Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

SỰ HÌNH THÀNH CA HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.95 KB, 15 trang )

/>Du Lịch Huê - Ca Huê - bộ môn ca nhạc bác học duy nhất trong nghệ thuật âm
nhạc dân tộc – gắn với địa danh là kinh đô của cả nước dưới triều Nguyễn (1802 –
1945), vương triều phong kiên cuối cùng của Việt Nam.
Ngay từ nửa đầu thế kỷ XVIII, danh nhân Đào Duy Từ đã có công lớn trong việc giúp
các chúa Nguyễn xây dựng âm nhạc cung đình, đồng thời khuyến khích phát triển âm
nhạc dân gian. Ông đã lập ra Hòa Thanh thự để huấn luyện múa hát; biên soạn, cải
biên nhiều điệu múa, bản nhạc phục vụ cho cung đình chúa Nguyễn. Tiếp tục truyền
thống của các vương triều trước, ngay sau khi thành lập, triều đình nhà Nguyễn đã lập
các đội nhạc ngự để đảm nhận việc nhạc triều. Ngoài việc phục vụ các nghi lễ của triều
đình, các nhạc công còn được các ông hoàng bà chúa, quan lại, nho sỹ… mời về tại
dinh để học đàn, hoặc thưởng thức tài nghệ của những nghệ nhân, nghệ sỹ. Các phòng
nhạc cũng ra đời từ đó. Theo thời gian, bộ môn ca nhạc bác học này được định danh là
ca Huế.
Một sự tự nhiên là xuất phát từ nhu cầu sáng tác, biểu diễn, thưởng thức các bản nhạc
mới là sự ra đời và hoàn thiện các nhạc cụ mới bên cạnh những nhạc cụ đã có. Một
nhạc cụ gắn với hình thành ca Huế được đặt tên là nam cầm – với ý nghĩa cây đàn do
người Việt sáng chế ra. Đáng tiếc là nhạc cụ này không hiểu sao ngày nay không còn.
Theo giáo sư Bửu Cầm thì ông Nguyễn Phúc Dục, một hoàng thân của nhà Nguyễn
thời chúa Duệ Tông (1765 – 1777) là tác giả của cây đàn này. Giáo sư Bửu Cầm cho
biết: “Dục rất tinh nhạc lý, xét nghiệm âm điệu tiết tấu chẳng bao giờ sai lầm. Thường
hiềm vì điệu nam rất cao, đàn xưa nhấn nhịp không đúng, Dục mới chế tạo ra nam
cầm. Đàn có tám dây, thùng dày và vuông, cần đàn dài ba thước mộc, hợp đàn cầm,
đàn sắt và đàn tỳ bà làm một; tiếng đàn thanh, lấn cả đàn tranh, đàn nguyệt”. (Huế Xưa
và Nay số 103 Xuân Tân Mão 2011 tr.56).

Biểu diễn ca Huế tại Nghinh lương đình. Ảnh: Internet
Thoạt đầu, việc thưởng thức các bản nhạc được chưng cất từ nhiều nguồn: nhạc cung
đình, nhạc tôn giáo, nhạc dân gian trở thành thú vui tao nhã của giới thượng lưu. Tiếp
đó, chính họ - những nhà nho, nhà thơ đã sáng tác lời ca đi kèm các bản nhạc đó vừa là
cái thú ngâm vịnh văn chương, giãi bày tâm sự, vừa làm cho cái thú tiêu khiển thêm thi
vị. Hiểu biết thưởng thức ca Huế có thể nói là đã trở thành một trong những tiêu chuẩn


về nhân cách quý tộc trong giới hoàng thân, quốc thích, tầng lớp nho sỹ… Nhiều bản
nhạc được soạn thảo thêm cùng với nhu cầu thưởng thức ngày càng cao của giai cấp
phong kiến quý tộc, các văn nhân, nho sỹ. Nhạc sỹ Phạm Duy trong Đặc khảo về dân
nhạc ở Việt Nam (NXB Hiện đại – Sài Gòn 1972) dẫn lại tài liệu của giáo sư Hoàng
Xuân Hãn cho biết, dưới thời Tự Đức (1847 – 1883) có ít nhất hai mươi lăm bản nhạc
được hình thành. Một số bản nhạc có lời ca. Chắc chắn còn nhiều bài bản hơn thế nữa.
Một số bài có lời ca viết bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm. Các bản nhạc thời kỳ ấy là:


Lưu Thủy chậm, nhanh; Cổ Bản; Phú Lục chậm, nhanh; Thập thủ liên hoàn gồm:
Phẩm Tuyết, Nguyên Tiêu, Hồ Quảng, Liên Hườn (Liên Hoàn), Bình Bản (Bình Bán),
Tây Mai, Kim Tiên (Kim Tiền), Xuân Phong, Long Hổ, Tẩu Mã; Đảo Ngũ Cung; Hạ
Giang Nam; Nam Chiến; Nam Xuân; Ai Giang Nam; Nam Ai; Nam Bình; Quả Phụ;
Tứ đại cảnh; Hành Vân.
Có ba điệu lý cũng được đưa vào cho là ca Huế trong “Đặc khảo về dân nhạc ở Việt
Nam” là lý Tử vi, lý Con sáo và lý Nam xang, nhưng chúng tôi không xếp vào các
bài bản ca Huế. So sánh với các bài bản ca Huế đang được lưu hành thì có bản khác
với âm nhạc hiện nay, hoặc không còn phổ biến nữa.
Từ thú tiêu khiển “ngắm hoa, thưởng nguyệt” trong cảnh gió mát trăng trong, gửi lòng
mình trong tiếng đàn, lời ca; giới văn nhân, quý tộc đã sáng tác thêm lời ca. Chính vì
thế mà lời ca Huế có tính văn học cao. Các hình thức ca tri âm, ca sông Hương, ca sa
lông phục vụ giới thượng lưu ra đời. Mặt khác, các bài bản ca Huế còn tiếp thu tinh
hoa của dân ca, “cổ điển” hóa thành các bài bản.
Một trong những dẫn chứng rõ nhất mà ca Huế đã thu nạp, hoặc chịu ảnh hưởng của
dân ca (theo nhạc sỹ Phạm Duy – sách đã dẫn) là hai bài Tứ đại cảnh của ca Huế
và Khi tương phùng của dân ca Quan họ “nét nhạc hai bài giống hệt nhau,
nhưng Tứ đại cảnh nằm trong ngũ cung lơ lớ”.
Tứ đại cảnh
Nghe tiếng đàn
Thêm nhớ bạn

