Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

Nghiên cứu sản xuất trà gạo lức gừng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.91 KB, 58 trang )

CHƯƠNG

1

GIỚI THIỆU

NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT TRÀ GẠO LỨC – GỪNG
SVTH: Nguyễn Thị Diệu Lâm
MSSV 105110061

1


1.1. Đặt vấn đề
Gạo lức là loại gạo còn giữ lại một phần vỏ cám bên ngoài hạt gạo tong quá trình chế
biến. gạo lức cung cấp nhiều thành phần carbohydrate, vitamin nhóm B, chất xơ, chất béo,
sắt, kali, kẽm, và nhiều yếu tố vi lượng và chất khoáng khác cũng được tìm thấy nhiều ở
phần bọc ngoài của hạt gạo lức. chính vì vậy, gạo lức là một loại thực phẩm có thành phần
dinh dưỡng hơn nhiều so với gạo trắng. các nghiên cứu cho thấy những thành phần có trong
gạo lức giúp phòng ngùa những bệnh trong hệ tiêu hóa và tim mạch. Để giảm cân, giảm
cholesterol xấu trong máu, phòng bệnh tiểu đường… nhiều người đã chọn gạo lức làm lương
thực chính thay cho gạo trắng.
Trong y học cổ truyền, gừng là vị thuốc có tác dụng đáng kể đối với một số bệnh như
nôn mửa, đau bụng, ho, tiêu chảy, cảm cúm…Gừng còn kích thích vị giác, giúp ăn ngon
miệng hơn. Hiện nay trên thế giới, gừng là loại cây được trồng phổ biến, xuất hiện ở nhiều
nơi như các nước Đông Nam Châu Á, Ấn Độ, nam Trung Quốc, Tây Phi và Châu Đại
Dương. Cây gừng thích hợp ở vùng có mùa khô ngắn, có nhiệt độ không khí tương đối cao
trong thời kỳ củ gừng thành thục. Vì vậy, khí hậu ở nhiều địa phương nước ta rất thích hợp
cho việc trồng gừng.
Hiện nay, có rất nhiều loại thực phẩm chức năng được chế biến từ gạo lức và gừng,
như nước uống lên men lactic từ gạo lức, gừng và khoáng chất, cơm gạo lức muối mè ăn liền,


nước ép gừng kết hợp với mật ong trị bệnh ho, trà gừng với tác dụng hỗ trợ điều trị các bệnh
về đường tiêu hóa như nôn mửa, đau bụng, tiêu chảy…
Với ý tưởng kết hợp những ưu điểm của cả gừng và gạo lức để tạo nên một loại trà túi
lọc được sử dụng như thực phẩm chức năng giúp phòng ngừa các bệnh như tim mạch, cao
huyết áp, ngăn ngừa bệnh tiểu đường, béo phì, bảo vệ thận ngoài ra còn có thể cải thiện các
bệnh về đường tiêu hóa như buồn nôn, đầy bụng, lạnh bụng..Các đặc điểm trên của trà gạo
lức gừng rất phù hợp với xu hướng sử dụng thực phẩm có nguồn gốc thiên nhiên để ngăn
ngừa và điều trị bệnh của người tiêu dùng hiện nay.
Trà làm từ gừng và gạo lức sẻ có mùi thơm kết hợp của cả gừng và gạo lức, màu sắc
đẹp. Được sự cho phép của khoa Công Nghệ Thực Phẩm – Trường Đại Học Kỹ Thuật Công
Nghệ Thành Phố Hồ Chí Minh, chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài : “Nghiên cứu quy
trình chế biến trà túi lọc gạo lức – gừng”.
1.2. Mục đích
2


Tạo ra một loại trà túi lọc từ gừng và gạo lức không chỉ dùng để giải khát mà còn
được sử dụng như một loại thực phẩm chức năng giúp phòng ngừa các bệnh tim mạch, cao
huyết áp, tiểu đường, béo phì.
1.2. Nội dung
- Xác định chế độ rang gạo lức và chế độ sấy gừng thích hợp để chế biến trà túi lọc
gạo lức - gừng.
- Khảo sát tỷ lệ phối trộn giữa các nguyên liệu để tạo sản phẩm trà túi lọc gạo lức –
gừng.
- Đánh giá chất lượng sản phẩm.

3


CHƯƠNG


2

TỔNG QUAN

NGHIÊN CỨU SẢN XUẤT TRÀ GẠO LỨC – GỪNG
SVTH: Nguyễn Thị Diệu Lâm
MSSV 105110061

4


2.1. Giới thiệu về gạo lức
2.1.1. Giới thiệu chung về hạt gạo
Ở Việt Nam, thóc gạo là thực phẩm chính của nhiều dân tộc, không phải như nhiều
người cứ nghĩ rằng ăn nhiều thịt, nhiều đường mới tốt và coi đó là thức ăn chính. Dân tộc ta
có câu cửa miệ ng “bữa cơm”, “ăn cơm” thể hiện đầy đủ cơm gạo là thức ăn chính. Đó là
thức ăn mà dân tộc ta cũng như nhiều nơi trên thế giới đã sử dụng để sinh tồn hàng ngàn năm
nay. Từ lâu chúng ta chỉ quen ăn loại gạo trắng mà ít người để ý đến loại gạo nào bổ dưỡng,
đáp ứng nhu cầu cơ thể, phù hợp với sinh lý, với cơ thể của con người hơn.
Những năm gần đây, qua phân chất gạo, đặc biệt là gạo lức, người ta thấy không
những có đủ những chất chủ yếu như đạm, béo, bột mà còn có nhiều loại sinh tố, các chất
khoáng, các loại acid, chất xơ và nhiều chất khác, càng thấy rõ tính chất ưu việt và khả năng
bổ dưỡng, phòng và chữa bệnh của gạo lức trong cây lúa. Thế nhưng gạo đem giã xát thật
trắng chỉ còn lại chất bột, mất đi 1/3 hoặc có khi mất hết các chất dinh dưỡng thiên nhiên. Do
đó ăn thuần gạo trắng dễ phát sinh những bệnh vì thiếu các chất kể trên.
Gạo không giống đa số các ngũ cốc khác là hạt được tiêu thụ toàn bộ. Bởi vậy những
tính chất vật lý như kích thước, hình dạng, sự đồng đều và cảm quan chung là vô cùng quan
trọng. Hơn nữa, đa số gạo trước khi sử dụng phải qua xay chà, do đó thuộc tính vật lý quan
trọng xác định chủ yếu bởi nội phôi nhũ. Trong trường hợp độ thuần khiết, chất lượng gạo

