ghế trên lưng”, mẹ nó "đội cái chõng trên đầu"... Thật là vất vả, cực nhọc và nghèo


khổ. Những chi tiết ấy rất sống, rất hiện thực. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thuộc khuynh
hướng lãng mạn. Nhưng truyện của Thạch Lam, đặc biệt truyện "Hai đứa trẻ" thì nội
dung hiện thực - nhân đạo hòa quyện đầy ám ảnh và lay động.
Một nét đặc sắc nghệ thuật của Thạch Lam là tinh tế và sâu sắc trong phân tích thế
giới nội tâm nhân vật, gợi xúc động những hình thái mơ hồ, mong manh trong lòng
người. Những dòng viết về tâm trạng của nhân vật Liên với bao buồn vui lẫn lộn, nhiều
xao xác bâng khuâng. Trời tối dần, Liên ngồi nhìn phố huyện, không hiểu sao là chị thấy
lòng “buồn man mác". Ngồi đợi tàu trong màn đêm, dưới ngàn sao lấp lánh, và ánh sáng
của những con đom đóm nhấp nháy, tâm hồn Liên "yên tĩnh hẳn”. Tàu đến, Liên vội đánh
thức em dậy, hai chị em nhìn đoàn xe vút qua, nhìn theo cái chấm nhỏ đèn xanh, xa mãi

dần khuất sau rặng tre. Liên cầm tay em, "lặng theo mơ tưởng. Hà Nội xa xăm. Hà Nội
sáng rực, vui vẻ và huyên náo". Liên nhớ lại kí ức tuổi thơ và ước vọng. Rồi Liên chìm
dần trong giấc ngủ yên tĩnh của phố huyện về khuya "tịch mịch và đầy bóng tối".
Truyện "Hai đứa trẻ" có một giọng điệu rất riêng, giọng điệu tâm tình thủ thỉ. Đó
là liếng nói của một con người, như Nguyễn Tuân nhận xét là "tính tình nhẹ nhàng tinh
tế", "vừa sống vừa lắng nghe chung quanh..." với bao chuyện buồn vui đang xẩy ra. Cái
dây xà tích bằng bạc của Liên, Thạch Lam đã phát hiện ra thứ vật dụng mà "chị quý mến
và hãnh diện" vì nó tỏ ra chị là người con gái "lớn và đảm đang". Phở bác Siêu là một
thứ quà "xa xỉ, nhiều tiền" mà hai chị em Liên không bao giờ mua được, vì thế hai chị em
chỉ biết "ngửi thấy mùi phở thơm. Liên nhớ về Hà Nội là nhớ những kỉ niệm tuổi thơ,
ngày hố còn đi làm, mẹ nhiều tiền, hai chị em được đi chơi bờ Hồ, được uống những cốc
nước lạnh xanh đỏ”. Phải chăng đó cũng là kí ức tuổi thơ êm đềm của Thạch Lam?
Thạch Lam sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật tương phản đối lập để làm nổi
bật những cảnh đời lầm than nơi phố huyện. Phố huyện ngập đầy bóng tối. Chỉ có vài
ngọn đèn le lói. Riêng ngọn đèn nơi chõng hàng chị Tí được nhắc đi nhắc lại nhiều lần.
Càng về khuya, phố huyện càng im lìm, tịch mịch. Đêm nào cũng có một chuyến tàu
chạy qua phố huyện. Dù chỉ trong khoảnh khắc, nhưng con tàu đã mang đến một thế giới
đầy ánh sáng và náo động. Làn khỏi bừng sáng. Các toa đèn sáng trưng. Đồng và kền lấp