Sông dần cạn
Dạ em vẫn chưa sờn
Chưa bao giờ
Gặp mặt ân nhân

Khi Tương phùng
Khi tương phùng
Khi tương ngộ
Xuôi lên bộ
Văng vẳng tiếng tơ tình
Chiêm bao lần
Lần chần năm canh



Thuật ngữ ca Huế được hiểu là những bài hát hình thành nên từ vốn âm nhạc cung
đình, tôn giáo và sự cách điệu từ các làn điệu dân ca khắp các miền của đất nước mà
chủ yếu là các điệu lý, hò ở Bình Trị Thiên. Như vậy, hai nguồn âm nhạc cổ điển và
âm nhạc dân gian đã hình thành nên ca Huế.
Ca Huế phát triển nhất từ những năm bảy mươi của thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Do
bắt nguồn từ nhu cầu thưởng thức, tiêu khiển, ngâm vịnh của giai cấp quý tộc, phong
kiến mà các bài bản buồn (các điệu Nam) của ca Huế được xem là thành công nhất.
Minh Kiêm

/>TÔN THẤT BÌNH Ca Huế là loại nhạc cổ truyền được phát sinh và phát
triển lâu đời. Tuy nhiên, tìm hiểu nguồn gốc và thời điểm phát sinh
thì có nhiều ý kiến khác nhau.

Một buổi biểu diễn ca Huế trên sông Hương - Ảnh: Internet
Trước khi trình bày luận điểm của mình, chúng tôi xin trình bày ý kiến của những

người đi trước:
Văn Lang trong “Ca Huế và ca kịch Huế” nêu ý kiến về nguồn gốc và thời điểm phát
sinh ca Huế:
“Nếu xác định rằng dưới triều Lý, hát tuồng đang trên đường hình thành mà nhạc tuồng
là xuất phát từ nhạc cung đình, thì chúng ta có thể nói nhạc cung đình phải hình thành
trước đó, ít nhất cũng từ thế kỷ X. Do vậy cho phép chúng tôi được nói ca nhạc Huế


(tức ca nhạc cổ truyền) cũng bắt nguồn từ đấy (…)
Cứ thế, ca nhạc cổ truyền được phát triển qua nhiều triều đại với nhiều thế kỷ, và cuối
cùng quy tụ lại trên mảnh đất Thuận Hóa. Thời điểm quy tụ có thể căn cứ vào hai sự
kiện lịch sử dưới đây mà nhiều người đã từng nói đến.
1. Nguyễn Hoàng, con trai Nguyễn Kim - phải vận động xin vào trấn thủ Thuận Hóa
(năm 1558) và kiêm trấn thủ Quảng Nam (năm 1570).
2. Từ thế kỷ XVII họ Nguyễn ở Đàng Trong đã đẩy mạnh công cuộc khai hoang (…)
với điều kiện kinh tế ở Thuận Hóa ngày càng được phát triển, đồng thời gặp mảnh đất
giàu có về thơ ca đầy chất trữ tình, ca nhạc cổ sau khi quy tụ ở đây càng có điều kiện
phát triển phong phú, dần dần được hình thành rõ nét và trở nên hoàn chỉnh”. (1)
Ưng Bình Thúc Giạ Thị đoán định:
“Duy điệu ca khởi điểm từ đời nào, khi nào, sử thơ không truyền lại, chỉ thấy thời đại
yêu chuộng nghề văn mà đoán, thời khởi điểm từ đời Hiếu Minh” (2) (Chúa Nguyễn
Phúc Chu - TTB chú).
Thái Văn Kiểm trong “Cố đô Huế” nhất trí với cụ Ưng Bình: “Còn như các điệu ca
Huế thì có lẽ như mới sản xuất từ đời Chúa Minh Tộ Quốc công Nguyễn Phúc Chu, tức
là Hiển Tông Hiếu Minh Hoàng đế (1691 - 1725)” (3).
Lê Văn Hảo lại cho rằng:
“Thời kỳ hình thành và bước đầu phát triển của ca nhạc Huế là vào khoảng từ cuối thế
kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII.
Giữa thế kỷ XVIII, ca múa nhạc đã phát triển phong phú tại đô thành Phú Xuân”. (4)
Văn Thanh, trong thay lời tựa sách “Tìm hiểu ca Huế và dân ca Bình Trị Thiên” khẳng

định:
“Được hình thành từ thế kỷ XIX, nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ XX, ca Huế mới thực
sự hoàn chỉnh và thời gian cực thịnh của ca Huế là vào khoảng những năm của thập
niên 20 cho đến khi thế chiến thứ hai bùng nổ”.
Giáo sư Trần Văn Khê cũng bàn về thời điểm hình thành ca Huế:
“Không có sử liệu nào nói rõ lối ca Huế có từ bao giờ, chỉ biết rằng ca Huế không phải
là loại nhạc dân gian, vì nó chỉ được giới quyền quý hoặc trong cung đình sử dụng. Vậy
có thể nói rằng đây là loại quan nhạc chứ không phải là loại dân nhạc”.(6)