ảnh hưởng bởi đặc tính do gen điều khiển, các điều kiện môi trường và các công nghệ chế
biến. Trong trường hợp ảnh hưởng do chế biến, các đặc tính chi phối đó là tồn trữ và phân
phối. Kiểu gen của một giống cụ thể ức chế mức độ lớn các đặc điểm chất lượng hạt. Những
nhà lai tạo giống và di truyền học tiếp tục cải thiện gen của các giống mới để tạo ra sản phẩm
mong muốn. Sự chọn lọc chú trọng cải thiện chất lượng xay chà, nấu, ăn và chế biến là
những thành phần chủ yếu của chương trình tạo giống dựa trên nền tảng của các tiêu chuẩn
công nghiệp. Quan tâm gần đây trong việc tạo ra giống chất lượng cho thị trường xuất khẩu
là kết quả trong sự lựa chọn hương vị đặc biệt và các đặc điểm nấu ăn được ưa thích bởi
người tiêu thụ.
2.1.1.1 Chất lượng hạt gạo
Sau năng suất hạt, chất lượng hạt gạo quan trọng nhất. Gạo xay với hạt trong mờ
nguyên hạt được ưa thích. Vùng bị mờ đục trong một nội nhũ trong mờ được gọi là bạc bụng.

5


Gạo có vô số kiểu chiều dài hạt khác nhau. Bảng sau đưa ra phân loại tiêu chuẩn kích
thước hạt.
Bảng 2.1: Phân loại các tiêu chuẩn hạt gạo [16]
Kích thước

Chiều dài
(mm)

Cấp độ

Hình dạng

Tỷ lệ
dài/rộng


Cấp độ

Dài nhất

> 7.5

1

Thon

> 3.0

1

Dài

6.61 – 7.5

3

Trung bình

2.1 – 3.0

3

Trung bình

5.51 – 6.6


5

Hơi tròn

1.1 – 2.0

5

Ngắn

- 5.5

7

Tròn

- 1.1

7

Kiểu hạt hơi thon, hơi tròn, và tròn, không bạc bụng khi chà với ẩm độ 14% ít bị gãy
và có năng suất gạo nguyên cao. Tỷ lệ gạo xay và màu sắc của gạo rất quan trọng, các giống
khác nhau có kiểu và cường độ mùi thơm khác nhau. Hương thơm trong gạo là do chất hóa
học diacetyl - 1 pyroproline tạo nên. Chất lượng gạo nấu và ăn thay đổi theo vùng. Gạo xay
có hạt trong mờ, thon dài có hoặc không có mùi thơm, có độ nở nhiều khi nấu (do sự kéo dài
nhân hạt), có tính mịn (không dính và mềm), cấu trúc hạt chắc, mùi vị hấp dẫn và thời hạn sử
dụng kéo dài được ưa chuộng trong thị trường nội địa cũng như thị trường quốc tế. Hình dưới
đây trình bày các kiểu hạt dài, trung bình và ngắn điển hình của Mỹ.
Trong cột đầu tiên bên phải (1 đến 3) là kiểu hạt lúa (rough rice or paddy rice). Cột ở

giữa (1 đến 3) là gạo lức hay gạo chưa qua đánh bóng (brown rice or unpolished rice). Cột
cuối bên trái (1 đến 3) là gạo trắng (milled rice/white rice/head rice). Mỗi loại bao gồm cả
dạng hạt dài, trung bình và ngắn.
Màu của vỏ cám: màu vỏ cám bao gồm màu trắng nâu sáng, nâu tối, nâu, đỏ, tím sáng
và tím.

6


Hình 2.1: Các loại gạo dài, trung bình, ngắn điển hình
Mức độ bạc bụng: Mức độ bạc bụng của hạt gạo được chia như sau:
Cấp 0: không bạc bụng.
Cấp 1: vùng bạc bụng ít hơn 10% ở trong hạt gạo.
Cấp 5: diện tích bạc bụng trung bình 11 – 20%
Cấp 9: hơn 20%.
Thành phần hạt gạo sau khi xay chà gồm có vỏ trấu, cám, gạo lức, gạo chà (head rice)
và chiếm 67 - 70% trọng lượng của hạt gạo.
Gạo trắng chia thành hai phần: gạo nguyên và tấm (gạo bị gãy). Gạo nguyên chiếm từ
40% - 60% trọng lượng lúa đem chà và phụ thuộc điều kiện và kỹ thuật sau thu hoạch. Đôi
khi tỷ lệ này dưới 40%. Phần trăm gạo gãy thay đổi tương ứng với tỷ lệ gạo nguyên.
Chất lượng xay chà: Yếu tố này bao gồm phần trăm gạo lức, gạo trắng và gạo
nguyên.
Trọng lượng hạt lúa không vỏ
Gạo lức (%)

= ------------------------------------Trọng lượng lúa

7

x 100



Hình 2.2: Một số loại gạo lức
Trọng lượng gạo sau khi chà và đánh bóng
Gạo trắng (%) = ----------------------------------------------------- x 100
Trọng lượng lúa
Trọng lượng gạo nguyên (không gãy)
Gạo nguyên (%) = ----------------------------------------------- x 100
Trọng lượng lúa
Trung bình phần trăm vỏ hạt từ 18 – 26% trọng lượng lúa phụ thuộc vào giống có vỏ
dày hay mỏng. Gạo trắng chiếm khoảng 70% nhưng thay đổi do nhiều điều kiện như giống,
môi trường và công nghệ sau thu hoạch. Trên thị trường yếu tố quan trọng là phần trăm gạo
nguyên và thay đổi từ 25 – 65%.
2.1.1.2 Các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng gạo
Chất lượng cơm: chất lượng gạo được nấu gồm hàm lượng amylose, nhiệt độ trở hồ
và độ bền gel.
Tiêu chuẩn Quốc tế hàm lượng amylose như sau:
0 - 2%

gạo dẻo

2 – 20%

gạo mềm (hàm lượng amylose thấp)
8


20 – 25%

gạo mềm (hàm lượng amylose trung bình)


> 25%

gạo cứng (hàm lượng amylose cao)