lánh. Các cửa kính sáng Đốm than đỏ bay tung trên đường sắt. Tiếng xe rít. Tiếng hành
khách ồn ào, khe khẽ. Tiếng còi tàu rít lên. Đoàn tàu rầm rộ đi tới và vút qua... Ánh sáng
và bóng tối, ồn ào náo động và tịch mịch, tương phản ấy, đối lập ấy đã làm nổi bật những
cảnh ngộ nghịch trái, đồng thời đi sâu vào những tâm tình, tâm trạng, những cảm xúc,
cảm giác đầy ám ảnh.
Một nét đặc sắc nữa về nghệ thuật của Thạch Lam là câu văn dưới ngòi bút của
ông thanh nhẹ, trong sáng, giàu hình ảnh và gợi cảm. Ví dụ, cảnh phố huyện lúc chiều
tàn: "Phía tây, đỏ rực như lửa cháy (...). Chiều, chiều rồi. Một chiều êm ả như ru, văng
vẳng tiếng ếch nhái kêu ran nơi đồng ruộng theo gió nhẹ đưa vào... Đây là cảnh đầu đêm
nơi phố huyện: “Trời đã bắt đầu đêm một mùa hạ êm như nhung và thoảng qua gió mát .

Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối...". Nói về câu văn Thạch Lam,
Nguyễn Tuân, nhận xét: "Bằng sáng tác văn học. Thạch Lam đã làm cho tiếng nói Việt
Nam gọn khẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại ra, và tươi đậm hơn".
Sự đào thái và thanh lọc là vô cùng nghiêm khắc và nghiệt ngã đối với bất cứ ai,
sự vật nào, nhất là đối với văn chương nghệ thuật. Nhiều cây bút trong "Tự lực văn đoàn"
đã bị độc giả ngày nay hờ hững vì thế! Riêng tác phẩm của Thạch Lam, bảy mươi năm
sau vẫn được chúng ta yêu thích.
Cái đẹp trong văn chương Thạch Lam, trước hết là cái đẹp của tình người, cái đẹp
của một trái tim nhân hậu. Là cái đẹp của chất thơ đậm hương đời và vị đời, là cái đẹp
của một ngòi bút giàu bản sắc. Là tinh thần nhân đạo sáng bừng trang văn,... Con người
và văn chương của Thạch Lam đáng để ta trân trọng và mến mộ.


VĂN MẪU SỐ 6:

1. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” (1938) là một trong
những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực cao,
vừa thấm đượm một giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua truyện ngắn này, Thạch Lam cũng thể
hiện một tài năng viết truyện bậc thầy.
2. Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện, mỗi truyện như một
bài thơ. Thạch Lam có ba truyện viết về những kỉ niệm thời thơ ấu (Hai đứa trẻ, Nhà mẹ
Lê, Gió lạnh đầu mùa). Ở truyện ngắn “Hai đứa trẻ” toàn bộ câu chuyện chỉ kể về tâm
trạng thao thức của hai đứa trẻ Liên và An, mong mỏi, chờ đợi một chuyến tàu đêm đi
qua phố huyện tiêu điều. Thế nhưng qua câu chuyện kể tưởng chừng nhỏ nhặt, đơn giản
ấy, Thạch Lam đã thể hiện khá chân thực khung cảnh nghèo nàn, đơn điệu của phố huyện
nhỏ, thân phận và những ước mơ, khát vọng của những con người nơi đây.
3. Trong “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam chú trọng đi sâu vào nội tâm nhân vật với
những cảm xúc, cảm giác mơ hồ mong manh. Những trang viết miêu tả tâm trạng của
nhân vật (đặc biệt là nhân vật Liên) rất sâu sắc và tinh tế.
4. Thạch Lam đã sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản giữa

các vùng âm thanh và ánh sáng. Cả một phố huyện chìm sâu vào bóng tối, chỉ còn vài
chấm sáng tù mù quen thuộc xung quanh ngọn đèn của chõng hàng nước, cái bếp lửa của
hàng phở khuya vắng khách và ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên
nứa của một hàng tạp hóa. Những ngọn đèn tù mù như ngái ngủ đó tượng trưng cho cuộc
sống tù đọng của những người dân quê nghèo khổ nơi phố huyện nhỏ của một vùng nông
thôn.
Trong cái cảnh chìm chìm, nhạt nhạt và vắng lặng đó, đêm nào cũng có một đoàn
tàu đi qua mang theo những luồng sáng mạnh quét vào hai bên và tiếng ồn ào làm xao
động cả một vùng quê yên tĩnh. Đoàn tàu như mang đến một thế giới giàu sang và đầy
ánh sáng, một thế giới lí tưởng và đầy ước mơ, đối lập với cái hiện thực tĩnh lặng đầy