Qua các ý kiến trên, chúng ta nhận thấy chỉ có Văn Lang và giáo sư Trần Văn Khê đề
cập đến nguồn gốc ca Huế là nhạc cung đình. Các ý kiến của Ưng Bình Thúc Dạ Thị,
Lê Văn Hảo, Thái Văn Kiểm, và Văn Thanh lại đề cập đến sự hình thành của ca Huế
với những giả thiết khác nhau. Đa số thống nhất ca Huế hình thành vào cuối thế kỷ
XVII, đầu thế kỷ XVIII, dưới thời đại chúa Nguyễn Phúc Chu cầm quyền (1691 1725). Riêng Văn Thanh lại cho ca Huế hình thành từ thế kỷ XIX. Chúng tôi sẽ bàn
định về những ý kiến này:
Về nguồn gốc sâu xa của ca Huế, Văn Lang dựa vào nguồn gốc nhạc tuồng là nhạc
cung đình mà cho rằng ca Huế (tức nhạc cổ truyền) cũng phát xuất từ đấy.
Ý kiến này tuy có cơ sở khi căn cứ trên lịch trình tiến triển của ca Huế, nhưng chúng
tôi nghĩ rằng còn có thể bổ sung thêm. Ngọn nguồn sâu xa của âm nhạc dân tộc bao giờ
cũng có nguồn từ dòng âm nhạc của dân tộc đó. Ca nhạc Huế không ra ngoài quy luật
ấy.
Ngọn nguồn của nó là dòng âm nhạc chuyên nghiệp của cư dân Việt, vốn manh nha
trong các thời Lý, Trần, Lê, đã vào xứ Huế qua các cuộc di dân của người Việt ở Nghệ
Tĩnh, Thanh Hóa và miền đồng bằng Bắc Bộ. Ngọn nguồn thứ hai ẩn sâu hơn, nó
không trực tiếp và mạnh mẽ tác động vào ca nhạc Huế, nhưng thấm đậm sâu sắc, hồn
nhiên đó là dòng âm nhạc dân gian ngàn đời của dân tộc. Có lẽ do ngọn nguồn này mà
sau một thời kỳ phát triển mạnh mẽ ở cung đình trong các sinh hoạt ca hát vui chơi của
tầng lớp thống trị, ca Huế lại trở thành phổ biến ở dân gian. Nó trở về với dân gian do
tự bản thân đã chan hòa tình cảm lắng đọng và tràn đầy dân tộc tính.

Kiến giải của giáo sư Trần Văn Khê liên quan đến cơ sở phát sinh của ca Huế. Các
chúa Nguyễn ở Đàng Trong tiếp nối truyền thống thưởng thức âm nhạc ở Đàng Ngoài
mà cho tổ chức các buổi ca nhạc có lời ca ở cung đình. Thú thưởng ngoạn này lúc đầu
chỉ giới hạn ở phủ chúa hoặc các bậc vương công, mãi sau này mới lan ra quần chúng.
Như vậy, tuy không trực tiếp xác định thời điểm và nguồn gốc phát sinh, nhưng giáo sư
đã gián tiếp cho rằng ca Huế phát sinh vào thời điểm các chúa Nguyễn tại vị ở Huế, đó
là bộ môn nghệ thuật được sản sinh ở cung đình.
Đây là đầu mối cho chúng ta tìm sợi dây thời điểm hình thành ca Huế.
Chúng ta cũng cần nhận định rằng, ca Huế là ca nhạc thính phòng, người ca, người đàn
cùng người thưởng thức là những khách tri âm. Đây là một thứ nghệ thuật tao nhã của
tầng lớp tao nhân mặc khách ở chốn cung đình có cuộc sống phong lưu, tâm hồn
khoáng đạt tài năng thiên phú. Xét âm nhạc các bài ca Huế, ta thấy rõ là các giai điệu
hoàn chỉnh. Ca Huế vừa là thanh nhạc vừa là khí nhạc kết hợp với nhau trong một hệ
thống những bài bản cấu trúc chặt chẽ nghiêm ngặt.


Ca Huế là loại ca nhạc cổ điển, nó có cơ hội hình thành ở một vùng đất có điều kiện
kinh tế văn hoá phát triển, giàu có về thơ ca, đầy tính chất trữ tình. Xét về những điều
kiện ấy, Thuận Hóa quả là địa điểm thích hợp nhất hội đủ các yếu tố để ca Huế sống
được và phát triển.
Tuy nhiên, xét về thời điểm hình thành ta lại phải thấy thời điểm đó phải là thời điểm
thuận lợi. Để ấn định được điều này, cần phải trở lại lịch sử của dân tộc.
Thuận Hóa hình thành từ thế kỷ XIV, sau sự kiện Chế Mân dâng hai châu Ô Lý làm
sính lễ cưới Huyền Trân Công Chúa. Nhưng ở giai đoạn này, di dân từ Nghệ Tĩnh vào
cần ổn định chỗ ở và sinh cơ lập nghiệp. Tâm trí và sức lực của họ dồn vào việc bảo vệ
lãnh thổ đất đai, chống đỡ sự xâm lấn của tàn quân Chămpa trở lại quấy rối. Vị trí của
Thuận Hóa lúc đó ngang tầm một châu. Dân cư phần lớn là lớp di dân, trình độ văn hoá
thấp nên phần văn nghệ phát triển chỉ có thể là văn nghệ dân gian. Thời điểm kế tiếp là
cuộc di dân từ Thanh Hóa vào do Nguyễn Hoàng dẫn đầu vào thế kỷ XVI (1558). Giai
đoạn đầu cũng lo bảo vệ lãnh thổ, chống đỡ sự xâm lấn của quân Mạc, quân Trịnh. Thì

giờ rảnh rỗi không nhiều, dinh Chúa lại không ổn định. Từ Ái Tử (thuộc huyện Đằng
Xương gần tỉnh lỵ Quảng Trị) 13 năm sau (1570) lại dời vào Trà Bát ở huyện ấy tức là
Cát Dinh. Đến năm Bính Dần (1626) chúa Sãi sắp chống nhau với chúa Trịnh mới dời
dinh vào làng Phúc An (huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên). Năm Bính Tý (1636)
chúa Thượng lại rời phủ vào Kim Long (Hương Trà, Thừa Thiên). Năm Đinh Mão
(1687) chúa Nghĩa đem phủ vào làng Phú Xuân, là đất kinh thành bây giờ gọi là chính
dinh.
Trong các giai đoạn ấy, thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635) lại bắt đầu
chống quân Trịnh. Kế tiếp các chúa về sau như Nguyễn Phúc Lan (1635 - 1648),
Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) là những năm chống nhau với Trịnh ác liệt. Chiến
tranh Trịnh Nguyễn kéo dài 45 năm (1627 - 1672) khó có điều kiện để an hưởng thú
nghệ thuật tao nhã ở cung đình. Khi chúa Nghĩa Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691) dời
phủ từ Kim Long về Phú Xuân năm 1687, chúa chỉ ở ngôi được 4 năm thì mất. Chúa
Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) kế vị, là vị chúa mộ đạo, có tài văn chương, ham mê
nghệ thuật lại ở ngôi 34 năm nên có đủ thì giờ và điều kiện để nuôi dưỡng và phát triển
ca Huế. Giả thuyết cho rằng ca Huế hình thành dưới đời chúa Nguyễn Phúc Chu là có
cơ sở.
Lịch sử nghệ thuật Đàng Trong cũng từng ghi nhận chúa Nguyễn Phúc Chu là một
người có tài và ham mê trình diễn tuồng. Thích Đại Sán, nhà sư Trung Quốc được chúa
mời sang Việt Nam để hoằng dương đạo pháp đã ghi lại trong “Hải ngoại ký sự” (7)
chính chúa tự mình đánh trống chầu cho đội tuồng trong cung diễn tuồng. Ý kiến cho
rằng chúa là tác giả bài “Ai Giang Nam” (Nam Ai) không phải là không có căn cứ.
Như vậy, có thể xét: ca Huế có nguồn gốc từ lối ca nhạc ở chốn cung đình và đậm đà