Nhiệt độ trở hồ (GT): là đặc tính chỉ nhiệt độ nấu gạo thành cơm và không thể trở lại
trạng thái ban đầu. GT thay đổi từ 55 - 790C. GT trung bình là điều kiện tối hảo cho chất
lượng gạo tốt.
GT thấp

55 – 690C

GT trung bình

69 – 750C

GT cao

75 – 790C

Độ bền gel: Tiêu chuẩn Quốc tế cho độ bền gel dựa vào chiều dài gel. Trong nhóm
gạo, các giống có cùng hàm lượng amylose nhưng độ bền gel cao hơn được ưa chuộng hơn.
80 – 100 mm

mềm

61 – 80 mm

mềm


41 – 60 mm

trung bình

36 – 40 mm

cứng

< 35 mm

cứng

Chất lượng dinh dưỡng và hương vị:
Hương vị: vị ngon hoặc hương thơm trong gạo được tạo bởi hóa chất diacetyl – 1 –
pyroproline . Đánh giá tiêu chuẩn theo Viện Nghiên cứu lúa gạo quốc Tế (IRRI) được chia
làm 3 mức độ:
Không thơm, ít thơm , thơm nhiều
Chất dinh dưỡng: Tinh bột cao nhất ở lúa mì 81,1%, tiếp đó là gạo 74,8% và thấp
nhất trong cây lúa miến 67,4%. Thành phần quan trọng thứ hai trong gạo là protein với 8,5%
trong khi trong cây kê cao nhất với 13,4%. Nói chung, dinh dưỡng trong ngũ cốc nghèo
lysine và threomine. Chất lượng protein trong gạo cao nhất bởi vì có lysine cao 3,5 – 4% hơn
ngũ cốc. Trong những năm gần đây, viện nghiên cứu lương thực và thực phẩm Việt Nam
thành công trong việc phát triển giống có hàm lượng protein cao 10% như các giống P4 và
P6. Sắt và vitamin thiếu nghiêm trọng ở những vùng người ta chủ yếu tiêu thụ gạo. Sắt có rất
ít trong gạo. [16]
9


2.1.1.3 Gạo lức
Gạo lức là loại gạo chỉ vừa mới bóc đi lớp vỏ trấu, vẫn còn lớp cám bao bọc bên

ngoài. Nếu giã sạch lớp cám này sẽ cho ra gạo trắng là loại chúng ta ăn hàng ngày. Lớp cám
của hạt gạo lức chứa nhiều dưỡng chất quan trọng như:
vitamin E, vitamin B1, B3, B6, ma-giê, man-gan, chất xơ, sắt...

Hình 2.3: Gạo lức đỏ
Gạo lức gồm có ba loại: gạo lức tẻ hột dài (long grain brown rice), gạo lức tẻ hột tròn
(short-grain brown rice), và gạo lức nếp (sweet brown rice).
Gạo được phân loại theo bề dài của hạt gạo :
Gạo ngắn dưới:

5,5 mm

Gạo trung bình:

5,5 đến 6 mm

Gạo dài:

6 đến 6,5 mm

Gạo thật dài:

trên 6,5 mm

Tất cả gạo lức đều bổ dưỡng, nên cần được ăn trong các bữa ăn hằng ngày. Mặc dầu
thời gian nấu gạo lức lâu khoảng 45 phút, nhưng có thể nấu một lần cho một tuần thì cũng
tiết kiệm được nhiều thì giờ.
Gạo lức là một loại thực phẩm nhiều dinh dưỡng khi so sánh với gạo trắng. Tuy
nhiên, nó còn gia tăng nhiều dinh dưỡng hơn nữa khi được đem ngâm trong nước ấm, lâu
khoảng 22 giờ.

Đây là một khám phá mới nhất của khoa học. Gạo lức khi ngâm lâu chứa rất nhiều
chất bổ dưỡng vì gạo lức ở trạng thái nẩy mầm. “Các enzyme ngủ trong hạt gạo ở trạng thái
này được kích thích hoạt động và cung cấp tối đa các chất dinh dưỡng.”Dr. Hiroshi
10


Kayahara, giáo sư khoa sinh học và kỹ thuật sinh học tại viện Đại học Shinshu University in
Nagano, đã nói như vậy trong bài tường trình kết quả nghiên cứu của nhóm ông tại hội nghị
hoá học quốc tế ở Hawaii vào cuối năm 2000 vừa qua. “Mầm gạo lức chứa nhiều chất xơ,
vitamin và chất khoáng hơn là gạo lức chưa ngâm nước”. Kayahara viết trong tờ trình. Gạo
lức đã ngâm nước chứa gấp ba lần lysine, một loại amino acid cần thiết cho sự tăng trưởng và
bảo trì các mô tế bào cơ thể con người và chứa mười lần nhiều hơn chất gamma aminobutyric acid, một chất acid tốt bảo vệ bộ phận thận (kidneys). Các khoa học gia cũng
tìm thấy trong mầm gạo lức có chứa một loại enzyme, có tác dụng ngăn chặn
prolylendopeptidase và điều hoà các hoạt động ở trung ương não bộ. Gạo lức nẩy mầm
không những chỉ đem lại nhiều chất dinh dưỡng mà còn nấu rất dễ dàng và cung ứng cho
chúng ta một khẩu vị hơi ngọt vì các enzymes đã tác động vào các chất đường và chất đạm
trong hạt gạo.
Gạo lức bổ dưỡng hơn gạo trắng nhưng khó tiêu hơn vì lớp cám ngoài chứa nhiều
chất celuloze rất cứng.
Gạo lức có thể để khoảng 4 – 5 tháng. Nếu để lâu, chất dầu trong lớp cám sẽ bị hư,
gạo sẽ có mùi, không thể sử dụng được. Nên cất gạo ở nơi thoáng mát.
2.1.2. Thành phần chính có trong gạo lức
Cấu tạo của hạt gạo lức gồm:
Vỏ hạt gạo lức:chiếm 5,6 – 6,5% khối lượng hạt gạo, vỏ hạt cấu tạo bởi:
- Vỏ ngoài:cấu tạo bởi nhiều lớp tế bào, ngoài cùng là biểu bì gồm một lớp tế bào
dẹt, dưới lớp biểu bì là tầng trung bì gồm nhiều lớp tế bào nhu mô, giữa nhu mô có các mạch
dẫn. Dưới trung bì là nội bì gồm những tế bào hình ống có chlorophyl khi hạt còn non. Dưới
lớp nội bì có lớp tế bào nữa gọi là nội biểu bì.
- Vỏ lụa: Gồm những tế bào to do tế bào của phôi hình thành. Vỏ lụa có nhiều màu
sắc khác nhau như đỏ, nâu, trắng ngà…đặc trưng cho từng loại lúa.