bóng tối nơi phố vắng ở một huyện nhỏ. Thủ pháp đối lập mà Thạch Lam dùng ở đây
cũng là thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa.
5. Thạch Lam có một phong cách, một giọng điệu rất riêng. Đó là lối kể chuyện
thủ thỉ, tâm tình thấm đượm chất thơ. Người đọc thấy ẩn hiện kín đáo, lặng lẽ sau những
hình ảnh, những dòng chữ, một tâm hồn Thạch Lam đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm
với mọi biến thái của tạo vật và lòng người.


1. Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” in trong tập “Nắng trong vườn” (1938) là một trong
những truyện ngắn đặc sắc nhất của Thạch Lam. Tác phẩm vừa có giá trị hiện thực cao,
vừa thấm đượm một giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua truyện ngắn này, Thạch Lam cũng thể
hiện một tài năng viết truyện bậc thầy.
2. Truyện ngắn của Thạch Lam thường không có cốt truyện, mỗi truyện như một
bài thơ. Thạch Lam có ba truyện viết về những kỉ niệm thời thơ ấu (Hai đứa trẻ, Nhà mẹ
Lê, Gió lạnh đầu mùa). Ở truyện ngắn “Hai đứa trẻ” toàn bộ câu chuyện chỉ kể về tâm
trạng thao thức của hai đứa trẻ Liên và An, mong mỏi, chờ đợi một chuyến tàu đêm đi
qua phố huyện tiêu điều. Thế nhưng qua câu chuyện kể tưởng chừng nhỏ nhặt, đơn giản
ấy, Thạch Lam đã thể hiện khá chân thực khung cảnh nghèo nàn, đơn điệu của phố huyện

nhỏ, thân phận và những ước mơ, khát vọng của những con người nơi đây.
3. Trong “Hai đứa trẻ”, Thạch Lam chú trọng đi sâu vào nội tâm nhân vật với
những cảm xúc, cảm giác mơ hồ mong manh. Những trang viết miêu tả tâm trạng của
nhân vật (đặc biệt là nhân vật Liên) rất sâu sắc và tinh tế.
4. Thạch Lam đã sử dụng thành công thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản giữa
các vùng âm thanh và ánh sáng. Cả một phố huyện chìm sâu vào bóng tối, chỉ còn vài
chấm sáng tù mù quen thuộc xung quanh ngọn đèn của chõng hàng nước, cái bếp lửa của
hàng phở khuya vắng khách và ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt từng hột sáng lọt qua phên
nứa của một hàng tạp hóa. Những ngọn đèn tù mù như ngái ngủ đó tượng trưng cho cuộc
sống tù đọng của những người dân quê nghèo khổ nơi phố huyện nhỏ của một vùng nông
thôn.
Trong cái cảnh chìm chìm, nhạt nhạt và vắng lặng đó, đêm nào cũng có một đoàn
tàu đi qua mang theo những luồng sáng mạnh quét vào hai bên và tiếng ồn ào làm xao
động cả một vùng quê yên tĩnh. Đoàn tàu như mang đến một thế giới giàu sang và đầy
ánh sáng, một thế giới lí tưởng và đầy ước mơ, đối lập với cái hiện thực tĩnh lặng đầy
bóng tối nơi phố vắng ở một huyện nhỏ. Thủ pháp đối lập mà Thạch Lam dùng ở đây
cũng là thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa.


5. Thạch Lam có một phong cách, một giọng điệu rất riêng. Đó là lối kể chuyện
thủ thỉ, tâm tình thấm đượm chất thơ. Người đọc thấy ẩn hiện kín đáo, lặng lẽ sau những
hình ảnh, những dòng chữ, một tâm hồn Thạch Lam đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm
với mọi biến thái của tạo vật và lòng người.



×