chất dân gian từ ngọn nguồn dân tộc, đến đời chúa Nguyễn Phúc Chu thì đã hình thành
rõ nét là một bộ môn nghệ thuật của tầng lớp tao nhân mặc khách, lúc đầu ở dinh thự,
phủ chúa, sau mới lan ra ngoài dân gian.
Cũng cần bàn thêm một ý nữa. Về sinh hoạt ca Huế, chúng tôi nhận thấy có nhiều điểm
tương đồng với ca trù: cũng chung một nguồn gốc là bắt nguồn từ những lối ca vũ

trong cung vua chúa thời xưa. Lối hát Ả Đào có từ đời Lý, thuở ấy những người đi hát
gọi là con hát, chữ Hán là xướng nhi hoặc ca nữ. “Năm Thuận Thiên thứ 16 (1025) vua
Lý Thái Tổ đặt chức Quản giáp cho giới con hát” (8). Thể thức cùng cách thưởng
ngoạn ca trù cũng như ca Huế, ca nhi ngồi mà hát, nhạc công đàn. Số khách thưởng
ngoạn không nhiều chỉ một số bạn hữu, tao nhân, trí thức, lại tổ chức hát trong nhà.
Những cách thức hát ấy chẳng khác gì ca Huế. Các chúa Nguyễn muốn chứng tỏ tinh
thần độc lập ở một vùng văn hoá khác biệt với chúa Trịnh ở miền Bắc nên hết lòng cổ
xúy cho nghệ thuật ca Huế, một thú thưởng ngoạn tao nhã ở chốn kinh kỳ của tầng lớp
thống trị. Về sau, ca Huế ngày càng thịnh đạt, lại ảnh hưởng lan ra Bắc, vào Nam.
Dòng nhạc cổ điển này đã ảnh hưởng đến dân ca quan họ Bắc Ninh và nghệ thuật sân
khấu chèo ở Bắc Bộ. Ca nhạc Huế là nguồn làm nảy sinh hai hình thức âm nhạc cổ điển
được nhân dân địa phương rất ưa thích, đó là đàn Quảng phổ biến ở vùng Nam Trung
Bộ và nhạc tài tử (hay đờn tài tử) phổ biến ở Nam kỳ.
Lòng văn tế tổ ngành cổ nhạc ở Huế có ghi tên tổ sư Bạch Hoa công cháu, vốn là tổ cô
đầu của hát ả đào ở Bắc. Hẳn đó không phải là điều ngẫu nhiên mà do ý thức “Uống
nước nhớ nguồn” của những người hoạt động nghệ thuật ở Huế. Cùng thờ chung một vị
tổ sư, đó là điều trùng hợp giữa ca trù và ca Huế, gợi cho chúng ta một sự liên tưởng về
những điểm tương đồng trong hai bộ môn nhà thơ đầy dân tộc tính này.
Đánh giá về ca Huế, nhạc sỹ Lưu Hữu Phước viện trưởng viện Âm nhạc đã khẳng định:
“Trong toàn bộ vốn ca nhạc cổ truyền của dân tộc, một kho tàng quý báu vô giá là nền
nghệ thuật ca nhạc Huế của chúng ta (…)
Nghệ thuật ca nhạc Huế là một cột mốc lớn đánh dấu một giai đoạn phát triển của văn
hoá dân tộc” (9)
Chúng tôi rất trân trọng sự đánh giá cao về ca Huế của nhạc sỹ Lưu Hữu Phước cùng
những công lao tìm về nguồn gốc về sự hình thành ca Huế của những tác giả đi trước.
1. Giai đoạn hình thành và phát triển ban đầu của ca Huế:
Có thể là từ cuối thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XVIII tại Phú Xuân, nơi đặt thủ phủ của
cháu Nguyễn, thuộc phía Nam kinh thành Huế hiện nay. Chính trong giai đoạn này các
điệu ca Huế lần hồi xuất hiện. Các điệu nổi tiếng như: Cổ bản, Phú lục, Nam ai, Nam
bình đã lưu hành rộng rãi trong dinh phủ chúa. Ca Huế là một bộ môn nghệ thuật độc

đáo bởi lẽ không phải ai ca cũng đúng giọng điệu mà cần phải là người sinh ra trên