Lớp alơrông: chiếm 6 – 12% khối lượng hạt, nằm ngay dưới lớp cutin, bao bọc toàn
bộ nội nhũ và phôi mầm, độ dày của lớp này phụ thuộc vào giống loài. Lớp alơrông chúa
nhiều protein, chất béo, đường, tro, vitamin…do đó rất dễ bị oxy hóa. Thực tế xay xác gạo
làm trắng quá kỹ lớp alơrông bị vở vụn ra cùng lớp vỏ hạt.
Phôi: Nằm ở góc dưới hạt gạo, áp sát vào nội nhũ, chiếm khoảng 2,2 – 3% khối lượng
hạt gạo. Phôi còn là bộ phận chúa nhiều chất dinh dưỡng dự trữ nhất của hạt thóc. Thành
11


phần của phôi chiếm chủ yếu là protein, lipid, các vitamin (đặc biệt là vitamin nhóm B) và
các enzyme tiềm ẩn. Phôi là bộ phận có cấu tạo xốp, gồm những tế bào có kích thước lớn và
thành tế bào mỏng, 70% lượng ẩm mà hạt trao đổi với bên ngoài đều qua phôi mầm, cho nên
phôi là bộ phận có hoạt động sinh lý, sinh hóa rất mạnh cần được loại đi nếu muốn bảo quản
gạo được lâu. Trong quá trình tách vỏ trấu và xát trắng gạo, phôi bị bong ra hoàn toàn.
Nội nhũ: Đây là bộ phận có khối lượng lớn nhất của hạt thóc, chiếm tới 72% khối
lượng hạt. Trong toàn bộ hạt gạo, glucid chỉ khoảng 75% còn trong nội nhũ hàm lượng
glucid là 90% và thành phần chủ yếu của glucid nội nhũ là tinh bột. Tùy theo điều kiện canh
tác và bảo quản mà nội nhũ trắng trong hay trắng đục. Phần nội nhũ chính là phần tạo nên giá
trị sử dụng của hạt thóc trong các sản phẩm chế biến cũng như trên thị trường tiêu thụ thóc
gạo .[2]
Bảng 2.2: Thành phần hóa học của hạt gạo.[8]
Đường Cellulose Pantozan

Các chất

(%)

khác (%)

2,24


2,18

1,22

2,72

0,67

0,45

-

2,46

9,74

15,04

6,31

0,03

16,2

32,56

7,78

10,51


0,07

Protein

Tinh

phần

(%)

bột (%)

(%)

(%)

(%)

10,07

59,00

4,43

2,76

8,10

Nội nhũ


12,91

79,56

3,54

0,15

Phôi

41,3

Rất ít

25,12

Vỏ

28,7

Rất ít

4,18

Toàn bộ
hạt

Chất


Tro

Tên các

béo
(%)

Gạo lức và gạo trắng gần giống nhau về lượng calories, carbohydrate, chất béo và
protein nhưng một số vitamin như B1, B3 và chất khoáng như sắt đã bị mất trong quá trình
xay xát.
Các nhà khoa học đã tìm thấy ở trong chất cám bọc ngoài hạt gạo lức có chất dầu tên
là tocotrienol factor (TRF) có tác dụng khử trừ những chất hóa học gây nên hiện tượng đông
máu và đồng thời giảm cholesterol. Ngoài ra, trong chất cám bọc ngoài gạo lức còn có thêm
một chất khác có khả năng chống lại chất xúc tác enzyme HMG-CoA, một chất có khuynh
hướng giúp gia tăng lượng cholesterol xấu LDL.
Trong 100g bột mầm gạo lức chứa:
12


Sinh tố B1 (2,83 mg%) hiệu quả với chứng thiếu sinh tố và bệnh tê phù.
Sinh tố B2 (0,56 mg%) làm đẹp người.
Sinh tố B6 (5,30 mg%) chữa bệnh thần kinh, mất ngủ.
Sinh tố E (17,60 mg%) làm trẻ lại và cường tinh.
Chất mangan (39 mg%) đẩy mạnh sự phát dục.
Chất nai-a-min (6,80 mg%) phòng loét dạ dày mãn tính.
Acid pangtotenic (0,82 mg%) nhân tố đẩy mạnh sự trưởng thành.
Acid nicotinic (20,64 mg%) làm máu trong sạch, da dẻ mịn màng.
Ngoài ra, còn có sinh tố B12 hiệu quả đối với chứng thiếu máu, glu-ta-xion đề phòng
chướng ngại phóng xạ nặng, có acid glutamic chữa chứng nhức đầu, có thành phần sắt làm
cho máu trở nên trong lành, có các chất khoáng như can-xi, v.v…

Đặc biệt protein của gạo lức không có prolamin và do đó không có gluten.
Trong quá trình chế biến, thành phần của gạo có sự thay đổi.
Bảng 2.3: Thành phần hóa học của gạo lức xay.[8]
Hàm lượng % theo chất khô
Tên sản phẩm

Pr
otein

Gạo xay nguyên (gạo lức)

Chất béo

8,
76

2.1.3.1 Nước uống từ gạo lức
Quy trình được thực hiện như sau:

13

ro

1,
87

2.1.3.Các sản phẩm của gạo lức

T


Ce
llulose

1
,42

0,
84


Đường

Pectin

Gạo lức

Nước

Hương liệu

Làm sạch,
ngâm
Xay thô
Lọc sơ bộ
Nấu

Xay tinh
Lọc tinh
Phối trộn
Đồng hóa

Tiệt trùng
Làm nguội

Giống vi
sinh vật

Cấy giống
Lên men
Rót chai

Thanh trùng
Bảo quản

Sản phẩm

Hình 2.4: Sơ đồ Quy trình tạo thức uống lên men từ gạo lức
14

Màu


Rửa sạch tạp chất, dùng máy xay truyền thống (hai thớt đá thẳng đứng) hay máy xay
kiểu mới, hoặc máy xay sinh tố để xay, lượng nước khi xay bằng 3 – 5 lần lượng gạo.
Tiến hành lọc sơ bộ qua lớp vải lọc nhằm loại bỏ một phần tạp chất.
Bổ sung nước với tỷ lệ nhất định rồi gia nhiệt lên 1000C trong 45 phút. Sau đó, đem
dung dịch đi xay một lần nữa.
Cuối cùng là, công đoạn lọc tinh nhằm giúp cho sản phẩm khi hoàn thành có màu sắc
trong và loại bỏ hoàn toàn các tạp chất.
Đổ đường và pectin vào nước, hòa tan hoàn toàn dung dịch và lọc qua tấm vải để loại
bỏ phần cặn.

Lấy phần dịch bổ sung vào dịch gạo sau khi đã lọc xong với một tỷ lệ nhất định.
Dịch nước gạo sau khi lên men xong, thì đem bổ sung thêm đường, hương liệu và
một số màu thực phẩm thích hợp để tăng tính cảm quan của sản phẩm.
Sản phẩm sau đó được đem đi rót chai trong điều kiện vô trùng tuyệt đối. Trước khi
rót chai, dịch gạo phải được kiểm tra các chỉ tiêu hóa lý và cảm quan.
Chế độ thanh trùng thường là 750C trong vài phút. Nếu thanh trùng quá mức có thể
làm mất màu, mất mùi sản phẩm và các vi sinh vật có lợi.
Sản phẩm cần được bảo quản ở nhiệt độ từ 4 – 60C trong tủ lạnh.
Quá trình lên men có thể chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn đầu: 0 – 80 giờ chủ yếu là sinh khối, đường tiêu hao chậm, acid lactic tích
tụ ít.
Giai đoạn 2: 80 – 135 giờ là giai đoạn tạo acid lactic mạnh nhất, vì vậy lượng đường
tiêu hao rất nhanh.
Giai đoạn 3: là giai đoạn lên men cuối cùng của sản phẩm, tốc độ lên men chậm vì
lượng acid sản sinh ra nhiều ức chế lại sự hoạt động của vi khuẩn lactic
2.1.3.2 Gạo lức muối mè
Phương pháp điều trị bệnh tật bằng cách ăn "gạo lức, muối mè" được gọi là "phương
pháp thực dưỡng" (Macrobiotics), ra đời bởi giáo sư người Nhật có tên Sakurazawa Nyoichi
mà bây giờ, người ta vẫn quen gọi là phương pháp Oshawa. Phương pháp này không chỉ
được áp dụng ở các nước phương Đông mà còn được biết đến ở một số nước phương Tây.
15


Với nước ta, các bác sĩ nghiên cứu áp dụng phương pháp này cho biết, việc ăn gạo
lức muối vừng đã giúp nhiều người chữa khỏi bệnh mãn tính mà không cần dùng đến thuốc.
Một số người áp dụng biện pháp này trên 10 năm, có người trên 20 năm mà không thấy biểu
hiện thiếu chất.
Chất selen đã được y học chứng minh rằng có khả năng ngăn ngừa ung thư, chất
glutathion thì phòng nhiễm bụi phóng xạ, acid pantotenic giúp tăng cường chức năng của vỏ
não, chống viêm da, u bướu ác tính nên việc duy trì một chế độ ăn gồm toàn gạo lức, muối

mè để phòng ngừa và chữa bệnh ung thư là có cơ sở.
Ở Việt Nam, phương pháp thực dưỡng bằng gạo lức, muối mè bắt đầu xuất hiện vào
khoảng năm 1963.
2.1.3.3 Gạo lức rang
Gạo rang có chứa các hợp chất melanoidine và caramel, các hợp chất này có tác dụng
hạn chế vi khuẩn phát triển, đồng thời tạo ra mùi thơm và màu nâu cho sản phẩm. Tuy nhiên
không nên rang quá cháy sẽ có hại cho sức khỏe (hội Y Học TP.HCM,2007).
2.1.4 Giá trị dinh dưỡng của gạo lức
Những ích lợi cho sức khỏe của gạo lức bắt đầu với chất xơ của nó, 300g gạo lức
cung cấp khoảng 14% giá trị dinh dưỡng hàng ngày của chất xơ, đã được chứng minh là có
thể giảm lượng cholesterol. Nói cách khác gạo lức dùng để chống xơ vữa động mạch. Chất
xơ cũng có thể giúp đỡ cơ thể bằng cách giữ cho mức đường trong máu dưới mức kiểm soát,
do đó gạo lức là một lựa chọn ngũ cốc tuyệt vời cho người bị tiểu đường.
Nhiều nghiên cứu khoa học chứng minh rằng trong lớp cám của gạo lức chứa một
chất dầu đặc biệt có tác dụng điều hòa huyết áp, làm giảm cholesterol xấu, giúp ngăn ngừa
qua các bệnh về tim mạch. Đặc biệt, đối với phụ nữ, nó làm giảm nguy cơ ung thư và ruột
kết, giảm cholesterol và tốt cho hệ tim mạch của phụ nữ sau mãn kinh.
Đồng thời, với nguồn chất xơ dồi dào, gạo lức giúp chống lại bệnh xơ vữa động
mạnh, ung thư vú, giảm nguy cơ mắc bệnh tim, ung thư và bệnh tiểu đường.
Cám là lớp vỏ ngoài màu nâu của hạt gạo đã được sử dụng qua nhiều thế kỷ trong kỹ
thuật chăm sóc da. Các thành phần chính có trong gạo gồm:

16


Acid cám gạo: Cám gạo chứa đến 10% canxi ion giúp nới lỏng sự liên kết giữa các tế
bào chết xỉn màu trên bề mặt da. Đồng thời chúng kiểm soát và ngăn ngừa các đốm nâu xuất
hiện do tuổi tác.
Tocopherols/tocotrienols: Các dẫn xuất vitamin E và thành phần hiệu nghiệm khác
giúp bảo vệ da khỏi các tác động xấu của môi trường và làm chậm quá trình lão hóa.