vùng đất Trị Thiên mới ca khỏi trại bẹ. Trị Thiên là vùng ngữ âm đặc biệt, có âm vực
cạn hẹp nhất nước. Cụ Ưng Bình đã từng nhận xét:
“Ca mà gọi là ca Huế vì thanh âm người Huế hiệp với điệu ca này, mà phía Bắc xứ Huế
như người Quảng Trị với Quảng Bình cũng ca được. Còn từ Linh Giang dĩ Bắc, Hải
Vân Quan dĩ Nam, dầu có người ca mà ca giỏi thế nào cũng có hơi trại bẹ. Đó là câu
chuyện ai cũng biết rồi” (10).
Xét về mặt âm nhạc, người Huế ca hay hò theo ngũ cung hơi nam giọng ai (đô, rê non,
fa già, sol, lanon). Đây cũng là ngũ cung phát sinh do sự phối hợp giữa ngũ cung đúng
(đô, rê, fa, sol, la) của người Champa, do sự giao lưu văn hoá. Để giải thích hệ quả này,
có giả thuyết cho rằng: Cư dân ở Huế, vốn có gốc là Thanh Nghệ, di dân lập ấp ở Phú
Xuân cùng chung sống với cư dân bản địa Champa quyến rũ, nên mới sáng tác các làn
điệu mang hơi hưởng pha trộn Việt - Chăm. Ưng Bình Thúc Giạ Thị cho ta biết đặc
điểm của ca Huế như sau:
“Điệu ca Chiêm Thành rất ai oán, trong sử đã nói ca Huế là khúc ca Nam, thời Nam
Bình. Nam Ai quả là phổ theo thanh điệu Chiêm Thành mà làm ra, không nghi nữa”
(11).
Ở thời kỳ này, trong âm nhạc truyền thống của ta đã có điệu Bắc và điệu Nam, mà đó là
hai hình thức chính của ca Huế. Các nhạc khí cơ bản của ca Huế như đàn tranh, đàn
nguyệt, đàn nhị, đàn tỳ bà, đàn tam, sáo và sênh đều có mặt.
Vào giữa thế kỷ XVIII, Luân Quốc Công Nguyễn Phúc Tứ - em của Nguyễn Phúc
Khoát, một người rất sành về âm nhạc truyền thống, đã nghiên cứu từ ba cây đàn cầm,
đàn sắt và đàn tỳ bà, mà chế ra một cây đàn mới gọi là đàn nam cầm 8 giây, thùng dày
và vuông, cầm dài 120cm để nhấn nhịp cho đúng với các điệu nam. Ở thế kỷ XIX, đàn
nam cầm sẽ là một nhạc khí quan trọng trong ca nhạc Huế”(12).
Cũng có truyền thuyết cho rằng, nam cầm (có lẽ là đàn bầu, vì trong Nam người ta
truyền rằng đàn bầu có từ thời chúa Nguyễn) là do Nguyễn Phúc Dục, con trai trưởng
của Nguyễn Phúc Tứ chế ra trước (13). Chúng tôi xin ghi lại đây cả hai ý kiến về tác

giả nam cầm để tiện bề tham khảo.
“Vào cuối thế kỷ XVIII một số nhạc sỹ, nhạc công Việt Nam đã nghiên cứu từ cây đàn
nguyệt cầm của Trung Quốc và Mông Cổ để chế ra cây đàn nguyệt Việt Nam mà họ
đặt tên là cây đàn song vận lúc đầu có 4 dây, về sau còn lại 2 dây như đàn nguyệt hiện
đang thông dụng ngày nay. Cùng với đàn nhị, đàn tranh và đàn tỳ bà, đàn nguyệt là một
trong những nhạc khí tiêu biểu trong dàn nhạc của ca nhạc Huế; âm thanh, âm sắc của
nó rất phù hợp với ca nhạc Huế. Có thể xem đàn nguyệt là một trong những cây đàn
“Huế” nhất trong các nhạc khí Việt Nam truyền thống”(14).


Như vậy, có thể nói trong giai đoạn hình thành và phát triển ban đầu này, ca Huế đã có
những bài ca cơ bản về điệu thức Bắc và Nam, đàn Huế và đàn dân tộc đã khá đầy đủ
để đệm hơi cho các nàng ca kỹ; báo hiệu cho giai đoạn phát triển và thịnh đạt của ca
Huế vào thế kỷ kế tiếp.
2. Giai đoạn phát triển và thịnh đạt
Đó là thời kỳ từ khoảng đầu thế kỷ XIX đến trước ngày thất thủ kinh đô (1885).
Lúc bấy giờ, ngoài dân gian cũng như chốn cung đình, ca Huế đã phổ biến rộng rãi.
Trong cung đình có một số bài ca Huế có lời bằng chữ Hán (ví dụ mười bài ngự trong
ca nhạc Huế vừa có lời chữ Hán thông dụng trong cung đình, vừa có lời Nôm thông
dụng trong dân gian). Mười bài ngự (mười bài liên hoàn) do nhạc công trong ban ngự
nhạc của triều đình nhà Nguyễn tấu lên trong những dịp xe vua ra vào cung điện,
nhưng mười bài ngự đó là những bài bản vay mượn từ ca nhạc Huế và bị cung đình
hóa.
Đến năm 1863, một tác giả vô danh đã ghi một tập bài bản ca nhạc Huế (15) khá hoàn
chỉnh gồm 25 tác phẩm: 10 bản có kèm theo lời ca và 15 bản không có lời ca. Tên của
một số bài bản đó là: Lưu Thủy, Kim Tiền, Xuân Phong, Hồ Quảng, Nam Xuân… là
những bài bản giống tên với những bài bản còn thông dụng trong ca nhạc Huế. Bên
cạnh đó những bài bản ngày nay đã thất truyền như: Trường thán, Tự trào, Tư mã
tương như, Tiên nữ tống Lưu Nguyễn, Bá Nha khấp Tử Kỳ v.v…
Đáng chú ý là trong 10 bản có lời ca thì 9 bài có lời bằng chữ Hán, chỉ có bài Trường

thán là có chữ Nôm.
Giai đoạn này có nhiều nghệ nhân nổi tiếng trong dân gian như Đẩu Nương, một ca nhi
ở An Cựu, các nhạc công Biện Nhân, Trần Quang Phổ, Tống Văn Đạt.
Trong cung đình, một số ông hoàng bà chúa con của Minh Mạng (1820-1840) có tài
sáng tác, hay tổ chức các buổi sinh hoạt ca nhạc thính phòng như các ông hoàng Trấn
Biên, Lãng Biên, các công chúa Ngọc Am, Lại Đức (tức Mai Am) đều có sáng tác lời
cho bài bản nhạc Huế. Công chúa Huệ Phố vừa là nhà thơ, vừa giỏi đàn ca, có tập họp
một ban nữ nhạc do chính bà huấn luyện.
Ông hoàng Nam Sách đàn nguyệt rất hay, đã soạn cuốn Nguyệt cầm phổ vào năm 1859.
Cũng trong khoảng thời gian ấy, ông hoàng Miên Thẩm (nhà thơ Tùng Thiện Vương)
soạn cuốn Nam cầm phổ. Ông hoàng Miên Bửu (nhà thơ Tương An quận vương) nổi
danh về đàn tỳ bà và đã đặt lời cho nhiều bài bản ca nhạc Huế.
Năm 1850 ông hoàng Miên Trinh (nhà thơ Tuy Lý Vương) đã sáng tác một bài ca Huế
dài hơn nhan đề là Nam cầm khúc để tiễn bạn là Nguyễn Văn Siêu về Bắc. Khúc nam