Proanthocyanidins: Các chất ức chế enzyme giúp bảo vệ sự liên kết và độ đàn hồi của
da, giúp da giữ được sự mềm mịn và săn chắc.
Những hạt gạo lức sẽ bổ sung thêm các loại vitamin nhóm B, kiểm soát lượng đường
trong máu và làm cho tính khí dễ chịu hơn.
Nghiên cứu dược lý thực nghiệm cho thấy cám gạo có tác dụng bảo vệ chống viêm
dây thần kinh và trị các bệnh về da. Cám tinh thu được sau khi chà xát gạo có tác dụng làm
tăng huyết sắc tố trong máu, chống thiếu máu. Thử nghiệm lâm sàng trên người cho thấy
hoạt chất trong dầu cám gạo có tác dụng làm hạ nồng độ cholesterol trong máu. Dầu cám gạo
là một hoạt chất chiết từ cám gạo có tác dụng chống ung thư, có thể do khả năng kích thích
hoạt tính miễn dịch của cơ thể bệnh nhân ung thư.
Chất xơ còn có tác dụng giúp no lâu nên khi ăn cơm gạo lức, bạn sẽ không bị tăng
cân.
Theo nhiều nghiên cứu khoa học cho biết chất xơ trong gạo lức giúp phòng ngừa các
bệnh liên quan đến đường tiêu hóa và bệnh tim mạch. Viện Ung Thư Quốc Gia Hoa Kỳ
khuyến cáo nên dùng 25 grams chất xơ mỗi ngày. Với 300g cơm gạo lức cung cấp 3,5g trong
khi đó cơm gạo trắng chỉ cho có 1g.
Ăn gạo lức thường xuyên giúp cơ thể dẻo dai, gân cốt cứng cáp, hoạt bát, đỡ đau
nhức xương khớp. Ở những người bị thừa cân (béo phì), nếu dùng gạo lức lâu dài sẽ giảm
cân và cũng gián tiếp tránh được bệnh tiểu đường.
Đối với những người lo lắng về nguy cơ mắc bệnh ung thư trực tràng, gạo lức có tác
dụng gấp 2 lần vì nó là nguồn chứa lượng chất xơ cần thiết để gia hạn tối đa thời gian các
chất gây ung thư tiếp xúc với tế bào trực tràng. Đó là do các chất xơ này ràng buộc những
hóa chất gây ung thư, cách li chúng khỏi những tế bào gắn trên ruột kết, đồng thời giúp bình
thường hóa chức năng ruột, giảm chứng táo bón hay bệnh tiêu chảy ở những người mắc hội
chứng ruột kích thích (IBS).
17


Tác dụng của selen có trong gạo lức.
Ngoài việc cung cấp 14% lượng chất xơ cần thiết hàng ngày, một chén cơm gạo lức

còn cung cấp 27,3% lượng giá trị dinh dưỡng hàng ngày đối với selen. Đây là một lợi ích
quan trọng vì selen là một vi khoáng quan trọng thiết yếu cho sức khoẻ con người.
Chất selen là thành phần thiết yếu của một vài con đường trao đổi chất trong cơ thể,
bao gồm sự trao đổi chất hormone tuyến giáp, hệ thống phòng chống sự oxi hoá và hệ miễn
dịch. Các thí nghiệm nghiên cứu trên mẫu động vật cho thấy rõ ràng là giữa lượng selen đưa
vào cơ thể và nguy cơ mắc phải ung thư có mối liên quan tỷ lệ nghịch với nhau. Selen giúp
thúc đẩy sự phục hồi và tổng hợp ADN trong các tế bào bị phá huỷ, ngăn chặn sự sinh sôi
của các tế bào ung thư, gây ra các phản ứng dị ứng của nó, kết quả sự tự phá huỷ của cơ thể
đối với các tế bào ốm yếu hay bất bình thường.
Selen kết hợp chặt chẽ với các cofactor như glutathione peroxidase rất quan trọng đối
với quá trình chống ung thư. Không những thế, nó còn kết hợp với vitamin E trong rất nhiều
hệ thống chống oxi hoá thiết yếu cho sự sống của cơ thể người. Các hoạt động chống oxi hoá
mạnh mẽ này của selen khiến cho selen rất hữu ích trong việc phòng chống không chỉ ung
thư mà còn cả nguy cơ đau tim, cũng như làm giảm các triệu chứng của bệnh hen suyễn, các
cơn đau và sưng khớp.
Tác dụng của mangan có trong gạo lức
Tạo năng lượng và bảo vệ quá trình chống oxy hoá
Chỉ cần một chén cơm gạo lức cũng đủ để cung cấp 88% lượng mangan cần thiết
hàng ngày. Vi chất khoáng này giúp tạo năng lượng từ protein và carbonhydrat, tham gia vào
quá trình tổng hợp acid béo rất cần thiết cho một hệ thần kinh khoẻ mạnh cũng như quá trình
sản xuất cholesterol cần thiết cho cơ thể để sản xuất ra các hormone giới tính.
Mangan cũng là thành phần chính của 1 loại enzyme chống oxi hoá rất quan trọng tên
là superoxide dismutase (SOD). SOD được tìm thấy ở ty thể trong tế bào của cơ thể giúp
ngăn chặn ảnh hưởng xấu của các gốc tự do được giải phóng trong quá trình giải phóng năng
lượng.
Magiê là một chất dinh dưỡng khác cũng có nhiều trong gạo lức, đã được chứng minh
trong các nghiên cứu là có tác dụng giảm tính khắc nghiệt của bệnh hen suyễn, giảm huyết
áp, giảm sự thường xuyên của các cơn đau nửa đầu, giảm nguy cơ của các cơn đau tim và đột
quỵ.
18



Nhiều nghiên cứu khoa học gần đây cho biết những thực phẩm có nhiều chất xơ, như
gạo lứt và các loại đậu khác có khả năng ngăn ngừa bệnh ung thư ruột không phải vì chất xơ
mà chính là chất phytate chứa trong chất xơ. .[17]
2.2. Giới thiệu về nguyên liệu gừng
2.2.1 đặc tính sinh học cơ bản của gừng
Bộ: Zingiberales
Họ: Zingiberaceae
Chi: Zingiber
Loài: Z. officinale
Tên khoa học: Zingiber oficinale Rosc
Gừng còn sống gọi là sinh khương, có tác dụng phát tán phong hàn, chống nôn ói.
Gừng sấy khô gọi là can khương, có tính nóng hơn sinh khương, có thể làm ấm tỳ vị.
Gừng là loại cây nhỡ, sống được lâu năm, có thể cao từ 50 – 100 cm tùy theo đất, có
nơi cao hơn 150 cm. Gừng phát triển thân rễ ngầm ở dưới đất. Lá màu xanh đậm dài khoảng
15 – 20 cm, rộng khoảng 2 cm, mặt nhẵn bóng, gân ở lá hơi nhạt. Bẹ lá ôm sát vào nhau phát
triển thành thân giả trên mặt đất. lá mọc so le, lá trơn, không có cuống, hình mũi mác, mép lá
không có răng cưa Đỗ Tất Lợi, 1991).
2.2.2 Phân bố sinh thái
Hiện nay trên thế giới, gừng là loại cây được trồng phổ biến, xuất hiện ở nhiều nơi
như các nước Đông Nam á, ấn Độ, nam Trung Quốc, Tây Phi vá Châu Đại Dương.
ở Việt Nam cây gừng được trồng khá phổ biến từ Bắc vào Nam, nhưng chủ yếu được
trồng với quy mô nhỏ, trong các hộ gia đình với sản lượng chưa nhiều, cung cấp cho thị
trường địa phương và trong nước là chính. Cây gừng thích hợp ở vùng có mùa khô ngắn, có
nhiệt độ không khí tương đối cao trong thời kỳ củ gừng thành thục. vì vậy, khí hậu ở nhiều
địa phương miền Nam nước ta thích hợp cho trồng gừng. Muốn có gừng tươi (sinh khương)
thường đào củ vào mùa hè nva2 mùa thu. Sau khi trồng 9 tháng, tiến hành thu hoạch củ
gừng, trong giai đoạn này lá cây bắt đầu chuyển sang màu vàng, cong lại, một số lá bắt đầu
khô héo. Tốt nhất là nên thu hoạh củ khi toàn bộ phần trên mặt đất của cây gừng đã tàn lụi.

Lúc này, củ gừng đã thật già, củ gừng có khả năng sống dai, khi củ bị đào lên khỏi mặt đất
19


chúng vẫn tồn tại một tiềm năng tái sinh lớn dù bảo quản trong một thời gian bất lợi (trừ khi
bị sấy khô hay bị xử lý hóa chất), chỉ cần một đoạn thân rễ còn sót lại trong đất hay vùi trong
đất, gặp điều kiện tốt đều có khả năng tái sinh. Muốn giữ gừng tươi lâu phải đặt vào chỗ
mát, phủ đất lên cho kín, khi dùng bới ra rửa sạch.
Nói chung, ở việt nam và trên thế giới, điều kiện khí hậu và đất đai, có đủ khả năng
cho cây gừng phát triển, có thể cung ứng củ gừng nguyên liệu một cách dồi dào nếu sản xuất
cần và có kế hoạch phát triển.
2.2.3 Các giống gừng
Trong sản xuất và trong tự nhiên ở nước ta phổ biến có 3 loài
Gừng dại (Zingiber cassumuar) củ khá to, nhiều xơ, vị cay, nhiều mùi hăng, thịt củ
màu vàng xanh được dùng làm thuốc, gia vị, thường mọc hoang dại trong tự nhiên
Gừng gió (Zingiber Zerumbet) ít được gây trồng, củ chỉ dùng làm dược liệu
Loài gừng trồng phổ biến (Zingiber officinale) trong sản xuất có hai giống khác nhau
Gừng trâu, củ to, ít xơ, ít cay, thích hợp cho xuất khẩu
Gừng dé được gây trồng phổ biến, cho củ nhỏ hơn, vị cay và nhiều xơ hơn, hiện nay
đang được bán nhiều ở thị trường trong nước
Ở Việt Nam cây gừng được trồng khá phổ biến từ Bắc vào Nam, nhưng chủ yếu được
trồng với quy mô nhỏ, trong các hộ gia đình với sản lượng chưa nhiều, cung cấp cho thị
trường địa phương và trong nước là chính. Cây gừng thích hợp ở
2.2.4 Giá trị dinh dưỡng của gừng
Ngoài thành phần chính là nước, cacbohydrat và xơ, gừng còn chứa rất nhiều loại
vitamin và khoáng chất cần thiết cho cơ thể. Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong gừng
được trình bày trong Bảng 2…

20



Bảng 2.4: Gía trị dinh dương của gừng
Củ gừng tươi Giá trị dinh dưỡng trên 100 g (3,527 oz)
Năng lượng 20 kcal 80 kJ
Cacbohydrat

17.77g

Đường

1.7 g

Xơ tiêu hóa

2g

Chất béo

0.75 g

0.75 g

Protein

1.82 g

1.82 g

Thiamin (Vit. B1)


0.025 mg

2%

Riboflavin (Vit. B2)

0.034 mg

2%

Niacin (Vit. B3)

0.75 mg

5%

Axit pantothenic (B5)

0.203 mg

4%

Vitamin B6

0.16 mg

12%

Folat (Vit. B9)


11 μg

3%

Vitamin C

5 mg

8%

Canxi

16 mg

2%

Sắt

0,6 mg

5%

Magie

43 mg

12%

Photpho


34 mg

5%

Kali

415 mg

9%

Kẽm

0,34 mg

3%

Các phần trăm là theo khuyến cáo của Mỹ cho người lớn.
Nguồn: Cơ sở dữ liệu dinh dưỡng của USDA
( />2.2.5 Giá trị sử dụng của gừng
Gừng là một loại dược thảo với nhiều tác dụng:
Ngăn cản sự tạo thành của những cục máu đông, nhờ đó có thể ngăn ngừa chứng đau
thắt ngực, nhồi máu cơ tim
Ngăn cản sự tăng cholesterol trong máu, có tác dụng hạn chế tăng mỡ máu, gang
nhiễm mỡ, huyết áp cao