cầm này được ca nhi nổi tiếng là Đẩu Nương ca và tự đệm bằng cây nam cầm. Sau khi
Đẩu Nương mất (vào khoảng cuối thế kỷ XIX) đàn Nam cũng thất truyền.
Một số bài bản lớn được sáng tác hoặc được hoàn thiện trong thời đại này, ví dụ như
bài Tứ đại cảnhtương truyền là đã ra đời vào thời Tự Đức (1848-1883).
E.Le Bris, trong bài âm nhạc Việt Nam - Những nhạc sĩ mù ở Huế; bài Tứ đại
cảnh (Musique annamite - les musiciens aveugles de Hue, le Tu dai canh) (16) lại cho
rằng đây là sáng tác của một ông vua đi đánh giặc ở phương Tây, nhưng không xác
định tên vị vua nào. Tác giả viết:
“Ở Huế có một bài mà mọi người Việt đều biết từ anh cu li khốn khó đến ông quan lớn,
đó là bài Tứ đại cảnh “Phong cảnh của bốn thế hệ”(…) Bài này ra đời vào giai đoạn
nào? Không một ai biết chắc. Huyền thoại cho rằng đã qua nhiều thế hệ, một ông vua
đi đánh giặc ở Phương Tây, một ngày kia thấy một cái tháp cổ 400 năm, xây trên một
ngọn đồi mà từ đó ta nhìn thấy một quang cảnh hoành tráng tuyệt diệu. Xúc động trước
quang cảnh kỳ diệu đó ông ta muốn tôn vinh kẻ đã biết xây dựng ở một vị trí thuận lợi

một di tích có khả năng tồn tại bốn thế kỷ, bèn sáng tạo tám trường canh sau đây với
bốn nốt nhạc: “liu, cống, xê, xàng” (16)
Tác giả còn cho biết nội dung “Tứ đại cảnh” nhằm tôn vinh kẻ sáng tạo cái tháp cổ 400
năm, qua bốn thế hệ. Nếu chúng tôi không lầm thì đó là một tháp Chàm. Chúng tôi
nghĩ rằng, đây là một truyền thuyết đáng ngờ về tính xác thực.
Hoàng Yến còn cho ta biết thêm một số nhạc sĩ nổi tiếng khác:
“Ngày xưa, Dùng và Thắm nổi tiếng về đàn dây. Và Tam nổi danh thổi tiêu. Có câu nói
“Xứ An Nam có 4 người nổi tiếng: Ngạn cao cờ, Thiện vẽ giỏi, Tam thổi tiêu và Dùng
hay đờn”.
Sau hai nghệ sĩ này là đến Bền và Nhờn (Nhàn) rồi Tống Văn Đạt. Trong lời tựa của
một tác phẩm về nhạc của mình, ông Hoàng Nam Sách nói: “Đạt là một người đặc tài,
anh chỉ xuất hiện ở những đại gia. Người ta trọng tài anh với cung cách thật đặc biệt”.
Tiếp đến là cậu Ba Toán; Phò Mã 24; Trần Quang Thổ; Đội Chín, con của Đạt; Đội
Phước, con Đội Chín. Đội Chín thừa kế tài năng của cha, thiện nghệ các nhạc cụ dây.
Vua Dực Tôn (Tự Đức) rất ưa thích ông ta. Nhà vua phong làm trưởng đội nhạc công
hoàng gia (Nhạc chánh suất đội). Sau khi ông mất nhà vua thương tiếc không nguôi, ra
lệnh gọi các con ông đến và hỏi trong số đó có ai có thể kế tục người cha. Cậu Đội
Phước rất giỏi các loại đờn dây. Nhà vua cho anh làm suất đội kế chân Đội Chín. Còn
có thể kể thêm: Cậu Thứ, Bá Yến làng Minh Hương; cậu Khánh, cậu Trương Sáu,
thông phán Châu Hữu Ninh, ông bố chánh Trương Trọng Hữu, cậu Cung ở Kim
Luông, tiến sĩ Đỗ Huy Liêu ở Bắc kỳ, cử nhơn Lê Cảnh người Quảng Trị.


Trong số phụ nữ người ta kể bà Thiện trong cung ra, và bà Tứ giỏi tất cả các nhạc cụ”
(17)
Ngoài ra, trong công trình của mình, Hoàng Yến còn kể thêm các ông thông phán Tôn
Thất Toại, giỏi đàn tranh và đàn tỳ bà, ông hoàng Mỹ Hóa nổi tiếng về tiêu, quan thị
Tôn Thất Linh; Hầu Chí, người này chỉ nằm lòng một bài cổ bản, nhưng tài năng ông
được dân chúng ghi nhận bằng câu: “Đờn thì Hầu Chí, hát thì hiệu Giỗ”.
Trong giai đoạn ta thấy rõ ca Huế dần dần đã phổ biến ra ngoài dân gian. Các nhạc

công, nghệ nhân giỏi về đàn của ca Huế đông đảo từ trong cung đình lẫn ngoài dân
gian chứng tỏ sự phát triển sinh hoạt ca nhạc thính phòng từ các dinh phủ của các ông
hoàng đến các gia đình quyền thế. Các ông hoàng bà chúa đều để lại những công trình
nghiên cứu về đàn như Nguyệt Cầm Phổ, Nam Cầm Phổ và sáng tác những bài ca Huế
như Công chúa Ngọc Am, Lại Đức, ông hoàng Miên Trinh, Tương An quận vương
Miên Bửu.
Các vua triều Nguyễn cũng rất thích ca Huế. Trường hợp vua Tự Đức để lại giai thoại
về việc sử dụng các nghệ sĩ dân gian tài hoa làm chức suất đội trưởng điều khiển dàn
nhạc như trường hợp Đội Chín, Đội Phước con cháu Tống Văn Đạt là một trường hợp
cụ thể.
Huế là địa điểm thuận lợi cho sự tập hợp cho một số nghệ nhân giỏi đàn ca xướng hát
trong giai đoạn này. Ca Huế trở thành một nhu cầu văn hoá tinh thần không thể thiếu
được ở chốn kinh đô.
3. Giai đoạn ngưng đọng và suy thoái
Đó là giai đoạn kéo dài từ khi kinh đô thất thủ (1885) đến trước Cách mạng tháng 8
năm 1945.
Thất thủ kinh đô (1885) là một cột mốc đánh dấu sự ngưng đọng, suy thoái của nhiều
bộ môn nghệ thuật ở Huế. Tuồng và ca Huế là hai ví dụ tiêu biểu.
Một nghệ thuật tao nhã như ca Huế làm sao phát triển bình thường trong thời tao loạn,
tối tăm, đồi bại của chế độ nửa thực dân nửa phong kiến.
Trong giai đoạn này, ca Huế dần dần trở thành một thú tiêu khiển đã bị biến chất, đó là
một cách ăn chơi trụy lạc sa đọa của đám bù nhìn tay sai bán nước. Chúng đã biết ca
Huế là một sinh hoạt có tính chất thính phòng, người ca, người đàn cùng thưởng thức là
những khách tri âm. Nhưng trong thời kỳ này, tính chất ấy đã bị biến đổi. Con sông
Hương là nơi lý tưởng cho những lần tập họp khách tao nhân, tài năng thiên phú, nay
cũng con sông ấy, những buổi tổ chức ca Huế đã biến thành những cuộc ăn chơi trác