21


Giúp cho hệ thống miễn dịch làm việc hiệu quả, tăng khả năng chống lạnh, chịu lạnh
và hạn chế các bệnh viêm nhiễm, ức chế thần kinh trung ương, ức chế hoạt động của

histamin, dẫn đến giảm co thắt cơ trơn, giảm cơn dị ứng. do đó, gừng có tác dụng tốt trong
việc chữa trị nôn mửa (thai nghén, say tàu xe hay do hóa trị, xạ trị…)mà không gây tác dụng
phụ như các thuốc chống nôn hóa học.
Giúp hệ tiêu hóa làm việc tốt hơn nhờ khả năng kích thích tuyến nước bọt, dịch mật,
kích thích sự vận chuyển trong đường tiêu hóa. Kích thích sự phát triển của các vi khuẩn có
ích trong đường tiêu hóa , có tác dụng chống rối loạn tiêu hóa do kháng sinh.
Gừng cũng làm giảm bài tiết dịch vị, ức chế các loại vi khuẩn gây bệnh dạ dày.
Chống phù nề, giảm đau, chống hen. Gừng được dùng để trị các chấn thương phần
mềm (làm thuốc đắp và uống ), hen, ho, đau răng, thấp khớp…
Ngoài ra gừng còn có tác dụng phòng sỏi mật, phòng chống các bệnh ung thư, chống
lão hóa, sốt, điều hòa thân nhiệt, giúp ra mồ hôi.
Bên cạnh đó, gừng còn được dùng nhiều trong chế biến món ăn.
Trong nghệ thuật ẩm thực Trung Hoa , gừng thường được luộc hay chiên, dùng trong
các món thịt cá hay hải sản. người Thái Lan lại thích cho gừng bào và một số thành phần
khác vào cari kem sữa dừa. ở Nhật, người ta ướp gà bằng nước ép của củ gừng tươi.
ở Việt Nam, cây gừng được trồng và bán khắp nơi. Gừng thường được dùng làm gia
vị khá phổ biến như mắm gừng, các món kho, hay gừng vào chè càng thơm ngon. Nước chè
cho thêm vài lát gừng vừa ngon miệng vừa chống viêm họng. dùng lá gừng bọc thức ăn sẽ
làm cho thức ăn đỡ ôi thiêu…
trong ngành chế biến thực phẩm, gừng cũng đã được sử dụng rất phổ biến. chúng ta
có thể tìm thấy rất nhiều các sản phẩm làm từ gừng như trà gừng túi lọc, trà gừng hòa tan, trà
gừng tươi… hay gừng ngâm giấm, bánh gừng, kẹo gừng, mứt gừng …ngoài ra, hiện nay còn
có loại thực phẩm chức năng được chế biến dựa trên sự kết hợp của gừng và gạo lức như
nước uống lên men lactic từ gạo lức , gừng và khoáng chất.
2.3. Giới thiệu trà
2.3.1 Lịch sử hình thành và phát triển của trà
Trà có một lịch sử tồn tại và phát triển lâu đời, có nguồn gốc từ vùng cao nguyên Vân
Nam Trung Quốc. người Trung Quốc đã biết dùng trà cách đây 4000 năm, sau đó tới Nhật
22



Bản và nhiều nước Châu Á khác. Cho đến nay trà đã trở thành một thức uống phổ biến trên
thế giới nhờ vào công cụ giải khát và tác dụng có lợi cho sức khỏe của con người. chính do
thị trường tiêu thụ rộng đã tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực chế biến trà phát triển đồng
thời tạo ra tính đa dạng phong phú cho sản phẩm trà. Uống trà thậm chí được nâng lên thành
nghệ thuật với những nghi thức đặc biệt và trang trọng. nhịp sống hối hả hiện đại thúc đẩy
ngành công nghệ nước uống phát triển mạnh mẽ.
Trên thị trường, ta có thể tìm thấy các loại trà đã được sử dụng phổ biến từ lâu đời
như trà xanh, trà đen, trà Oolong… cho đến những loại trà phục vụ đời sống công nghiệp
hiện đại như trà túi lọc, trà hòa tan, … có nguồm gốc từ thiên nhiên như trà khổ qua, trà
gừng, trà hoa cúc… các sản phẩm này đều được dùng như một dược liệu bên cạnh công dụng
giải khát của chúng ( Lương Hồng Quang, 2004).
2.3.2 Phân loại trà
Tùy theo thành phần, cách chế biến, loại hình sử dụng và công dụng của trà mà người
ta chia trà thành nhiều loại khác nhau.
Căn cứ vào thành phần có thể chia làm 3 loại:
Trà dược đơn hành
Trà dược tương phối
Dĩ dược đại trà
Căn cứ cách chế biến có thể chia thành hai loại chính:
Trà hỗn hợp
Trà đóng thành bánh
Tùy theo dạng sử dụng mà chia thành các loại:
Trà hãm
Trà ngâm
Trà sắc
Trà hòa tan…
Tùy theo công dụng mà chia thành các loại:
Trà dưỡng sinh ích thọ
23



Trà giải cảm
Trà thanh nhiệt
Trà giảm béo
Trà ích khí tăng lực…
2.3.3 Các loại trà dược thảo trên thị trường
2.3.3.1 Trà hà thủ ô
Được chế biến từ hà thủ ô và thục địa, tốt cho người bị suy gan thận, suy nhược thần
kinh, thiếu máu , di mộng tinh, phụ nữ sau khi sanh, d9c85 biệt giúp đen râu tóc, tăng cường
sinh lý, tăng tuổi thọ.

Hình 2.5: Trà Hà Thủ Ô
2.3.3.2 Trà gừng
Dùng trong các trường hợp cảm lạnh, nhức đầu, cảm cúm, lạnh bụng, ho do lạnh, cơ
thể đau mỏi, sau khi tắm, các trường hợp đầy bụng khó tiêu, rối loạn tiêu hóa, dùng lâu dài
ổn định huyết áp, chóng nôn khi đi tàu xe, chóng buồn nôn khi mang thai.

Hình 2.6: Trà Gừng
2.3.3.3 Trà khổ qua

24


Được chế biến từ trái khổ qua, có tác dụng chữa bệnh mất ngủ, nhuận tràng, mát gan,
giải nhiệt, giải độc, lợi tiểu, phòng cảm cúm, giảm chất béo trong cơ thể, phòng ngừa bệnh
tiểu đường, bệnh sỏi thận.

Hình 2.7: Trà Khổ Qua
2.3.3.4 Trà atiso

Được chế biến từ rễ, thân, lá cây atiso, có tác dụng hạ cholesterol, ure6, lipid trong
máu, tạo mật, tăng tiết mật, lợi tiểu, chũa các chứng bệnh về gan, thận, giảm tác hại khi ngộ
độc rượu, mát gan, nhuận tràng.

Hình 2.8: Trà Atiso
2.3.3.5 Trà hoa cúc
Được chế biến từ loại hoa cúc vàng, có vị ngọt, hơi đáng và cay, loại hoa cúc trắng có
vị ngọt đáng và mát. Có tác dụng trị các chứng nhiệt, nhức đầu, hoa mắt, giải rượu, trị bệnh
cao huyết áp và đái tháo đường.

25


×