táng của những người có đồng tiền.
Các nhạc công, ca sĩ lâm vào cuộc sống lầm than bế tắc. Có người bán rẻ tài năng, có

khi bán cả nhân phẩm của mình để mua vui cho bọn người quyền quý giàu sang, lại còn
chịu nhục vì thành kiến “xướng ca vô loại”.
Trong hoàn cảnh ấy, một số lớn những nhạc công ngay thẳng, lương thiện vốn giữ gìn
vốn cổ quý báu của cha ông. Họ nêu cao phẩm tiết chân chính của mình. Ta có thể kể
tên các nhạc sĩ, ca sĩ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đã có công bảo vệ ca nhạc Huế
gồm:
“Trợ quốc khách Ưng Dũng, gọi là Trợ Dõng, con trai ông hoàng Gia Hưng, giỏi đàn
nguyệt. Ông cựu tri phủ Đoàn Diệu, gọi là Phủ Thông, giỏi tiết tấu và hòa điệu. Ông
kiểm thảo Trần Trinh Soạn, thường gọi là Cả Soạn, người làng Minh Hương (Thừa
Thiên) thiện nghệ về đàn tranh và nguyệt. Ông cửu phẩm Nguyễn Chánh Tâm, gọi là
Cửu Tâm giỏi đàn tranh, đàn nguyệt. Ông tuần phủ Nguyễn Khoa Tân, người gốc An
Cựu (Thừa Thiên) giỏi đàn tranh. Ông Ưng Ân, dòng dõi Tuy Lý Vương, ông Khóa
Hài, tên thật là Ngô Phố người làng Bác Vọng (Thừa Thiên) ngụ ở An Cựu, thuộc
nhiều điệu, nhiều bài. Ông Huyện hầu Ưng Biều gọi là Mệ Chín Thành, giỏi tất cả các
loại đờn dây, nhưng nổi tiếng về đờn nhị và độc huyền. Ông Phan Đình Uyển gọi là
cậu Ấm Ba, người Phú Lương (Thừa Thiên) giỏi đàn độc huyền và nổi tiếng về thổi
tiêu.
Đối với nữ nhạc công, người ta có thể kể: Cô Phò 24, vợ góa của Trần Quang Phổ, gốc
người An Cựu (Thừa Thiên) và bà Khỏe, con cậu Cung (người Kim Luông) và vợ của
Đốc Soạn, là những nữ nhạc công giỏi đàn tranh. Ta còn có thể kể cô Phủ Sáu và cô
Trà là những người ca Huế hay” (18).
“Khoảng mươi, mười lăm năm trước Cách mạng tháng 8, người ta thường nhắc tới
những danh cầm, danh ca như:
- Ông Cả Soạn, ông Bảy Thiều, ông Thừa Khiêm, cậu Khóa Hài… nổi tiếng về đàn
tranh.
- Ông Ngũ Đại (tức Vĩnh Trân), cậu Tôn Út… nổi tiếng về đàn nguyệt.
- Ông Hầu Biều (tức Ưng Biều) nổi tiếng về đàn bầu và đàn nhị.
- Ông Lý Vũ, ông Ưng Thông (thân phụ của nhạc sĩ Bửu Lộc) nổi tiếng về đàn nhị.
- Ông Đội Trác, ông Ngũ Đại, ông Trợ Tồn, ông Sơn Huy Nguyễn Ngọc Liệu nổi tiếng
về đàn tỳ bà.



- Cô Nhơn, cô Thông Thắng, cô Tuyết Hương… nổi tiếng về ca Huế.
- Về sáng tác, ông Ưng Bát là tác giả điệu Tương tư khúc ra đời vào những năm 1930.
- Về nghiên cứu lý luận, có những công trình của Di Sơn Ưng Dự như Văn thích lục,
Âm nhạc luận lược… của Hoàng Yến như Âm nhạc ở Huế, Cầm học tầm nguyên” (19).
Chính trong giai đoạn, những con người ấy - bằng nhiệt tâm với vốn cổ âm nhạc cổ
truyền, đã cố gắng hết sức mình để bảo tồn, gìn giữ những nét đẹp mang bản sắc Huế
độc đáo. Mặc dù đất nước đang trong thời kỳ chưa độc lập, tự chủ, ca Huế có lúc đi
chệch hướng, nhưng nhờ sự lưu tâm gìn giữ vốn quý của dân tộc, nên ca Huế vẫn còn
cơ hội hy vọng phục hồi.
4. Giai đoạn tái sinh và phục hưng.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ (1954) ca Huế lại có cơ hội phục hồi.
Tiếp nối truyền thống yêu dân tộc, bảo vệ những di sản quý báu của cha ông, ở vùng bị
tạm chiếm, nhiều nhạc công và ca sĩ yêu nước đã có những cố gắng để bảo vệ ca Huế.
Hành động này nhằm chống lại ảnh hưởng lai căng, đồi trụy, chống lại âm mưu thủ
đoạn, nhằm lợi dụng mua chuộc, tha hóa nhằm biến ca Huế thành một thú tiêu khiển
trụy lạc hay một công cụ chiến tranh tâm lý. Họ đã thành lập những ban nhạc, hội âm
nhạc, nhạc viện tư nhân góp phần duy trì bảo vệ ca Huế như nhạc sĩ Bửu Lộc lập ban
Hương Bình, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba lập viện Tỳ Bà ở Huế, và ở Sài Gòn, các nhạc sĩ
Tôn Thất Toàn, Viễn Dung lập hội Ái hữu cổ nhạc miền Trung. Tục lệ tế tổ ngành ca
nhạc Huế được duy trì tại từ đường cổ nhạc ở Huế từ năm 1971.
Ở miền Bắc, nhiều nghệ nhân trước đây là những diễn viên, nhạc công ở các gánh hát
ca Huế. Sau hòa bình lập lại năm 1954 đã tập kết ra Bắc. Họ bán tài sản riêng của mình
để chiêu mộ lực lượng, thành lập ra đoàn ca kịch Huế vào hoạt động biểu diễn nghệ
thuật phục vụ tại tuyến lửa Vĩnh Linh. Một trong những phương châm của đoàn là: Bảo
vệ và phát huy vốn nghệ thuật truyền thống của dân tộc, mà ca Huế là loại hình nghệ
thuật độc đáo, là sản phẩm tinh thần của nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế. Rất nhiều
nghệ sĩ ca Huế đã trưởng thành trong thời kỳ này.
Sau ngày đất nước thống nhất năm 1975, đoàn trở về quê hương, trở thành đoàn ca kịch

Bình Trị Thiên (sau chia tỉnh 1989), nay là đoàn Ca kịch Huế.
Từ 1993, đoàn có chủ trương xé lẻ để các diễn viên có thể diễn ca Huế trên sông, phục
vụ khách du lịch. Các diễn viên nhạc công của Huế cùng tham gia mới đáp ứng được
yêu cầu sau khi Huế được thế giới công nhận là di sản văn hoá của nhân loại vào tháng
12-1993. Có nhiều ý kiến cho rằng nghe ca Huế như thế nhộn nhạo quá, mất hẳn sự
thanh thản, yên tĩnh của tiếng hò sông nước và giai điệu cổ của những bài ca cũng ít


nhiều bị phá đi tiết tấu xưa. Đó là một vấn đề của hoạt động ca Huế thời hiện đại.
Các nhân vật nổi tiếng trong giai đoạn này có thể kể Ưng Quả viết tập nghiên cứu về ca
Huế (đã thất truyền trong cuộc chiến 1947), Ưng Bình Thúc Dạ Thị sáng tác các bài ca
Huế đăng trong tập Bán buồn mua vui, Vu Hương, Kiều Khê, Thanh Tùng sáng tác các
bài ca Huế trong tập Cố Đô Huế.
Ngoài ra các cụ Hà Viên, Kính Chỉ, Hỷ Thần, Lương Khanh, Nhược Thủy, Diên Chi,
Hòe Đình, Quật Đình là những người có tài sáng tác ca Huế.
Về danh cầm phải kể ông Đội Song, cậu Tôn Đổng, cậu Tôn Lục, ông Mộng Tiên, ông
Vân Hán, ông Bửu Huấn, ông Văn Tạ, ông Tôn Thất Toàn, ông Vĩnh Trân, ông Bửu
Lộc (thạo đàn tranh), ông Nguyễn Hữu Ba (thạo đàn nhị), ông Vĩnh Phan, ông Nguyễn
Kế (thạo đàn tỳ). Về danh ca cần nhắc đến tên các cô Ninh, Dung, Bạch Liên, Sâm,
Quyến, Châu Loan, Thu, Tuyết, Bích Liễu, Thu Tâm, Vân Phi, Minh Tâm, Thanh Tâm,
Vân Khánh, Châu Dinh, Ngọc Yến, Minh Mẫn, Thanh Hương v.v…
Đó là một số gương mặt tiêu biểu trong giai đoạn đất nước trải qua nhiều biến động
lịch sử. Đến bây giờ, ca Huế vẫn còn có cơ hội để tái sinh. Ca Huế trên thuyền rồng là
một sinh hoạt tuy lấy hình thức cũ nhưng đã cải tiến cho phù hợp với thời đại mới. Hy
vọng sau bao chuyển đổi, ca Huế có điều kiện trở lại với khán giả đất thần kinh trong
tinh thần mới, ngày đất nước hoàn toàn thống nhất.
T.T.B.
(121/03-99)
------------1. Văn Lang: ca Huế và ca kịch Huế - Nxb Thuận Hóa 1993, tr 9-10
2. Ưng Bình Thúc Giạ Thị: Bán buồn mua vui. Khánh Quỳnh xb 1942 tr 5

3. Thái Văn Kiểm: Cố đô Huế. Bộ Quốc Gia Giáo dục xb 1960, tr 186-187.
4. Lê Văn Hảo: Huế giữa chúng ta, nxb Thuận Hóa, 1984, tr 141.
5. Văn Thanh: ca Huế. Sở VHTT Bình Trị Thiên, 1989, tr 11.
6. Trần Văn Khê: Bách khoa, số 101-102, 1961.
7. Thích Đại Sán: Hải ngoại ký sự. Viện Đại học Huế, 1967.
8. Khâm định Việt sử: quyển 2, tr 32.
9. Phát biểu trong nhạc hội ca nhạc Huế lần thứ nhất tổ chức tại Huế - 1977.
10. Ưng Bình Thúc Giạ Thị: Sách đã dẫn, tr 3.
11. Ưng Bình Thúc Giạ Thị: Sách đã dẫn, tr 4.
12. Tuy Lý Vương: Nam cầm khúc - Hồng Sâm dịch, Bửu Cầm chú thích. Nxb Tinh
Hoa - Huế, 1949, tr VIII.
13. Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam liệt truyện, Nxb Thuận Hóa, 1993, tập I, tr
47.


14. Lê Văn Hảo: Góp phần tìm hiểu ca nhạc Huế, Tạp chí Văn nghệ, số 9, tháng 71978, tr 74.
15. Tài liệu riêng của ông Hoàng Xuân Hãn ở Paris.
16. E.Le Bris - Musique annamite - les musiciens aveugles de Hue, le Tu dai canh. B.A,
V.H, 1972, tr 143.
17. Hoàng Yến: La musique à Hue - đờn nguyệt et đờn tranh B.A.V.H.H, No Juillet Septembre 1919 tr 258-259 - Bản dịch.
18. Ghi theo Hoàng Yến: Bài đã dẫn, tr 260.
19. Lê Văn Hảo: Góp phần tìm hiểu ca nhạc Huế - Tạp chí Văn nghệ số 9, tháng 7 1978, tr 75-76.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×